MỤC LỤC
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
IV. Giả thiết khoa học
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
VI. Giới hạn của đề tài
VII. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Cơ sở lý luận của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá
II. Thực tiễn của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho
trẻ mẫu giáo
CHƯƠNG II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HÀNH VI GIAO
TIẾP CÓ VĂN HOÁ CHO TRẺ MẪU GIÁO NHỠ 4 - 5 TUỔI
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho
trẻ mẫu giáo nhỡ
CHƯƠNG III: THỰC NGHIỆM VÀ PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM
(kết quả đánh giá thực nghiệm)
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
1
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Đất nước ta bước sang một thiên niên kỷ mới, một thời kỳ đổi mới nền
kinh tế xã hội đòi hỏi phải có con người mới xã hội chủ nghĩa - đó là những
con người có nhận thức đúng đắn, có quan điểm sống tích cực để điều chỉnh
hành vi của mình cho phù hợp với xã hội.
Giáo dục mầm non là nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, đối tượng
của giáo dục mầm non là trẻ em từ 0 đến 6 tuổi. Đây là một thực thể tự nhiên,
bước đầu vào xã hội, dần dần trở thành “người”, trở thành con người có ích cho xã
hội, chiến lược giáo dục con người mới trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi nâng cao
hơn nữa chất lượng giáo dục về mọi mặt. Chính vì vậy việc giáo dục hành vi giao
tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo vô cùng quan trọng và cần thiết, nó tạo ra những
tiền đề đầu tiên cho sự hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Nếu
như ta không tiến hành giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non thì sang giai đoạn sau khó
có thể hình thành cho trẻ những nét phẩm chất tâm lý đạo đức bền vững để lĩnh
hội những tri thức chuẩn mực xã hội.
Trong thực tiễn hiện nay, việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho
trẻ được chú ý đến, mặc dù ngành học mầm non đã đưa nội dung chương trình
giáo dục lễ giáo đã được nhiều năm nay nhưng nội dung giáo dục chưa đầy
đủ. Các biện pháp giáo dục của giáo viên còn mang tính áp đặt, tản mạn,
không lô gích, gò ép trẻ. Chính vì thế hiệu quả của giáo dục hành vi giao tiếp
có văn hoá cho trẻ chưa cao đặc biệt là cho trẻ mẫu giáo nhỡ. Nhiều trẻ ở độ
tuổi này chưa có thái độ ứng xử đúng trong khi giao tiếp cho phù hợp với
chuẩn mực xã hội, nhận thức đúng sai còn hạn chế. Chính vì thế qua thời gian
học tại khoa Giáo dục mầm non - Trường đại học sư phạm Hà Nội tôi đã được
các thầy cô giáo giảng dạy hướng dẫn cho thấy rõ việc giáo dục thế hệ trẻ ở
lứa tuổi mầm non cần được chăm sóc giáo dục để tạo nên những con người
mới xã hội chủ nghĩa có phẩm chất đạo đức, có khả năng và có thể lực cường
tráng để phù hợp với thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục “giáo dục hành vi giao tiếp có
văn hoá cho trẻ” tôi chọn đề tài:
“Một số biện pháp để luyện phát âm đúng cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4 - 5
tuổi ở Huyện Yên Thuỷ - Tỉnh Hoà Bình” nhằm chỉ ra những biện pháp cụ thể,
xây dựng những tiêu chí hợp lý góp phần nhân cách hiệu quả giáo dục hành
2
vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ tạo cơ sở ban đầu để hình thành và phát triển
nhân cách toàn diện cho trẻ.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Nhằm mục đích làm tốt công tác luyện phát âm của trẻ mẫu giáo nhỡ ở
huyện Yên Thuỷ - Hoà Bình
III. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
1. Khách thể nghiên cứu:
Giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mầm non
2. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu
giáo nhỡ.
IV. GIẢ THIẾT KHOA HỌC
Để nâng cao hiệu quả giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu
giáo nhỡ, giáo viên mầm non cần động viên khuyến khích trẻ tham gia tích
cực vào các hoạt động và giao tiếp bằng cách phối hợp các biện pháp giáo
dục dưới nhiều hình thức khác nhau.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận.
2. Tìm hiểu thực trạng của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá
cho trẻ mẫu giáo nhỡ.
3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục hành vi
giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo.
VI. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ
mẫu giáo nhỡ ở huyện Yên Thuỷ - Hoà Bình
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành điều tra và làm thực nghiệm tại một số trường mầm
non trong địa bàn huyện Yên Thuỷ - Hoà Bình. Trong quá trình nghiên cứu đề
tài này chúng tôi đã sử dụng một số biện pháp sau:
1. phương pháp điều tra bằng ankét
Chúng tôi điều tra 30 giáo viên ở 2 trường mầm non trong huyện Yên
Thuỷ - Hoà Bình : trường mầm non thuộc khu vực huyện Yên Thuỷ - Hoà
Bình và trường mầm non xã Yên Lạc huyện Yên Thuỷ - Hoà Bình.
Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm mục đích tìm hiểu nhận thức
và đánh giá của giáo viên về vấn đề giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho
3
trẻ mẫu giáo nhỡ với những thế hệ câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn và yêu cầu
giáo viên trả lời.
