Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT Ở HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN (TỪ 1997 ĐẾN 2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.53 KB, 113 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
BỘ MÔN LỊCH SỬ
NGUYỄN THỊ LÝ

SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT Ở HUYỆN PHÚ
BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN
(TỪ 1997 ĐẾN 2008)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
1
Thái Nguyên, 2011
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
BỘ MÔN LỊCH SỬ
SỞ HỮU VÀ SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT Ở HUYỆN PHÚ
BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN
(TỪ 1997 ĐẾN 2008)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Lý
Lớp: Cử nhân Lịch Sử K5. Khóa: 2007-2011
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Duy Tiến
Thái Nguyên, 2011
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa đến nay, ruộng đất luôn là tư liệu sản xuất quan trọng,
thứ tài sản quý giá của mọi quốc gia, nhất là đối với các quốc
gia có đa số cư dân làm nghề nông nghiệp.
William Petty (1623-1687) một nhà kinh tế học ở thế kỷ XVII
đã nhận định về tầm quan trọng của đất đai đối với đời sống con
người như sau: “Lao động là cha, đất là mẹ của của cải vật


chất”.
Việt Nam là một quốc gia có hơn 90% dân số làm nông
nghiệp cho nên ruộng đất càng trở nên quan trọng và quý giá.
Phần mở đầu của luật đất đai được quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ 15-10-1993
đã nhận định:
“Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, là địa bàn phân bổ các nhu cầu dân cư, xây dựng
các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng”.
3
Ở nước ta, dưới chế độ phong kiến, nông nghiệp luôn luôn
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Nó là nguồn chủ yếu cung
cấp lương thực, thực phẩm; là ngành duy nhất tạo ra thức ăn các
loại cho con người.
Mà ruộng đất và nông dân lại là yếu tố cơ bản của nông
nghiệp và nông thôn. “Ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng
nhất, là loại tư liệu sản xuất đặc biệt, không gì có thể thay thế
được”. Chính vì vậy mà các nhà nước phong kiến luôn quan tâm
đến vấn đề ruộng đất. Các vương triều phong kiến luôn đề ra
những chính sách nhằm nắm được ruộng đất để có nguồn thu
thuế làm bổng lộc, lương cho đội ngũ quan lại, binh lính và giải
quyết phần nào những đòi hỏi của nông dân.
Đầu năm 1930, từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập thì
cách mạng ruộng đất đã trở thành nội dung chủ yếu của nhiệm
vụ chống phong kiến, là một trong hai nhiệm vụ chủ yếu của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Với đường lối đúng đắn,
coi ruộng đất là nội dung cơ bản của chính sách liên minh công
nông, Đảng đã tập hợp được đông đảo quần chúng làm nên
thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, sau đó đánh đuổi thực

dân Pháp 1954.
4
Sau năm 1954, đất nước chia cắt thành hai miền Nam, Bắc
với những hoàn cảnh và nhiệm vụ cách mạng khác nhau. Miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng, Đảng đã chủ trương tiến hành
tập thể hóa nông nghiệp từ năm 1958 trở đi. Theo đó, hầu hết
ruộng đất cũng như sản xuất nông nghiệp đều đặt dưới sự quản
lý của hợp tác xã. Miền Nam còn chưa được giải phóng khỏi ách
thống trị của đế quốc phong kiến nên nhiệm vụ của cách mạng
ruộng đất lúc này là: “Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn
đề ruộng đất cho nông dân, làm cho người cày có ruộng”. Thắng
lợi của cách mạng ruộng đất đã xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng
đất, bóc lột của địa chủ phong kiến và thực dân, thực hiện triệt
để khẩu hiệu: “Người cày có ruộng”.
Trước yêu cầu đổi mới và để tiếp tục phát triển kinh tế nông
nghiệp, ngày 13/1/1981, chỉ thị 100 CT/TW ra đời quyết định
chủ trương thực hiện chế độ khoán sản phẩm cuối cùng đến
nhóm và người lao động. Năm 1981 được coi là dấu mốc khởi
đầu cho một quá trình đổi mới từng bước cơ chế quản lý nông
nghiệp nói chung, cơ chế quản lý hợp tác xã nông nghiệp nói
riêng ở nước ta. Tiếp theo đó, ngày 5/4/1988, Bộ chính trị Trung
ương Đảng đã ra nghị quyết về “Đổi mới quản lý kinh tế nông
5
nghiệp” (gọi tắt là Nghị quyết 10). Nghị quyết 10 đã tiến một
bước dài trong việc định lại vị trí của kinh tế hộ gia đình và vai
trò quyền lợi của người lao động trong quan hệ kinh tế nông
thôn. Từ đây, ruộng đất đã chuyển từ chế độ sở hữu tập thể sang
chế độ công hữu tư dụng (sở hữu tư nhân hạn chế).
Năm 1997, sau hơn 30 năm hợp nhất với tỉnh Bắc Kạn thành
tỉnh Bắc Thái, tỉnh Thái Nguyên đã được tái lập lại gồm 9 đơn

