Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

luận văn khách sạn du lịch ĐỀ ÁN KINH TẾ DU LỊCH VỀ ĐỀN HÙNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.74 KB, 37 trang )

ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
Mục Lục
A.LỜI MỞ ĐẦU
2
B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỀ TÀI
4
1.1.Giới thiệu lễ hội. Khái niệm du lịch văn hóa 4
1.1.1 Giới thiệu lễ hội 3
1.1.2 Khái niệm du lịch văn hóa 3
1.2. Giới thiệu về Phú Thọ 4
1.2.1.Vị trí địa lý 4
1.2.2.Các lễ hội chính 5
Chương 2: TÌM HIỂU ĐỀN HÙNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT
TRIỂN CỦA DU LỊCH LỄ HỘI ĐỀN HÙNG 8
2.1. Giới thiệu lễ hội Đền Hùng 8
2.2. Lịch sử hình thành 9
2.2.1 Hình thế thiên nhiên 9
2.2.2 Thờ tự
1
0
2.2.3 Kiến Thiết 12
2.2.4 Vài nét về Bảo tàng 13
2.2.5 Lễ hội cổ truyền 14
2.2.6 Truyền thuyết tiêu biểu 16
2.3 Thực trạng phát triển của khu di tích 22
Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KHU DI TÍCH
26
3.1.Cảm nhận của bản thân về Đền Hùng 2008 27
3.2.Một số giải pháp để phát triển 29
C. KẾT LUẬN


34
TÀI LIỆU T HAM KHẢO 35
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
1
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong kinh doanh bất kỳ trong lĩnh vực nào muốn đạt được thành công
thì một trong những yếu tố quyết định đến thành công của doanh nghiệp đó
là việc xác định câu khẩu hiệu hay còn gọi là câu slogan cho mình để có
thể tạo ra sự khác biệt với công ty khác và để khách hàng có thể nhận biết
được công ty của mình trong vô số các công ty khác, chẳng hạn ví dụ về 3
doanh nghiệp viễn thông lớn nhất Việt Nam, mobifone là ‘mọi lúc mọi
nơi’’, Vinaphone là ‘‘không ngừng vươn xa’’ hay của Viettel ‘‘hãy nói
theo cách của bạn’’ . Trong du lịch cũng vậy các khu du lịch muốn thu hút
được khách du lịch thì bắt buộc phải xây dựng được một câu nói trong đầu
khách du lịch để khi nhắc đến câu nói nào đó thì họ sẽ nhận ra, à thì ra là
câu nói đó đang nhắc đến địa danh này đây. Ví dụ như khi nhắc đến hòn
ngọc của Việt Nam thì mọi người đều biết đến đó là Hòn Tre thuộc Nha
Trang hay còn gọi là Vinpearl Land .
Vậy khi nghe đến câu “ dù ai đi ngược về xuôi nhớ ngày giỗ Tổ 10-3”.
Thì không thể không ai là chưa từng nghe đến câu nói truyền miệng này và
nó đã khắc sâu vào tâm trí mỗi người trong suốt cuộc đời vì nó là nơi cội
nguồn của dân tộc. Vâng địa danh mà câu truyền miệng nhắc đến chính là
Đền Hùng. Đây chính là một lợi thế so sánh rất lớn của khu di tích lịch sử
Đền Hùng so với các địa điểm du lịch khác. Đồng thời đây chính là một tài
nguyên du lịch mang gía trị nhân văn tầm vóc quốc gia rất có tiềm năng để
phát triển du lịch bởi vì đặc tính của dân tộc ta sống rất tâm linh. Tuy rằng
nơi đây đã thu hút được rất nhiều khách du lịch song thực trạng phát triển
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
2

ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
ở nơi đây vẫn còn rất nhiều vấn đề để bàn tới. Điển hình là tính nguyên sơ
của khu di tích đang bị xâm phạm và mất dần theo thời gian.Vì vậy mục
đích của em khi nghiên cứu đề tài này là để góp một phần nào đó vào việc
gìn giữ và phát triển khu du lịch mang đầy giá trị nhân văn này. Đúng theo
phương châm của Bác Hồ khi về thăm khu di tích lịch sử Đền Hùng bác đã
nói: “các Vua Hùng đã có công dựng nước bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước”. nếu chúng ta giữ gìn được nơi đây thì thế hệ mai sau mới
có thể tự hào với văn minh một thời của dân tộc ta.
Vì vậy để đề tài này đi đến được thành công thì em rất mong được
sự giúp đỡ của Tiến sỹ Nguyễn Đình Hòa.