2.Phương pháp thực nghiệm.
Dùng phương pháp này nhằm để kiểm nghiệm các biện pháp đã nêu có
liên quan đến giả thiết của đề tài. Chúng tôi tiến hành ở lớp mẫu giáo nhỡ A
trường mầm non khu vực với thời gian 2 tháng từ ngày 1/11/2003 đến ngày
1/1/2004. Số cháu của lớp A có 28 cháu, các cháu còn lại là con em xung
quanh thị trấn huyện Yên Thuỷ. Tôi chọn 25 cháu đi học đều thường xuyên,
có sức khoẻ bình thường để làm nhóm thực nghiệm; Tại lớp mẫu giáo B có
30 cháu đều là con em xung quanh thị trấn Yên Thuỷ, tôi chọn 25 cháu đi học
đều, sức khoẻ bình thường để làm nhóm đối chứng.
Nhìn chung các cháu ở 2 nhóm này có tình trạng sức khoẻ ngang nhau,
mức hình thành hành vi văn hoá như nhau.
III. Phương pháp quan sát:
a. Đối với giáo viên : Chúng tôi đã quan sát giáo viên trong quá trình tổ
chức sinh hoạt hàng ngày cho trẻ và kết hợp trao đổi về vốn kinh nghiệm để
giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ.
b. Đối với trẻ: Chúng tôi quan sát quá trình hoạt động của trẻ trong khi
thực hiện chế độ sinh hoạt hàng ngày, kết hợp trò chuyện với trẻ để đánh giá
mức độ hình thành thói quen giao tiếp có văn hoá.
4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Chúng tôi đã tổng kết một số kinh nghiệm thông qua báo cáo tổng kết
cuối năm của một số trường mầm non của huyện Yên Thuỷ đã thực hiện
xong chuyên đề lễ giáo và tìm hiểu kinh nghiệm giáo dục qua một số giáo
viên có quá trình công tác lâu năm ở trường mầm non khu vực và trường mầm
non xã Yên Lạc.
5. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài.
4
PHẦN II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I :
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
HÀNH VI GIAO TIẾP CÓ VĂN HOÁ CHO TRẺ MẪU GIÁO
NHỠ.
I. Cơ sở lý luận của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn
hoá cho trẻ mẫu giáo
1.Các khái niệm:
1.1 Văn hoá là gì?
Khi nói đến văn hoá có rất nhiều nhà lý luận văn học đề cập đến và họ
đã định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Nhưng nhìn chung “văn hoá là toàn
bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử của mình”.
Theo nghĩa rộng, văn hoá bao gồm cả văn hoá vật chất lẫn văn hoá tinh
thần; còn theo nghĩa hẹp văn hoá chỉ liên quan đến đời sống hàng ngày và do
con người tạo ra. Văn hoá bao giờ cũng gắn với những xã hội, dân tộc, thời kỳ
lịch sử. Có văn hoá thời cổ đại, văn hoá thời Phục hưng, văn hoá thời Trung
đại, văn hoá Việt Nam,văn hoá Trung Quốc… Văn hoá là do con người sáng
tạo ra, có thể nói rằng con người sinh ra và trưởng thành trong xã hội nào thì
chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi nền văn hoá của xã hội đó. Thậm chí cho dù có
một thời gian dài sống tách khỏi xã hội thì con người vẫn tư duy và hành
động theo những khuôn mẫu, tác phong, nề nếp quen thuộc. Nhân cách của
mỗi thành viên trong một cộng đồng bao giờ cũng mang dấu vết bản sắc văn
hoá dân tộc.
1.2 Hành vi:
Những người theo chủ nghĩa hành vi quan niệm hành vi chỉ đơn thuần
là tổng các phản ứng máy móc đáp lại kích thích, họ cho rằng cứ có kích thích
là có phản ứng. Họ coi “Hành vi chỉ là các cử động bên ngoài hoàn toàn
không liên quan gì tới ý thức được coi là cái bên trong”. Với họ hành vi được
thực hiện không có sự tham gia của chủ thể, của nhân cách, chủ thể không
kiểm soát được hành vi của mình.
Tâm lý học Macxit cho rằng hành vi con người hoàn toàn khác, hành vi
con người là cuộc sống là lao động, là thực tiễn và hành động, hành vi con
người được thể hiện bên ngoài của hành động được điều chỉnh bởi cấu trúc
bên trong của chủ thể, của nhân cách.
5
Theo Vưgotxiki- nhà tâm lý học Xô Viết lỗi lạc thì có sự khác biệt về
chất giữa cấu trúc hành vi động vật với cấu trúc hành vi người. Ông cho rằng
nếu như ở động vật có hai loại hành vi (kinh nghiệm di truyền kết hợp với tự
tạo) thì ở con người ngoài hai hành vi trên thì còn có kinh nghiệm lao động,
kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm xã hội. Ông còn khẳng định rằng trong cấu
trúc hành vi người thì lao động giữ vai trò chủ đạo vì trong kinh nghiệm có
vấn đề gì thì truyền lại cho đời sau. Hành vi con người được các nhà tâm lý
học phân loại theo nhiều cách khác nhau : Như hành vi có nguồn gốc bên
ngoài và hành vi có nguồn gốc bên trong; cũng có nhà tâm lý học đã phân biệt
hành vi thành 3 loại khác nhau theo bản chất tâm lý học. Đó là hành vi bản
năng, hành vi kỹ xảo và hành vi lý trí.