vị hành chính trực thuộc: các huyện Định Hóa, Võ Nhai, Phú
Lương, Đại Từ, Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình, thị xã Sông Công
và thành phố Thái Nguyên. Trong đó, huyện Phú Bình nắm giữ
một vị trí quan trọng, Đảng bộ Phú Bình trở thành đầu mối trực
thuộc tỉnh ủy Thái Nguyên. Sự đổi mới của Đảng đã đáp ứng
đúng tâm lý, nguyện vọng của đông đảo nhân dân, khơi dậy một
khí thế mới, cổ vũ hàng triệu hộ nông dân bỏ vốn, bỏ sức phát
triển sản xuất, xây dựng nông thôn. Tại Phú Bình, diện tích và
sản lượng lúa không ngừng tăng. Năm 1998 diện tích lúa gieo
trồng tăng từ 12952 ha lên 13528 ha (năm 2000), sản lượng lúa
tăng từ 43399 tấn (năm 1998) lên 52085 tấn (năm 2000). Sở dĩ
sản lượng cũng như diện tích trồng lúa của huyện Phú Bình
trong những năm này ổn định và có sự tăng trưởng khá là do sự
6
thay đổi về sở hữu và sử dụng ruộng đất. Tuy nhiên cho tới nay
vẫn chưa có một công trình khoa học hay một tài liệu chuyên
khảo nào nghiên cứu một cách chi tiết về vấn đề này.
Xuất phát từ lý do nêu trên chúng tôi chọn đề tài “Sở hữu và
sử dụng ruộng đất ở huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên 1997-
2008” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp. Chúng tôi hi vọng sẽ góp
một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu mức độ sử dụng ruộng đất
của từng giai tầng. Trên cơ sở đó, giúp chúng ta có cái nhìn căn
bản và toàn diện về tình hình kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân,
tập quán sản xuất… Từ đó, tác giả mong muốn đóng góp thêm
cơ sở khoa học cho Đảng bộ và địa phương trong việc quản lý
ruộng đất, phát triển nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, vấn đề ruộng đất đã được trình bày trong nhiều
tác phẩm của các nhà lãnh đạo Đảng ta và các nhà nghiên cứu

khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Về lịch sử chế độ ruộng đất thời kỳ cổ trung đại và cận đại có
các chuyên khảo của các tác giả như: Phan Huy Lê: Chế độ
7
ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê Sơ, Nxb Văn-sử-địa,
Hà Nội, 1959; Trương Hữu Quýnh: Chế độ ruộng đất ở Việt
Nam thế kỷ XVII, Nxb khoa học xã hội, tập 1, Hà Nội, 1982…
Về vấn đề ruộng đất trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ
có tác phẩm: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1975 của đồng chí Trường Chinh; giai cấp vô sản với
vấn đề nông dân trong cách mạng Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1965 của đồng chí Lê Duẩn.
Về vấn đề ruộng đất, nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ đổi
mới có những tác phẩm như: Thực trạng nông nghiệp nông thôn
và nông dân Việt Nam từ năm 1976 đến 1990, Nxb Thống Kê,
Hà Nội, 1991 của Nguyễn Sinh Cúc; vấn đề sở hữu và sử dụng
ruộng đất trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt
Nam, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội, 1999 của Hoàng Việt.
Gần đây, nhất là tác phẩm “Quá trình thực hiện quyền sở hữu
ruộng đất cho nông dân ở Thái Nguyên (1945-1957); Nxb chính
trị quốc gia của tiến sĩ Nguyễn Duy Tiến. Một công trình nghiên
cứu quy mô về tình hình cải cách ruộng đất của tỉnh Thái
Nguyên trong giai đoạn 1945-1957 xem xét mức độ sở hữu,
phương thức sử dụng ruộng đất của từng giai tầng. Tiếp theo là
8
đề tài luận văn thạc sĩ lịch sử : sở hữu và sử dụng ruộng đất ở
tỉnh Thái Nguyên (1988- 2005) của Phí Văn Liệu; Đại học sư
phạm – ĐHTN ;2009 cũng đã bảo vệ thành công và nhận được
sự đánh giá cao.
Bên cạnh đó có một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn

đề ruộng đất huyện Phú Bình như:
Tác phẩm “Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ” của Tạ Thị
Thúy.
Tác phẩm “Tiểu chí Thái Nguyên” 1932 của công sứ Pháp E.
Chinard có đề cập nhiều vấn đề như diện tích đất đai, chăn nuôi,
một số đồn điền lớn ở Thái Nguyên trong đó có huyện Phú Bình.
Luận văn “Huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên qua tư liệu địa
bạ triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX” của tác giả Lê Thị Thu
Hương. Một công trình nghiên cứu tập hợp có hệ thống các tài
liệu và kết quả nghiên cứu về tình hình sở hữu ruộng đất của
huyện Phú Bình”.
Đề tài nghiên cứu khoa học “Đồn điền của thực dân Pháp ở
huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên” của Trương Thị Khánh
Dung tập trung nghiên cứu những hoạt động chung nhất của quá
9
trình cướp đất, khai thác, quản lý và bóc lột của thực dân Pháp
tại các đồn điền ở huyện Phú Bình trong giai đoạn từ năm 1897
đến năm 1945.
Với số lượng tài liệu đồ sộ trên đây, tình hình ruộng đất, nông
nghiệp, nông thôn và nông dân ở nước ta trong suốt một thời kỳ
dài đã phần nào được làm rõ. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên
cứu nhỏ hẹp là “Sở hữu và sử dụng ruộng đất ở huyện Phú Bình
tỉnh Thái Nguyên 1997-2008” thì cho tới nay vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu. Mặc dù vậy, các công trình nghiên
cứu đi trước đã phác họa bức tranh toàn cảnh về vấn đề ruộng
đất, nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Đó là ý kiến gợi mở quý
báu, là cơ sở để tôi nghiên cứu và hoàn thành khoá luận tốt
nghiệp.
3. Đối tượng nghiên cứu, mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu đề tài là:
Tìm hiểu về tình hình sở hữu và sử dụng ruộng đất trong đó
nhấn mạnh về phương thức khai thác ruộng đất ở huyện Phú
10
Bình – một huyện có 98,8% cư dân nông thôn sống bằng nông
nghiệp trong các làng xã từ sau khi có quyết định tách tỉnh năm
1997.
3.2 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa các nguồn tư liệu và các kết quả
nghiên cứu về ruộng đất huyện Phú Bình, mục đích của đề tài
nghiên cứu này là nhằm:
Hệ thống hoá các nguồn tư liệu về ruộng đất ở huyện Phú
Bình từ 1997-2008.
Xem xét sự thay đổi về hình thức sở hữu và phương thức sử
dụng ruộng đất ở huyện Phú Bình so với giai đoạn trước đó.
Xem xét những biến đổi trong sản xuất nông nghiệp ở huyện
Phú Bình.
Tìm hiểu những mặt mạnh, những vấn đề còn yếu kém ở địa
phương trong quá trình sản xuất. Trên cơ sở đó đưa ra một vài
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng quyền sở hữu ruộng
đất cho nông dân huyện Phú Bình.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
11
Phạm vi không gian được nghiên cứu của đề tài là toàn bộ
huyện Phú Bình hiện nay.
Phạm vi thời gian được nghiên cứu là từ năm 1997 (từ khi có
quyết định tách tỉnh) đến 2008.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng các