Em xin chân thành cảm ơn!

SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
3
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
1.1 Du lịch lễ hội, đinh nghĩa du lịch văn hóa
Trước tiên khi nghiên cứu về Đền Hùng chúng ta phải làm rõ khái
niệm: du lịch lễ hội là gì? Lễ hội nó gắn liền với các yếu tố văn hóa, mang
những giá trị nhân văn sâu sắc từ xa xưa…
Người ta gọi là du lịch văn hóa khi hoạt động du lịch diễn ra chủ yếu
trong môi trường nhân văn, hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai thác
tài nguyên du lịch nhân văn. Vì vậy khi nghiên cứu về du lịch văn hóa
chính là chúng ta đang nghiên cứu về du lịch nhân văn. Theo định nghĩa về
du lịch văn hóa của tiến sĩ Trần Thị Minh hòa được viết trong cuốn kinh tế
du lịch về du lịch văn hóa như sau: “du lịch văn hóa mục đích chính là
nhằm nâng cao hiểu biết cho cá nhân về mọi lĩnh vực như: lịch sử, kiến

trúc, hội họa, chế độ xã hội, cuộc sống của người dân cùng các phong tục,
tập quán của đất nước du lịch”.
(1)
Các đối tượng văn hóa được coi là các tài nguyên du lịch đặc biệt hấp
dẫn. Nếu như tài nguyên thiên nhiên hấp dẫn du khách bởi sự hoang sơ,
độc đáo và hiếm hoi của nó, thì tài nguyên du lịch nhân văn thu hút khách
bởi tính phong phú, đa dạng, độc đáo và tính truyền thống cũng như tính
địa phương của nó. Các đối tượng văn hóa-tài nguyên du lịch nhân văn- là
cơ sở để tạo nên các loại hình du lịch văn hóa phong phú.
Ta phải lưu ý rằng tài nguyên du lịch nhân văn là tất cả những gì do xã
hội cộng đồng tạo ra có sức thuyết phục hấp dẫn du khách cũng như những
thành tố khác được đưa vào phục vụ phát triển du lịch. Như vậy tài nguyên
du lịch nhân văn sẽ được hiểu là bao gồm các di tích, công trình đương đại,
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
4
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
lễ hội, phong tục tập quán…. Vì vậy để khai thác chúng một cách hiệu
quả đòi hỏi chúng ta phải có một chiến lược thật cụ thể để song song với
việc khai thác tối đa tiềm năng của khu du lịch chúng ta còn có thể bảo tồn
được vẻ tôn nghiêm của các khu di tích. Đó chính là điều kiện tối cần thiết
để có thể phát triển khu du lịch nhân văn 1 cách bền vững.
Để hiểu rõ về điều kiện tự nhiên cũng như những tiềm năng của tỉnh phú
thọ nói chung và của khu di tích lịch sử Đền Hùng chúng ta hãy cùng nhau
tìm hiểu hiểu sơ qua đôi nét về đặc điểm của Phú Thọ.
1.2 Giới thiệu đôi nét về Phú Thọ
1.2.1:Vị trí địa lý
Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Bắc giáp tỉnh
Tuyên Quang và Yên Bái, phía Đông giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía Đông Nam
giáp tỉnh Hà Tây, phía Tây giáp tỉnh Sơn La, phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình.
Thành phố Việt Trì là trung tâm hành chính của tỉnh, cách thủ đô Hà Nội 80