Trong giáo dục học người ta thường quan tâm đến hành vi đạo đức. Đó
là những hành động được thúc đẩy bằng các động cơ đạo đức, đem lại những
kết quả có ý nghĩa đạo đức và được đánh giá bằng những phạm trù đạo đức.
Hành vi đạo đức gồm 2 thành phần : Hành động đem lại những kết quả có ý
nghĩa đạo đức với tư cách là mặt biểu hiện bên ngoài; thái độ (mục đích, ý
định, động cơ) thấm nhuần ý thức đạo đức với tư cách là mặt kích thích bên
trong. Như vậy, khi đánh giá con người có hành vi đạo đức hay không thì
không những ta phải xem xét người đó hoạt động như thế nào, có phù hợp với
chuẩn mực đạo đức xã hội hay không mà còn phải xem xét người đó hoạt
động với động cơ đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực? Cũng như khi giáo dục
hành vi văn hoá cho trẻ điều quan trọng là không ngừng tạo ra những hoạt
động phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội và xây dựng động cơ hoạt
động có đạo đức cao.
1.3. Văn hoá hành vi
Theo quan điểm Mác xít coi văn hoá hành vi là toàn bộ những hình thức
hành vi, lối sống giao tiếp hàng ngày của con người lao động mà các chuẩn
mực đạo đức và thẩm mỹ bao trùm lên các hình thức ứng xử ấy. Nếu các
chuẩn mực đạo đức quy định hành vi ấn định cụ thể con người cần phải làm
gì thì văn hoá hành vi vạch rõ cụ thể phải làm bằng cách nào. Các yêu cầu đạo
đức tồn tại trong hành vi. Hình thức bên ngoài của hành vi con người ra sao,
trong phạm vi nào - các chuẩn mực này hoà nhập một cách hữu cơ tự nhiên và
đương nhiên với hình ảnh của nó trong cuộc sống để trở thành các quy tắc
sống hàng ngày. Vì thế, văn hoá hành vi còn được coi là văn hoá bên ngoài để
phân biệt với văn hoá bên trong của con người bao gồm thế giới quan, niềm
tin đạo đức, trình độ phát triển chung, kiến thức, hứng thú, nhu cầu…
6
Giữa văn hoá bên trong và văn hoá bên ngoài của con người có mối liên
hệ chặt chẽ, một sự thống nhất xác định. Mối quan hệ đó rất phức tạp và biện
chứng có tính hai chiều. Văn hoá bên trong tuy quan trọng nhưng nó cần được
biểu hiện ra bằng hành động cụ thể dưới những hình thức hành vi nhất định.
Văn hoá bên trong quy định hành vi bên ngoài của con người. Hình thức hành
vi là sự phản ánh cái bên trong chụi sự quy định của cái bên ngoài nhưng
đồng thời nó lại tác động trở lại thế giới bên trong của chủ thể.
Sự luộm thuộm trong sinh hoạt, thô lỗ cục cằn, thiếu tế nhị trong giao
tiếp dần dần sẽ tạo nên những thói quen và phẩm chất cá nhân tương ứng. Vì
vậy, sẽ là sai lầm nếu cho rằng phẩm chất bên trong mới là phẩm chất thực,
còn hành vi bên ngoài chỉ là lớp vỏ hình thức. Chính quan niệm sai lầm này
đã dẫn đến việc coi thường tuân thủ các hành vi văn hoá cũng như dẫn đến
việc thiếu quan tâm giáo dục văn hoá hành vi cho thế hệ trẻ. Đồng thời, chống
lại khuynh hướng giáo dục này sẽ tạo ra một thế hệ con người giả dối, tham
lam ích kỷ. Những kẻ như vậy sẽ tạo ra một xã hội lừa bịp, giả tạo.
Trong thực tiễn có thể xảy ra trường hợp một người có bản chất xã hội
tốt nhưng trong giao tiếp hàng ngày lại vụng về, nếu là lãnh đạo thì thiếu quan
tâm đến người khác. Ở đây bản chất xã hội của con người với các hành vi
không có sự kết hợp chặt chẽ với nhau. Nếu người đó được giáo dục tốt tất sẽ
có những kỹ năng giao tiếp tốt.
* Tóm lại: văn hoá hành vi là một phần của đạo đức, giáo dục văn hoá
hành vi là một trong những mặt giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo.
1.4 Giao tiếp:
Có nhiều quan điểm khác nhau về giao tiếp nhưng nổi bật là hai trường
phái tâm lý học Xô Viết sau:
- Trường phái A. A Leonchep quan niệm giao tiếp là hệ thống những
quá trình có mục đích và có động cơ đam bảo sự tương tác giữa người này với
người khác. Trong hoạt động thực tiễn các quan hệ xã hội nhân cách và các
quan hệ tâm lý sử dụng các phương pháp đặc thù mà trước hết là ngôn ngữ .