nguồn tài liệu sau:
Tài liệu chuyên khảo: các tạp chí chuyên ngành, các tác
phẩm thông sử đã được công bố và xuất bản…
Tài liệu lưu trữ: bao gồm các Thông tư, Chỉ thị, Sắc lệnh, Số
liệu thống kê, Báo cáo của các cơ quan, Đảng và nhà nước các
cấp đang lưu tại phòng lưu trữ Tỉnh ủy Thái Nguyên, lưu trữ Ủy
ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái
Nguyên…Đây đều là những tài liệu có độ chính xác cao và đáng
tin cậy.
12
Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử đảng bộ huyện Phú Bình,
Dư địa chí Thái Nguyên (trong đó có ghi chép rất kỹ về huyện
Phú Bình tỉnh Thái Nguyên).
Nguồn tư liệu điền dã: để hiểu thêm thực tế những vấn đề
ruộng đất trong thời kỳ này, cũng như để thẩm định một số vấn
đề mà tư liệu lưu trữ không nói rõ hoặc có những mâu thuẫn, tôi
đã tiến hành các đợt thực địa tại huyện Phú Bình. Qua đó cũng
phần nào thấy được những thay đổi trong đời sống của nhân dân.
Ngoài ra các tư liệu truyền miệng do các cụ già cao tuổi kể lại
rất phong phú và đa dạng giúp tôi có thêm những tư liệu cần
thiết để hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình. Đồng thời đề tài
còn được kế thừa những kinh nghiệm quý báu từ những công
trình nghiên cứu trước đó.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Từ nguồn tư liệu trên, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử
và logic là chủ yếu.
Đề tài cũng sử dụng phương pháp thống kê, đối chiếu, so
sánh nhằm rút ra sự tương đồng hay khác biệt về sở hữu và sử
13
dụng ruộng đất của địa bàn qua các thời điểm cũng như giữa địa

bàn với nơi khác.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng phương pháp điền dã và phương
pháp hệ thống.
Do các nguồn tư liệu báo cáo, số liệu thống kê còn nhiều chỗ
cần làm rõ. Vì vậy tôi đã tiến hành khảo sát thực địa tại một số
nơi để sưu tầm tư liệu mà các báo cáo, số liệu thống kê không
phản ánh đầy đủ.
5. Đóng góp của đề tài
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về sở hữu và sử dụng
ruộng đất ở huyện Phú Bình giai đoạn 1997-2008. Trên cơ sở
các nguồn tư liệu, đề tài góp phần làm rõ những biến đổi về tình
hình ruộng đất ở huyện Phú Bình từ năm 1997-2008 trên các
phương diện hình thức sở hữu, phương thức khai thác và sử
dụng.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng ruộng đất ở huyện Phú Bình,
đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân huyện Phú Bình. Qua đó,
mong muốn đóng góp thêm cơ sở khoa học giúp các nhà hoạch
14
định đề ra được những chính sách phù hợp thúc đẩy nông nghiệp
của huyện Phú Bình phát triển.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, tài liệu tham khảo,
bản đồ, nội dung của đề tài được chia làm ba chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Phú Bình
1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
1.2 Điều kiện kinh tế, xã hội
Chương 2: Chuyển biến sở hữu ruộng đất ở huyện Phú Bình
dưới tác động của khoán 10
2.1. Sở hữu ruộng đất ở Phú Bình trước khoán 10

2.2 Chuyển biến sở hữu ruộng đất ở Phú Bình dưới tác
động của khoán 10
Chương 3 : Sở hữu và sử dụng ruộng đất ở huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên (1997 – 2008)
3.1 Các hình thức sở hữu
3.2 Hiện trạng sử dụng ruộng đất
15
3.3 Phương thức khai thác
3. 4. Một vài giải pháp nhằm nâng cao quyền sở hữu và
hiệu quả sử dụng ruộng đất cho nông dân ở huyện Phú Bình
trong giai đoạn hiện nay
16