km và sân bay quốc tế Nội Bài 50 km về phía Tây
Phú Thọ bao gồm 1 thành phố trực thuộc, 1 thị xã và 10 huyện:
 Thành phố Việt Trì
 Thị xã Phú Thọ
 Huyện Cẩm Khê
 Huyện Đoan Hùng
 Huyện Hạ Hòa
 Huyện Lâm Thao
 Huyện Phù Ninh
 Huyện Tam Nông
 Huyện Thanh Ba
 Huyện Thanh Sơn
 Huyện Thanh Thuỷ
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
5
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
 Huyện Yên Lập
Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh 3.519 km². Có 3 con sông lớn chảy
qua: sông Hồng (sông Thao), sông Lô và sông Đà.
Theo thống kê năm 2003, Phú Thọ có 1.302.700 người với mật độ dân
số 370 người/km².Trong đó Nông thôn chiếm 85% thành phố chiếm 15% .
Năm 2001, thu nhập bình quân GDP/người đạt 384 USD/người (bằng
khoảng 5.698.000 VND/người) .
Phú Thọ là vùng đất tổ cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Nơi đây các
vua Hùng đã dựng nước Văn Lang - quốc gia đầu tiên của Việt Nam, thủ
đô là Phong Châu. Tỉnh Phú Thọ nguyên là tỉnh Hưng Hóa, sau khi đã tách
dần đất để lập thêm các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái. Ngày 5
tháng 5 năm 1903, tỉnh lỵ tỉnh Hưng Hóa chuyển từ làng lên làng Phú
Thọ gần đường xe lửa hơn. Do đó tỉnh Hưng Hóa cũng đổi tên thành tỉnh
Phú Thọ. Khi đó tỉnh Phú Thọ gồm có 2 phủ (Đoan Hùng, Lâm Thao), 8

huyện (Tam Nông, Thanh Thủy, Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê,
Hạ Hòa, Hạc Trì) và 2 châu (Thanh Sơn, Yên Lập)
(2).
Thị xã Phú Thọ và thị xã Việt Trì được thành lập năm 1907, thị xã Phú
Thọ được chọn là tỉnh lỵ của Phú Thọ. Đến năm 1962, thành phố Việt Trì
được thành lập theo Quyết định số 65 của Hội đồng Chính phủ
Tháng 1-1968, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 504 tiến
hành hợp nhất hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú, thành
phố Việt Trì trở thành tỉnh lỵ của Vĩnh Phú. Đến kỳ họp thứ 10 Quốc hội
IX (tháng 11/1996) đã thông qua Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa
giới hành chính một số tỉnh, trong đó có việc tái lập tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
6
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
Phú Thọ. Tỉnh Phú Thọ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động từ
ngày 1-1-1997, ngay năm sau Phú Thọ được công nhận là tỉnh miền núi
Phú Thọ có nền văn hoá rực rỡ từ lâu đời. Những di chỉ khảo cổ văn hoá
Sơn Vi, Đồng Đậu, Làng Cả và nhiều đình, chùa, lăng, tẩm còn lại quanh
vùng núi Nghĩa Lĩnh cho thấy đất Phong Châu là một trung tâm văn hoá
của dân tộc. Di tích lịch sử quan trọng là đền quốc mẫu Âu Cơ, khu di tích
đền Hùng Đây là vùng đất có nhiều lễ hội, đáng kể nhất là lễ hội Giỗ tổ
Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 âm lịch). Các dân tộc ít người cũng có
những đặc trưng văn hoá riêng của mình: Người Mường có nhiều truyện
thơ, ca dao, tục ngữ, hát xéc bùa, hát ví, hát đúm. Người Việt có hát xoan,
hát ghẹo
1.2.2 Các lễ hội chính:
 Lễ hội đền Hùng
 Lễ hội Gia Thanh
 Hội Đào Xá
 Hội đền Mẹ Âu Cơ