Ông cho rằng giao tiếp có cấu trúc chung của hoạt động, giao tiếp nào cũng
có động cơ quy định sự hình thành và phát triển của nó và cũng đều được tạo
ra bởi các hành động và thao tác. Họ cho rằng giao tiếp nào cũng mang đặc
tính của hoạt động tức là cũng có cụ thể nhằm vào một đối tượng nào đó để
tạo ra một sản phẩm.
- Phái limtop cho rằng: Giao tiếp không phải là một dạng hoạt động mà nó
là một phạm trù tương đối độc lập trong tâm lý học bên cạnh phạm trù hoạt động.
7
- ở Việt Nam cũng có một số tác giả đưa ra những quan niệm riêng của
mình về giao tiếp như :
+ Đinh Trọng Lạc cho rằng giao tiếp là sự tiếp xúc với nhau giữa cá thể
này với cá thể khác trong một cộng đồng xã hội .
Căn cứ vào cuộc sống giao tiếp người ta phân giao tiếp ra làm nhiều
loại như giao tiếp bằng ngôn ngữ , phi ngôn ngữ, bằng tín hiệu, gián tiếp, trực
tiếp, giao tiếp gián tiếp…Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng
đứa trẻ lớn lên trong điều kiện (đón giao tiếp) đều bị trì trệ trong sự phát triển
tâm lý và thể chất.
1.5. Hành vi giao tiếp có văn hoá.
Hành vi giao tiếp có văn hoá là biểu hiện trình độ văn hoá giao tiếp của
con người, nó thể hiện các nét tính chất và kỹ năng đặc trưng như sau: Tôn
trọng con người, có thiện chí tốt, quan tâm chú ý đến người khác, nhân hậu độ
lượng lịch sự và cư xử khéo léo khi giao tiếp, không định kiến với ý kiến của
người khác và biết lắng nghe ý kiến của người khác.
Hành vi giao tiếp có văn hoá đòi hỏi con người phải biết vận dụng các
quy tắc giao tiếp chung một cách đúng đắn linh hoạt và sáng tạo, phù hợp với
những tình huống giao tiếp rất cụ thể trong đời sống hàng ngày với các đối
tượng giao tiếp khác nhau.
Hành vi giao tiếp có văn hoá đòi hỏi con người phải biết lựa chọn và sử
dụng các phương tiện giao tiếp một cách có văn hoá phù hợp với hoàn cảnh
giao tiếp, mục đích giao tiếp, đề tài và đối tượng giao tiếp. Ngôn ngữ giao tiếp
không dài dòng, lôi thôi luộm thuộm, không rườm rà, sáo rỗng mà trước hết
phải ngắn gọn, giản dị, rõ ràng và dễ hiểu, có nội dung tư tưởng và tình cảm
đúng đắn. ngôn ngữ giao tiếp còn biểu hiện ở cách phát âm không nói ngọng,
nói lắp, nói tục… mà phải nhẹ nhàng ân cần cởi mở, thân mật với những
người ít tuổi hoặc cùng tuổi; tôn trọng lễ phép với người lớn.
2. Hành vi giao tiếp văn hoá
2.1 ý nghĩa của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo.
Văn hoá giao tiếp của trẻ mầm non là thể hiện hành vi của trẻ thực hiện
các quy định về giao tiếp với bạn bè, với em nhỏ, người lớn trên cơ sở tôn
trọng và thiện chí kết hợp với khả năng sử dụng vốn từ, các hình thức đối xử
phù hợp.
Giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ có ý nghĩa rất to lớn, nó
giúp trẻ giao tiếp nhẹ nhàng, dễ chịu, lịch sự… giúp các thành viên trong gia
đình và xã hội xích lại gần nhau hơn, hiểu nhau hơn. Con người hơn động vật
8
ở chỗ là có ngôn ngữ nói với nhau. Qua giao tiếp trẻ hiểu nhau, thông cảm
cho nhau và biết cách giúp đỡ nhau. Đông thời cũng chính bằng ngôn ngữ
giao tiếp trẻ lĩnh hội được những tinh hoa của dân tộc, lĩnh hội được kinh
nghiệm sống, biết trao đổi những suy nghĩ, tâm tư và tình cảm với nhau.
Nếu sinh ra một đứa trẻ khuyết tật không nói được thì sẽ không hiểu
được những gì đã, đang và sẽ xảy ra xung quanh.
Ngày nay nền kinh tế thị trường có nhiều biến động dễ tạo ra những
người có lối sống ích kỷ, tham lam chỉ biết có bản thân mình mà không nghĩ
tới người khác. Xã hội ta đang trong thời kỳ đổi mới, mở rộng giao lưu với
các dân tộc trên toàn thế giới, việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho
trẻ mầm non càng trở nên cấp thiết. Văn hoá giao tiếp đòi hỏi ở trẻ không
những biết hoạt động phù hợp mà còn phải biết kiềm chế hành động, lời nói
đúng lúc, đúng chỗ. Trẻ nhỏ cần học quan sát trạng thái của người lớn khi
giao tiếp, văn hoá giao tiếp nhất thiết phải có ngôn ngữ mạch lạc, muốn vậy
trẻ phải có vốn từ phong phú, nói ngắn gọn dễ hiểu để giao tiếp.