Bản đồ huyện Phú Bình
17
Chương 1.
Khái quát về huyện Phú Bình
1.1.Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Phú Bình là huyện nằm ở phía Đông Nam tỉnh Thái Nguyên.
Thời Lý vùng đất huyện Phú Bình ngày nay có tên là huyện Tư
Nông thuộc châu Thái Nguyên; thời Minh thuộc phủ Thái
Nguyên; thời Lê thuộc Thái Nguyên Thừa Tuyên; Ninh Sóc
Thừa Tuyên. Đầu thế kỷ XX toàn quyền Đông Dương đổi tên
huyện Tư Nông thành phủ Phú Bình.
Trước cách mạng tháng Tám 1945, phủ Phú Bình là một
huyện trong 7 phủ, huyện, châu của tỉnh Thái Nguyên gồm 9
tổng, 46 xã, 7 thôn và 1 phường.
Ngày 25/3/1948, chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ra sắc lệnh số 148/SL, quy định bãi bỏ các chức danh từ phủ,
châu, quận; cấp trên xã gọi là cấp huyện. Từ đó phủ Phú Bình

được gọi là huyện Phú Bình.
18
Hơn 5 thế kỷ tồn tại và phát triển, cương vực huyện Phú Bình
ngày nay căn bản như đất Tư Nông xưa, không có biến đổi lớn,
ngoại trừ việc ngày 19/10/1962, Thủ tướng chính phủ nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ra quyết định số 114/CP chuyển một số
xóm của hai xã Thượng Đình và Lương Sơn về thành phố Thái
Nguyên. Ngày 8/4/1985, chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là thủ
tướng chính phủ) ra quyết định số 109/HDBT tách xã Lương
Sơn sáp nhập về thành phố Thái Nguyên. Hiện nay huyện Phú
Bình có 21 đơn vị hành chính trực thuộc gồm 20 xã (Đồng Liên,
Bàn Đạt, Tân Khánh, Tân Kim, Tân Thành, Tân Hòa, Tân Đức,
Dương Thành, Thành Ninh, Lương Phú, Kha Sơn, Hà Châu,
Nga Mi, Úc Kỳ, Nhã Lộng, Điền Thụy, Thượng Đình, Đào Xá,
Bảo Lý, Xuân Phương) và một thị trấn (Hương Sơn) bao gồm
311 xóm và 4 tổ dân phố.
Phú Bình là huyện nằm ở vùng Đông Nam của tỉnh Thái
Nguyên, nơi tiếp giáp giữa vùng trung du Bắc Bộ và vùng miền
núi phía Bắc, huyện lị đặt tại thị trấn Hương Sơn cách thành phố
Thái Nguyên 28 km theo quốc lộ số 37 và cách thủ đô Hà Nội
50 km.
Địa giới của huyện được xác định:
19
Phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Đồng Hỷ.
Phía Tây và Tây Nam giáp huyện Phổ Yên và thành phố
Thái Nguyên.
Phía Đông giáp huyện Yên Thế (Bắc Giang).
Phía Nam giáp huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang).
Huyện có tọa độ địa lý 21
o