 Hội đình Cả
 Hội chọi trâu Phù Ninh
 Hội Chu Hoá
 Hội mở cửa rừng
 Hội đánh cá
 Lễ Cầu tháng Giêng
 Hội phết Hiền Quan
 Hội Xoan
Chương 2: Thực trạng phát triển của lễ hội Đền Hùng
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
7
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
2.1 Giới thiệu về lễ hội Đền Hùng
Trong những lễ hội chính đó nổi bật lên hàng đầu chính là lễ hội đền
Hùng. Là một nơi mà đang được sự quan tâm rất lớn của Đảng và Nhà nước
và cũng là nét tiêu biểu cho đặc trưng văn hóa của dân tộc ta là cái nôi của dân
tộc trong những ngày đầu lập nước.Một dân tộc thật tự hào vì biết mình có
một ông Tổ sinh ra cả giống nòi đất Việt. Đã bao đời nay con cháu hướng về
mộ Tổ để tri ân công đức tổ tiên đã dày công gây dựng một cơ đồ cho hôm
nay và mãi mãi về sau. Cứ đến tháng ba âm lịch hàng năm: “Dù ai đi ngược
về xuôi. Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba” thì con cháu lại tụ hội về
quanh núi Nghĩa Lĩnh để thắp hương tưởng niệm các vua Hùng. Đất văn vật
hàng nghìn năm tồn tại và phát triển cho đến ngày hôm nay đã và đang ngày
càng thay da đổi thịt. Diện mạo của Khu di tích lịch sử Đền Hùng ngày càng
khang trang, to đẹp hơn nhiều so với thời chúng ta còn chịu dưới sự thống trị
của ngoại bang và kể cả trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lược
Pháp và Mỹ. Có được điều đó, chính vì Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan
tâm xây dựng Đền Hùng để xứng tầm với một khu di tích đặc biệt của quốc
gia và rồi đây sẽ trở thành trọng điểm du lịch của cả nước.


Vì vậy để có thể khai thác triệt để những giá trị về nhân văn cũng như về
lịch sử của khu di tích Đền Hùng chúng ta cần phải hiểu rõ về nó và đó cũng
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
8
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
chính là những tài liệu vô cùng quý giá mà chúng ta có thể để lại cho mai sau
biết về lịch sử hàng ngàn năm của đất nước Việt Nam.

2.2 Lịch sử hình thành của Đền Hùng
2.21. Hình thế thiên nhiên
(3)
Núi Hùng (còn gọi là Nghĩa Linh, Nghĩa Cương, Bảo Thiếu Lĩnh, cao
175m so với mặt biển) thuộc thôn Cổ Tích xã Hy Cương huyện Phong
Châu tỉnh Phú Thọ.
Người xưa nói:
Núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình uốn khúc thành dãy
núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo ở phía sau.
Từ núi Hùng nhìn ra:
- Phía trước, ngã ba Việt Trì có hàng chục quả đồi thấp là đàn rùa bò từ ao
nước lớn lên.
- Phía sau, mảnh đất làng Hy Sơn (Tiên Kiên) là hình một con phượng cắp
thư.
- Phía bên phải, quả đồi Khang Phụ (Chu Hóa) là hình một con hổ phục.
- Phía bên trái, quả đồi An Thái (Phượng Lâu) hình vị tướng quân bắn nỏ.
- Làng Cổ Tích bên chân núi nằm trên lưng một con ngựa ghi cương.
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
9
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
- Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình là 99 con voi chầu về đất Tổ.
Xa xa phía tây dòng sông Thao nước đỏ, phía đông dòng sông Lô nước

xanh như hai dải lụa màu viền làm ranh giới của cố đô xưa. Đặc biệt không
khí trên núi rất thông thoáng, mát dịu và quanh năm thoang thoảng hương
thơm.
Tương quyền Vua Hùng đi khắp trong nước, cuối cùng mới chọn được
vùng sơn thủy hữu tình này làm đất đóng đô.
2.22. Thờ Tự
Khu di tích Đền Hùng có 4 đền, 1 chùa và lăng vua Hùng, phân bố như
sau:
* Đền thượng và lăng trên đỉnh núi:
Nơi đây các vua Hùng lập miếu thờ Trời "Kính thiên lĩnh điện", thờ 3 ngọn
núi thiêng là Đột Ngột Cao Sơn (núi Hùng), Aáp Sơn (núi Trọc), Viễn Sơn
(núi Vặn), thờ Thần lúa (có mảnh vỏ trấu bằng chiếc thuyền thúng mới mất
trong kháng chiến chống Pháp), thờ Thánh Gióng là tướng Nhà Trời giúp
đuổi giặc Ân.
Giữa thế kỷ 3 trước công nguyên, Thục Phán được Vua Hùng 18 nhường
ngôi, mới lập hai cột đá thề trên đỉnh núi và làm đền thờ 18 vua Hùng. Lại
mời dòng tộc nhà vua đến ở chân núi giao cho việc thờ cúng.
Sau đời An Dương Vương, nhân dân địa phương vẫn tiếp tục thực hiện các
tín ngưỡng trên qua suốt thời Bắc thuộc; đến thời phong kiến tự chủ các
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
10
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
Vua Hùng được tôn lên là Tổ tiên của dân tộc và việc thờ tự dần dần mang
tính chất của cả nước.
Hiện nay còn thờ danh hiệu 18 đời Vua Hùng và 3 vị thần núi: "Hùng đồ
thập bát thế Thánh Vương thánh vị", "Đột ngột Cao Sơn", "Aáp Sơn",
"Viễn Sơn".
Lăng chính là mộ vua Hùng thứ 6. Tương truyền sau khi đuổi giặc Ân,
ngài cởi áo vắt trên cành kim giao rồi hóa, táng tại đó.
* Đền Trung:

Nơi này trên 2.300 năm trước dựng quán nghỉ ngơi ngắm cảnh của vua
Hùng, đôi khi họp bàn việc nước cơ mật với Lạc hầu, Lạc tướng. Tương
truyền còn là nơi hoàng tử Lang Liêu dâng bánh dày, bánh chưng.
Sau thời Hùng Vương nhân dân lập miếu thờ các vua Hùng "Hùng Vương
tổ miếu".
* Đền Hạ và chùa:
Theo truyền thuyết, bãi bằng lưng chừng núi này là nơi tổ mẫu Âu Cơ
chuyển dạ sinh ra bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Do sự tích này mà
nhân dân lập ra đền Hạ để thờ các vua Hùng. Bên phải là chùa Sơn cảnh
thừa long tự (còn gọi Thiên quan thiền tự). Phía trước chùa là gác chuông.
Phía trước đền là nhà bia công đức.
* Đền giếng:
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
11
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
Ơở đây có giếng Ngọc của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa con vua
Hùng 18. Tương truyền giếng này hai nàng dùng rửa mặt chải tóc chít
khăn. Đền thờ hai công chúa làm chùm lên giếng.
Ngọc phả đền Hùng viết sớm nhất là triều Tiền Lê (vào năm Thiên Phúc
nguyên niên, tức 890 tây lịch). Viết lại và sao trì triều nào cũng làm, nhưng
phong sắc thì không triều nào dám phong, vì là Tổ tiên.
Bản ngọc phả soạn thời Trần (thế kỷ 13), năm Hồng Đức thứ nhất hậu Lê
(1470) san nhuận lại viết " Từ nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến
triều đại ta bây giờ là Hồng Đức hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi
đền ở làng Trung Nghĩa (đền Hùng - VKB). Những ruộng đất sưu thuế từ
xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi. Ở đây nhân dân toàn
quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công ơn gầy dựng nước nhà của các đấng
thánh tổ ngày xưa "
2.2.3. Kiến Thiết
Về kiến trúc đền chùa, qua khảo sát thực địa thì thấy: Đền miếu các thời