* Tóm lại: Hành vi giao tiếp có văn hoá của trẻ rất quan trọng khi bước
vào trường phổ thông, nó cần biểu hiện trình độ cụ thể về văn hoá giao tiếp
của mỗi con người.
2.2 Nhiệm vụ giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mầm non.
Các nhà tâm lý học Xô Viết cũng đã chỉ ra rằng việc trẻ không nắm
vững các chuẩn mực và quy tắc cần thiết có thể làm cho các em phán đoán
lệch lạc về những người xung quanh hoặc đánh giá không đúng, không chính
xác các hành vi của bản thân mình.
Ngược lại có những trẻ nắm vững chuẩn mực và quy tắc hành vi giao
tiếp có văn hoá lại có những hành vi giao tiếp không đẹp, nguyên nhân chính
là do các em bị thiếu hụt những kỹ năng, thói quen hành vi giao tiếp có văn
hoá.
Nhà giáo dục học nổi tiếng như A.X Macorenco và Usinki đã nhấn
mạnh đến vai trò cuả thói quen trong việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn
hoá là buộc trẻ phải thực hiện thường xuyên và lặp đi, lặp lại nhiều lần để
hình thành thói quen đó. Động cơ thúc đẩy những hành vi đó là nhiệm vụ của
việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mầm non.
2.2.1 Giúp cho trẻ hiểu được và nắm được nội dung một số chuẩn mực
và quy tắc hành vi giao tiếp có văn hoá đơn giản phổ biến, cấp thiết nhất, phù
hợp với lứa tuổi mẫu giáo nhỡ như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi…
2.2.2 Bồi dưỡng cho trẻ những tình cảm và thái độ:
9
- Tự tin, tự chủ, tự trọng khi giao tiếp.
- Yêu thương, tôn trọng có lòng vị tha đối với mọi người.
- Muốn đem nguồn vui, niềm hạnh phúc đến cho người khác.
2.2.3 Hình thành ở trẻ các kỹ năng.
- Biết đánh giá hành vi của mình và những người xung quanh.
- Thực hiện các chuẩn mực và quy tắc hành vi giao tiếp có văn hoá
trong tình huống giao tiếp hàng ngày.
3. Đặc điểm và quá trình hình thành phát triển hành vi giao tiếp có văn
hoá cho trẻ mầm non.
3.1 Đặc điểm phát triển của trẻ mầm non nói chung và phát triển hành
vi giao tiếp có văn hoá nói riêng.
Trẻ em ở thời kỳ này có đặc điểm rất dễ uốn nắn về chuẩn mực hành vi
giao tiếp có văn hoá và có nhịp độ phát triển nhanh về ngôn ngữ, nhịp độ phát
triển nhanh như vậy không còn thấy ở những năm tháng về sau. Ở giai đoạn
này, trẻ em có những đặc điểm, những quy luật phát triển độc đáo, không
giống bất cứ một giai đoạn phát triển nào sau này, giáo dục trẻ ở lứa tuổi này
là giúp cho việc xây dựng những cơ sở ban đầu của nhân cách trẻ.
Tuy nhiên, mỗi em bé sẽ trở thành người theo một con đường riêng và
sống cuộc đời riêng của mình với những đặc điểm mà chỉ riêng mình mới có.
Những đặc điểm riêng này có ngay từ khi sinh ra và được phát triển theo thời
gian để trở thành nhân cách không giống bất cứ một ai khác. Vì vậy, chúng ta
tránh lối giáo dục áp đặt, dập khuôn, máy móc.
Với trẻ mẫu giáo kinh nghiệm sống còn quá ít cho nên chúng dễ dàng
chấp nhận mọi chuẩn mực và quy tắc của người giáo viên đề ra, và dần dần
trở thành thói quen, nếu hàng ngày trẻ được thực hiện và được lặp đi, lặp lại
nhiều lần, ở giai đoạn này nếu nhà giáo dục không quan tâm đến chúng từ nhỏ
thì sau này sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc giáo dục hành vi giao tiếp có
văn hoá.
Trẻ ở lứa tuổi này dễ xúc cảm với nhân vật có đức tính hiền lành, nhân
hậu như cô Tấm, công chúa và trẻ căm ghét những nhân vật độc ác gian dối
như mụ dì ghẻ, mụ phù thuỷ… Các em rất hào hứng thích thú khi được nhập
vai anh gà trống, thỏ nâu… rất dễ thương, dũng cảm biết giúp đỡ bạn khi gặp
khó khăn. Nếu ta dùng hình thức nhẹ nhàng như đóng kịch hoặc kể chuyện thì
sẽ gây cho trẻ những hứng thú đặc biệt và trẻ thể hiện tình cảm của mình một
cách tự nhiên.
10
Với những đặc điểm trên, nhà giáo dục gặp nhiều thuận lợi trong việc
giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ nói chung và hành vi giao tiếp
nói riêng. Do đó, nhà giáo dục phải có phương pháp tổ chức cho trẻ rèn luyện
kỹ năng và thói quen giao tiếp có văn hoá một cách có hệ thống. Đồng thời,
thường xuyên nhắc nhở kiểm tra đôn đốc trẻ thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi
trong sinh hoạt hàng ngày. Đặc biệt, ở lứa tuổi này trẻ hay bắt chước người
lớn nhất là mẹ và cô giáo vì đây là hai người mà trẻ yêu quý nhất. Vì vậy,
người lớn nói chung và người mẹ và cô giáo nói riêng là phải gương mẫu thực
hiện các chuẩn mực hành vi giao tiếp có văn hoá đối với người xung quanh,
đó là cách giáo dục tốt nhất.