23’ đến 21
o
35’ vĩ bắc và 105
o
51’
đến 106
o
02’ kinh đông.
Với vị trí địa lý như vậy, huyện Phú Bình gần với trung tâm
tỉnh Thái Nguyên, Bắc Giang, thủ đô Hà Nội và gần các khu
công nghiệp lớn như khu công nghiệp Sông Công (Thái
Nguyên), các khu công nghiệp của Hà Nội nên có điều kiện giao
lưu hàng hóa dễ dàng và có khả năng phát triển kinh tế của
huyện theo hướng công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Với hai dải đất nằm dọc Sông Cầu nhiều làng ven sông trên
biển dưới thuyền, Phú Bình được coi là một trong những nơi có
thắng cảnh đẹp từ ngàn xưa của xứ Thái Nguyên, là cái nôi của
nền văn hóa lâu đời trên đất Việt: Đình Xuân La, chùa Úc Kỳ…
được xây dựng từ thời Lý - Trần với kiến trúc nghệ thuật độc
20
đáo đã tạo nên vẻ đẹp thanh bình cho vùng quê lấy gieo trồng
lúa nước làm cơ sở sinh tồn và phát triển.
Từ ngày căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn – Võ Nhai ra đời,
vùng quê này đã đi vào lịch sử như những “địa chỉ đỏ” - nơi
nuôi dưỡng, đùm bọc, chở che cho nhiều cán bộ cấp cao của
Đảng trong những năm cách mạng còn trong bóng tối đầy gian
nan thách thức. Qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân
tộc, nhiều tên đất, tên làng đã trở thành di tích cách mạng, được
nhà nước công nhận như : chùa Mai Sơn, đình Kha Sơn…
Huyện Phú Bình cùng với 8 thị trấn : Kha Sơn, Lương Phú, Hà

Châu, Tân Đức, Thanh Ninh, Dương Thành, Hương Sơn được
tặng danh hiệu “ anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân “ thời kỳ
kháng chiến chống Pháp.
Huyện Phú Bình có diện tích tự nhiên là 249,36 km
2
được
chia thành ba vùng.
Vùng phía Bắc và Đông Bắc nằm bên tả ngạn sông Máng là
vùng bán sơn địa (vùng 1) có diện tích tự nhiên là 13833,84 ha;
vùng trung tâm huyện (vùng II) bao gồm 8 xã và thị trấn huyện
lị, có diện tích tự nhiên 5583,88 ha; vùng phía Tây và Tây Nam
(vùng III) gồm 6 xã có diện tích tự nhiên 4518,39 ha.
21
Phú Bình là huyện có đặc điểm đa dạng về địa hình, có cả
miền núi, trung du và đồng bằng. Nhìn chung, địa hình huyện
tương đối bằng phẳng, vùng đồi núi chủ yếu là đồi bát úp thoải
và thấp. Đây là điều kiện thuận lợi cho canh tác nông nghiệp
(đặc biệt là cây lương thực) và cho các hoạt động quân sự trong
thời chiến cũng như trong thời bình.
Tổng quỹ đất của huyện có 24936,11 ha trong đó diện tích đất
dùng cho nông nghiệp là lớn nhất :13845,93 ha chiếm tỷ trọng
55,52% diện tích tự nhiên.
Huyện Phú Bình có 6 loại đất chính:
Đất feralit nâu vàng phát triển trên đá mẹ phiến thạch sét có
diện tích lớn nhất 9930,5 ha chiếm tỷ lệ 39,82% tổng diện tích
tự nhiên. Loại đất này có khả năng giữ nước, giữ ẩm tốt, phân
bố chủ yếu ở các vùng đồi.
Đất feralit nâu vàng phát triển trên đá mẹ sa thạch, loại này
nằm xen kẽ ở các vùng đồi với diện tích là 4165,5 ha chiếm tỷ lệ
17% diện tích tự nhiên. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, khả năng