đại xa xăm đã bị hư hoại hết. Chỉ còn những di vật nói lên tình hình kiến
thiết cũ mà thôi. Tìm thấy 13 hiện vật thời Hùng Vương (rìu, giáo đồng),
mẫu tháp đất nung, mảnh bát đĩa gốm sứ có niên đại Lý Trần trở về trước,
3 cột đá cổ, lỗ xà bị bào mòn lớn chứng tỏ rất lâu đời (một chiếc dựng trên
bệ trước cửa đền Thượng).
Kiến trúc hiện còn lại là của thời Hậu Lê và Nguyễn. Bản ngọc phả sao
năm Hoằng Định thứ nhất (1600) nói trên núi Hùng có đền Thượng, mộ
vua Hùng thứ 6, hai cột đá thề của Phục Phán, đền Trung, đền Hạ và chùa.
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
12
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
Đền Giếng chưa thấy nói đến. Có lẽ sau đó đền Giống mới làm. Qua nhiều
lần trùng tu kiến trúc Hậu Lê chỉ còn đền Trung, đền Hạ và gác Chuông.
Trong dịp đại trùng tu 6 năm liền 1917 - 1922, nhân dân 18 tỉnh Bắc Bộ
cung tiến được 6000 đồng (tiền Đông Dương) xây lại đền Thượng, Lăng và
đền Giếng. Nhà tư sản Nghĩa Lợi cung tiến 1000 đồng xây 539 bậc xi
măng (cổng lên đền Thượng 496 bậc, đền Hạ xuống đền Giếng 44 bậc).
Nhà tư sản Đồng Thuận cung tiến tiền xây cổng chính (biển đề: Cao Sơn
cảnh hành bằng núi cao đường rộng).
Năm 1962 tổ chức xổ số được 24.000 đồng xây khu nhà Công Quán trưng
bày hiện vật và tiếp khách. Năm 1973 UBND tỉnh Vĩnh Phú quyết định
khoanh 1.562 ha làm khu bảo vệ Đền Hùng, trong đó khu trung tâm bất
khả xâm phạm gồm: Núi Nghĩa Lĩnh, núi Trọc lớn, núi Trọc con, núi Vặn,
núi Yên Ngựa, núi Nỏn, đồi Cò Kè, đồi Cao Phầy, đồi Phân Đậu và đồi
Công Quán. Năm 1976 đắp đập hồ Đa Vao. Năm 1980 xây nhà khách và
mở tuyến đường nhựa. Năm 1983 khởi khảo kế hoạch xây dựng nhà Bảo
tàng trên đồi Công Quán. Năm 1995 hoàn thành. Nguồn kinh phí dựa vào
Nhà nước cấp và nhân dân cung tiến, tổng cộng trên 3000 triệu đồng. Bên
khu đền làm thâm sân Lăng và tuyến đường phụ từ Lăng xuống đền Giếng.
Như vậy là bên cạnh khu di tích lịch sử trên núi Nghĩa Lĩnh, còn có khu

phục vụ ở đồi Công Quán. Khu phục vụ gồm có nhà bảo tàng, nhà khách
và sân giữ xe, được trang điểm bởi các hoa cây cảnh.
2.2.4.Vài nét về bảo tàng
Nhà bảo tàng tuy trưng bày làm nhiều phòng, nhưng chung quy có thể hiểu
tổng quát là, tại đây trưng bày 5 loại hiện vật.
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
13
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
 Hiện vật tìm thấy tại Đền Hùng, gồm 13 hiện vật có từ thời Hùng
Vương và nhiều hiện vật có sau thời Hùng Vương. Những hiện vật
đó cho biết từ thời Vua Hùng con người đã lên núi này khá đông đúc
và bỏ sót lại đồ dùng. Những mẫu đá, gốm xây dựng và đồ thờ có
niên đại từ sau công nguyên đến các thời Lý, Trần, Hậu Lê cho thấy
khu vực này được thờ tự liên tục ngày từ khi triều đại Hùng Vương
kết thúc đến bây giờ.
 Hiện vật lấy ở các di chỉ khảo cổ thuộc thời Vua Hùng hoặc có liên
quan tới thời Vua Hùng, ở nhiều nơi tập hợp về. Những hiện vật này
giống như hiện vật ở mọi bảo tàng.
 Những cuối sách sử, những mẫu trích từ các sách cổ của người
Trung Quốc và nước ta nói về thời Hùng Vương. Những hiện vật
này cũng giống như ở mọi bảo tàng, nghĩa là muốn nói rằng thời
Hùng Vương là có thật.
 Hiện vật phản ánh các hình thức tín ngưỡng Vua Hùng của nhân
dân, ở trong cũng như ở ngoài khu vực Đền Hùng. Đó là các bản
ngọc phả, đồ thờ tự, tranh vẽ và ảnh chụp các đình đền, các lễ hội.
 Hiện vật lưu niệm đồng bào về thăm mộ Tổ. Đó là những quà tặng,
những ảnh chụp các nhà lãnh đạo, các đoàn đại biểu và nhân dân tới
thăm Đền Hùng.
2.2.5. Lễ hội cổ truyền
Thời phong kiến định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (còn gọi là hội chính)