Tóm lại: Với các đặc điểm thuận lợi trên, nếu ta không chú ý giáo dục
hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ ở lứa tuổi này thì chúng sẽ bị thiếu hụt
kiến thức và thói quen giao tiếp. Việc bổ xung, sửa đổi những những thói
quen xấu ở giai đoạn sau sẽ gặp nhiều khó khăn, phức tạp và không đem lại
kết quả.
3.2 Quá trình phát triển giao tiếp của trẻ đối với người lớn.
Giao tiếp của trẻ với người lớn thực sự quan trọng đối với trẻ mầm non
vì đây là thời kỳ hình thành và phát triển nhân cách.
Người lớn đối với trẻ luôn là những người gần gũi, cụ thể với chúng
như ông bà, bố mẹ, anh chị, cô giáo và những người xung quanh. Trẻ càng
nhỏ càng ít hiểu biết về thế giới xung quanh nên việc giao tiếp giữa những
người lớn với trẻ là rất quan trọng. Các hình thức giao tiếp giữa người lớn và
trẻ em bao gồm:
- Giao tiếp xúc cảm trực tiếp: Đây là hình thức giao tiếp đầu tiên của trẻ
với người lớn, hình thức giao tiếp này tồn tại trong một thời gian ngắn (2 - 6
tháng) nhưng nó giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của trẻ. Nhờ tiếp
xúc vơi người lớn trẻ bắt đầu chú ý tới các sự vật, hiện tượng xung quanh, dần
dần có mong muốn chia sẻ với người lớn về xúc cảm của chúng và đồng cảm
với họ.
Do vậy, mối quan hệ giữa trẻ và người lớn được hình thành trẻ có thêm
niềm tin vào bản thân, có thái độ tốt với mọi người và thế giới xung quanh.
- Hình thành giao tiếp công việc - tình huống: Thời gian xuất hiện hình
thức này là lúc trẻ bắt đầu để ý và tìm kiếm các đồ vật để thực hiện các hành
động đơn giản đối với chúng. Hình thức giao tiếp này được thể hiện rõ nhất
giai đoạn 6 tháng đến 3 tuổi. Tuy nhiên, có thể gặp hình thức giao tiếp này ở
cuối giai đoạn mẫu giáo, hình thức giao tiếp này đã đưa hoạt động có đối
11
tượng đến với hoạt động với đồ vật trở thành hình thái hoạt động chủ đạo ở
lứa tuổi này và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tâm lý của trẻ.
- Hình thức giao tiếp nhận thức ngoài tình huống:
Hình thức giao tiếp này xuất hiện nhờ sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ở
giai đoạn đầu tuổi mẫu giáo (3 - 5 tuổi). Nội dung giao tiếp là những sự vật,
hiện tượng không thể nhìn thấy trong những hoàn cảnh cụ thể. Nó thể hiện
tính ham hiểu biết, sự tò mò của trẻ về những sự vật, hiện tượng xung quanh,
trẻ đặt ra nhiều câu hỏi như tại sao, từ đâu, như thế nào… Nếu người lớn giải
thích ngắn gọn, dễ hiểu và có cơ sở khoa học nhất định thì trẻ càng tôn trọng
người lớn, sự “hợp tác” trí tuệ đầu tiên giữa trẻ và người lớn rất quan trọng .
Người lớn phải thể hiện thái độ tôn trọng xu hướng nhận thức của trẻ bằng lời
nói, hành động, điệu bộ, nét mặt…
- Giao tiếp nhân cách ngoài tình huống: Xuất hiện vào cuối giai đoạn
mẫu giáo, khác với lứa tuổi trước trẻ giao tiếp với người lớn không phải chỉ
được khen ngợi mà còn muốn xây dựng quan điểm chung vơí người lớn trong
đánh gía, quan niệm, suy nghĩ, hành động, hành vi …
Tóm lại: Sự phát triển các hành vi giao tiếp của trẻ với người lớn chứng
tỏ rằng người lớn giữa vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển
nhân cách trẻ. Vì vậy, người lớn cần biết rõ nhu cầu giao tiếp của trẻ và từ đó
tổ chức quá trình giao tiếp với trẻ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển đến một
mức cao hơn.
3,3 Quá trình phát triển giao tiếp của trẻ em với trẻ em.
Sự tiếp xúc trẻ em với môi trường xung quanh không chỉ giới hạn trong
phạm vi động tác qua lại với người lớn, đến một thời điểm nào đó trẻ sẽ chú ý
nhiều đến bạn bè xung quanh chúng. Các kết quả giao tiếp với bạn (MI.
Lixina) Đ.Benconhin, A.A.Konchic cho thấy: Hoạt động giao tiếp của trẻ với
bạn được hình thành cuối năm thứ hai, đầu năm thứ 3, tất cả các dấu hiệu cần
thiết trong giao tiếp với bạn đã xuất hiện ở trẻ như: hoạt động chủ động
hướng tới bạn, trả lời những động tác đa dạng của bạn, biết đánh giá bạn.