giữ nước và dinh dưỡng kém.
22
Đất feralit nâu vàng phát triển trên mẫu đất phù sa cổ, đất này
phân bố chủ yếu ở các xã dọc triền suối, triền sông có địa hình
thoải. Đất có độ phì cao, khả năng giữ ẩm và dinh dưỡng tốt.
Đất phù sa sông Cầu được bồi tụ hàng năm, có khả năng giữ
nước, giữ ẩm tốt, được xếp vào loại canh tác tốt nhất trong
huyện, có diện tích 1538,6 ha chiếm tỷ lệ 6,3% diện tích đất tự
nhiên.
Đất lúa trên sản phẩm dốc tụ: phân bố rải rác ở các sườn dốc,
các thung lũng lòng chảo đã được khai phá để trồng lúa nước có
diện tích 5785,61 ha chiếm tỷ lệ 23,7% diện tích đất tự nhiên.
Đất bạc màu có tỷ lệ cát thô cao, mực độ thấm nước theo
chiều sâu mạnh, đất xấu, năng suất cây trồng thấp, có diện tích
1618,5 ha chiếm 6,6% diện tích đất tự nhiên.
Ngoài những loại đất chủ yếu như đất feralit nâu vàng, đất
phù sa, đất lúa, Phú Bình còn có một số loại đất khác như: đất
thung lũng chua, đất lầy thụt. Tuy nhiên các loại đất này chiếm
tỉ lệ không đáng kể. Với tiềm năng đất nói trên nếu được cải tạo
sẽ là nguồn tư liệu màu mỡ cho sản xuất nông nghiệp.
23
Phú Bình nằm ở Bắc chí tuyến trong vành đai Bắc bán cầu
nên khí hậu của huyện mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió
mùa. So với các huyện khác trong tỉnh, huyện Phú Bình có độ
ẩm cao, trung bình từ 81,9% đến 82%. Do địa hình tương đối
bằng phẳng nên huyện Phú Bình có tần suất lặng gió thấp,
khoảng từ 15% đến 20% tốc độ gió cũng lớn hơn các huyện
miền núi, hướng gió thay đổi rõ rệt theo hệ thống hoàn lưu, mùa
hè thường có gió Đông Nam mát mẻ, mùa đông có gió Đông
Bắc thời tiết lạnh.

Nguồn nước của huyện tương đối phong phú do sông Cầu và
sông Đào cung cấp. Bên cạnh đó, hệ thống thủy nông Hồ Núi
Cốc và 119 hồ trữ nước cung cấp nước tưới cho hơn 1000 ha đất
canh tác thuộc các xã Tây Nam, Tây Bắc của huyện. Ngoài sông
Cầu và sông Đào, trên địa bàn huyện Phú Bình còn có hơn 40 hồ
chứa nước lớn, nhỏ và hàng ngàn ao đầm cùng với một số suối
nhỏ ở các xã Tây Bắc huyện. Do vậy gặp những năm thời tiết
thất thường, diện tích đất gieo trồng bị khô hạn của huyện Phú
Bình cũng ít hơn những huyện khác trong tỉnh. Huyện Phú Bình
có trữ lượng nước ngầm khá lớn và ở độ sâu vừa phải (trung
bình dưới mặt đất 4 m là thấy mạch nước ngầm).
24
Với cấu trúc địa hình gồm vùng đồi núi và núi thấp cộng
thêm khí hậu nhiệt đới gió mùa mưa nhiều độ ẩm cao nên thảm
thực vật ở đây rất phong phú, đa dạng, tạo nhiều thuận lợi để
phát triển ngành sản xuất lâm nghiệp. Hiện nay trên địa bàn
huyện có 6332,68 ha ruộng chiếm 25,40% diện tích đất tự nhiên.
Trong đó chủ yếu là rừng trồng. Các xã có nhiều rừng là: Tân
Khánh, Nga My, Triều Dương, Tân Đức…
Hệ thống giao thông trên địa bàn huyện Phú Bình tương đối
dày đặc. Quốc lộ 37 từ thành phố Thái Nguyên chạy qua suốt
chiều dài của huyện đến thị xã Bắc Giang. Quốc lộ 38 từ Điềm
Thụy qua Hà Châu, Kha Sơn đi Nhã Nam (tỉnh Bắc Giang).
Ngoài 2 tuyến quốc lộ nói trên, Phú Bình còn có 120 km đường
liên thôn đảm bảo cho xe ô tô đi lại thuận tiện đến các thôn xã
trong xóm.
Như vậy, điều kiện địa lý tự nhiên của huyện Phú Bình rất
thuận lợi cho sản xuất nông, lâm nghiệp. Nó đã góp phần đưa
huyện Phú Bình trở thành vựa thóc và cũng là nguồn cung cấp
thực phẩm (trâu, bò, lợn, rau quả…) rất quan trọng cho thành

phố Thái Nguyên và các khu công nghiệp phía Nam của tỉnh
Thái Nguyên.
25

×