Nếu trong giao tiếp với người lớn trẻ nhận biết được thế giới xung
quanh thì giao tiếp với bạn thực sự là quá trình tác động đáng kinh ngạc,
những chuỗi cười không dứt, những hành động đa dạng vẫn không giới hạn,
khi cùng với bạn trẻ vẫn dễ so sánh hơn, dễ thể hiện mình hơn và nắm được
nhiều tri thức, kỹ năng trong hoạt động chung.
12
Giao tiếp trẻ em vơí trẻ em xuất hiện giữa và dưới nhiều hình thức khác
nhau với sự phức tạp dần và ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong sự hình
thành tâm lý và nhân cách trẻ.
- Giao tiếp thực hành xúc cảm: Xuất hiện ở trẻ 3 - 4 tuổi, đặc trưng của
hình thức giao tiếp này là: Trẻ muốn có bạn cùng chơi cho vui hơn chứ chưa
có sự phối hợp hành động Giao tiếp này thể hiện ở chỗ các thành viên đều
muốn trẻ khác chú ý đến mình và đánh giá hành động của mình, tìm mọi cách
để phô diễn khả năng của mình nhưng không cho bạn can thiệp vào công việc
của mình, chúng không lắng nghe lẫn nhau nên không có sự đồng cảm lẫn
nhau nên dễ thể hiện tình cảm tiêu cực. Vì vậy, khi tổ chức các hoạt động này
người lớn cần dự tính trước những xung đột có thể xảy ra, dạy trẻ nhận biết
nhân cách của bạn vì đây là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá sự giao tiếp của
con người, tuy có một số hạn chế nhất định nhưng hình thức giao tiếp này có
tác dụng phát triển tính năng động, tích cực, sáng tạo và hình thành sự tự giác
của trẻ.
Giao tiếp công việc tình huống xuất hiện ở trẻ 4 tuổi, ở tuổi này nhu cầu
giao tiếp của trẻ tăng lên, đặc biệt là trong trò chơi thể hiện rất rõ nhu cầu giao
tiếp này. Trẻ có xu hướng động tác làm việc với nhau, có trách nhiệm với
công việc chung mặc dù mỗi trẻ thực hiện một phần công việc riêng nhưng
phải phối hợp chặt chẽ để đạt mục đích chung. Trong giai đoạn này trẻ thường
nhìn nhận bản thân qua thái độ của bạn, đồng thời nhận ra thái độ của bạn qua
ánh mắt, nét mặt, lời nói, hành động. Thái độ cuả bạn có thể khích lệ những
hành vi tích cực, ngược lại có thể gây ra những hành vi tiêu cực cho nên cần
có sự quan tâm định hướng của người lớn trong quá trình tổ chức các hoạt
động cùng nhau của trẻ. Chính giao tiếp các công việc đã tập hợp trẻ thành
một nhóm chơi cùng tuổi hoặc khác tuổi, thể hiện rõ trong trò chơi đóng vai,
chủ đề. Sự tham gia vào công việc chung đã tạo ra những phẩm chất đặc biệt
ở trẻ mà A.UXOVA gọi là “tính xã hội”. Đó là năng lực tham gia vào trò chơi
chung, hành động phù hợp trong xã hội đó, thiết lập quan hệ với trẻ khác,
phục tùng những yêu cầu của thế giới trẻ em. Đây là những phẩm chất nhân
cách cần thiết của con người lao động trong tương lai.
Tóm lại: giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo có vai
trò rất quan trọng và giao tiếp với người lớn là cơ sở, tiền đề cho quá trình
giao tiếp của trẻ sau này. Do đó, người giáo viên phải có những biện pháp,
phương tiện nhằm mở rộng quan hệ giao tiếp cho trẻ, Đồng thời giáo viên
13
cũng phải gần gũi với trẻ, giúp trẻ tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong cuộc sống
và trong giao tiếp sau này.
4. Phương tiện giao tiếp của trẻ mầm non.
Giao tiếp là sự trao đổi thông tin giữa hai hay nhiều người. Nó bao gồm
sự gửi thông tin phản hồi để sử dụng trong giao tiếp hàng ngày, các thông tin
gửi đi cần có nghĩa và phải hiểu được các thông tin của đối tượng giao tiếp có
thể lĩnh hội được qua hành vi giao tiếp thực của họ với các phương tiện lời
nói và hành động thể hiện bằng nét mặt, cử chỉ, giọng nói, nhịp độ và không
gian giao tiếp. Đó là các phương tiện giao tiếp, giao tiếp được thực hiện bằng
phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ.
4.1 Giao tiếp bằng phương tiện ngôn ngữ :
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp đặc thù quan trọng, theo tâm lý học
Xô Viết ngôn ngữ có nhiều chức năng : chức năng thông báo, chức năng
truyền đạt thông tin, chức năng biểu cảm qua giọng điệu cấu âm và các biện
pháp tu từ, từ đó biểu lộ tình cảm nhu cầu, thái độ của mình; chức năng tác
động: sự tác động bằng ngôn ngữ có thể làm thay đổi trạng thái tâm lý, tình
cảm và động cơ hành động của con người, tạo nên sự đồng tình từ hai phía.
Trong giao tiếp có thể dùng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết nhưng ngôn ngữ
nói là cơ bản.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ có những nét đặc trưng riêng biệt, vì
ngôn ngữ không phải là chức năng bẩm sinh nên muốn sử dụng được ngôn
ngữ phải qua quá trình đào tạo, rèn luyện lâu dài và phức tạp. Quá trình nắm
lấy ngôn ngữ phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
- Yếu tố sinh lý: Gồm cơ quan phát âm và thính giác giúp con người nói
và nghe được.
- Yếu tố tâm lý: Sự phát triển chức năng ngôn ngữ của trẻ em có mối
quan hệ chặt chẽ với sự phát triển tư duy, ý chí, tình cảm , trí nhớ…
- Yếu tố xã hội: Tiếp thu ngôn ngữ là quá trình tập luyện dưới sự hướng
dẫn của người lớn. Cha mẹ, ông bà, anh ch, thầy cô giáo và những người gần
gũi xung quanh trẻ là tập thể ngôn ngữ tạo nên xã hội mà trẻ cùng chung
sống. Trải qua quá trình rèn luyện lâu dài và phức tạp, kỹ năng ngôn ngữ của
trẻ được hình thành. Quá trình này được chia làm hai giai đoạn:
* Giai đoạn chuẩn bị: (giai đoạn tiền ngôn ngữ trước 1,5 tuổi)
Trong đó chỉ xuất hiện một số dấu hiệu báo trước các chức năng ngôn
ngữ đã hình thành và giai đoạn phát triển (giai đoạn ngôn ngữ trước 1,5 đến 6
tuổi). giai đoạn này tính chất thực sự của ngôn ngữ nảy sinh và phát triển đến
14
lúc trẻ có thể nói được như người lớn.Sự phát triển khả năng ngôn ngữ ở trẻ
không phải là quá trình ngẫu nhiên mà có các quy luật nhất định. Vì vậy, để
trẻ có thể sử dụng ngôn ngữ một cách dễ dàng trong giao tiếp cần tìm hiểu
quy luật phát triển đó, ở trẻ khả năng hiểu đi trước khả năng nói. Việc hiểu
chẳng qua là một phản xạ đối với một ấn tượng thính giác tổng quát. Việc học
nói cũng vậy, tiếng nói bập bẹ đầu tiên là bản nhạc giàu âm điệu nhưng rối
mớ lộn xộn. Sau này, dưới những ảnh hưởng của mọi người xung quanh lần
lượt xuất hiện một số yếu tố tạo nên một loại từ trong vốn ngôn ngữ của trẻ,
nội dung ý nghĩa của từ của câu cũng dần tách ra, cho nên các nhà ngôn ngữ
cho rằng dạy trẻ nói trước hết là tìm hiểu các ấn tượng tổng quát như có tác
động mạnh mẽ vào điều cần uốn nắn.
Việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ không biểu hiện một cách riêng rẽ mà
gắn liền với sự phát triển khác như năng lực cảm thụ, trí nhớ, tưởng tượng, tư
duy … do đó, cần taọ mối quan hệ thường xuyên giữa các điều mà trẻ em thấy
được và từ ngữ các em nghe được giữa hệ thống tín hiệu I và hệ thống tín hiệu
II. Hơn nữa trong quá trình thích ứng với thế giới bên ngoài trẻ luôn đòi hỏi
sự hiểu biết những gì các em nghe nhìn và tự thể nghiệm. Cho nên cần có kế
hoạch cho trẻ tiếp xúc với môi trường bên ngoài để mở rộng tầm nhìn, nhận
thức. Đồng thời, cũng là dịp thúc đẩy ham muốn tích luỹ từ ngữ tạo điều kiện
cho vốn từ phát triển một cách tự nhiên.
Trẻ em hay bắt chước người lớn về mọi mặt: lời nói, cử chỉ, hành động,
tác phong… Do đó, người lớn phải chú ý noí năng cho đúng, phát âm chính
xác, rõ ràng có chọn lọc, dùng câu đúng quy tắc ngữ pháp, lời nói phải có tính
biểu cảm kỹ năng ngôn ngữ của trẻ. Kỹ năng ngôn ngữ của trẻ còn được hình
thành và phát triển qua các trò chơi. Đây là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu
giáo, trong khi chơi trẻ phải dùng từ chỉ hành động của mình, chỉ đồ vật trong
trò chơi, phải giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ để phối hợp hành động, để
giao ước với những người cùng tham gia. Tính chất sôi nổi của trò chơi nghệ
thuật, diễn cảm của lời nói một cách tự nhiên.
Như vậy, ngôn ngữ trẻ em nảy sinh và phát triển không phải vì bản thân
nó mà vì nhu cầu thích ứng với hoàn cảnh khách quan, nhu cầu tự khẳng định,
nhu cầu hoạt động …Việc thoả mãn những nhu cầu đó tạo điều kiện ngôn ngữ
phát triển và nảy sinh.
Do vậy, cần cho trẻ được quan sát nhiều hơn, kết hợp với trò chuyện để
giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp được tốt. Trong giao tiếp với trẻ
người lớn cần sử dụng ngôn ngữ giàu hình tượng, sử dụng các ngôn ngữ, tục
15