vào những năm chẵn (ví dụ 1900 - 1905), còn hàng năm thì giao cho dân
Trưởng tạo lệ (con trưởng) sửa lễ cúng Tổ vào ngày 12-3 âm lịch (ngày giỗ
Kinh Dương Vương). Đầu thế kỷ 20 này nhà Nguyễn ấn định lấy ngày 10-
3 làm chuẩn (xem phụ lục)
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
14
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
Dân trưởng tạo lệ là dân Hy Cương, họ được miễn sưu thuế phu phen để
trông nom đền miếu và làm giỗ Tổ.
Nhà vua phong cho vị trưởng lão của dân Trưởng tạo lệ chức quan gọi là
"lệnh đồng trà". Ông này cứ đến ngày giỗ Tổ, tới kinh đô nhận 3 gạo nếp
thơm của vua đưa cho, về thổi xôi cúng trên Đền.
Năm hội chính người ta treo lá cờ thần trên đỉnh núi Nỏn báo cho đồng bào
từ rất sớm. Ngoài việc quan triều đình và quan hàng tỉnh đứng tế, các làng
xã có đình thờ Vua Hùng, vợ con vua hoặc tướng lĩnh thời Hùng Vương
còn rước kiệu đến chầu. Trên địa bàn Vĩnh Phú có hơn 600 nơi thờ nhưng
chỉ hơn 40 làng quanh đền là có điều kiện rước chầu.
- Rước kiệu là một hoạt động tín ngưỡng hết sức nghiêm trang và vui vẻ.
Hầu kiệu có những người che lọng, vác cờ, bát bửu, tấu nhạc bát âm, đánh
chiêng trống, phường chèo đóng đường (vừa đi vừa diễn). Làng ở xa phải
rước hai ba ngày mới tới đền.
- Trò chơi: Thường có các mục đu tiên, ném còn, kéo co, chọi gà, đánh vật,
bắn nỏ thi, kéo lửa nấu cơm thi, bịt mắt bắt dê
- Văn nghệ: ban ngày có hát sẩm, hát ví, hát trống quân, cò lả, sa mạc
Sẩm là nghệ sĩ dân gian hát lấy tiền thưởng, còn các điệu hát khác do thanh
niên nam nữ các làng tự biên tự diễn hát đối đáp nhau cho vui. Đêm đến có
hát xoan cửa đền do phường An Thái, Kim Đơn phục vụ, hát chèo, tuồng ở
ngoài các bãi rộng chân núi.
- Một số sinh hoạt ngày nay cấm đoán nhưng xưa rất thịnh hành là đồng
bóng, bói toán, cờ bạc.

SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
15
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
Năm 1946 giỗ Tổ đầu tiên dưới chính quyền cách mạng, cụ Huỳnh Thúc
Kháng Phó Chủ tịch nước lên làm lễ dâng hương (mặc áo the, đội khăn
xếp, khấn vái theo lễ tục cổ truyền). Dịp này cụ Huỳnh còn dâng lên bàn
thờ Tổ tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm, là hai vật báu nói lên ý chí
bảo vệ đất nước của Chính phủ và nhân dân ta trước họa xâm lăng đang đe
dọa. Trong kháng chiến chống Pháp việc đèn hương tuần tiết do nhân dân
quanh đền làm với tư cách cá nhân.
Sau năm 1952, Nhà nước bắt đầu chịu trách nhiệm tổ chức giỗ Tổ hàng
năm, thường là tỉnh đứng làm. Thành phần Ban tổ chức có UBND, Văn
hóa, Thể thao, Y tế, Công an, Thương nghiệp v.v Nghi thức chính là biểu
lễ dâng hương hoa của đoàn đại biểu Quân Dân Chính tỉnh, huyện và xã sở
tại.
Hội đền Hùng có chiều hướng ngày càng đông và kéo dài. Vào những năm
60 ước độ 10 vạn người về dự hội; những năm 70 ước độ 20 vạn; những
năm 80 ước độ 30 vạn; những năm tới có thể lên đến 40-50 vạn. Những
ngày đấy đứng trên đỉnh núi nhìn xuống xung quanh sẽ thấy từ mọi con
đường tới đền Hùng, người ta đổ về dự hội như những dòng sông đổ về
biển cả. Đứng từ xa nhìn lên núi sẽ thấy muôn vàn chấm động đủ màu sắc
hòa lẫn cây xanh như một rừng hoa tươi thắm trước gió xuân.
Mọi người già, trẻ, gái, trai náo nức lúc đi, hân hoan lúc đến, lưu luyến lúc
ra về, cảnh trí tình người thân thương tha thiết vô cùng. Thật là một dịp hội
để đồng bào cả nước: miền ngược, miền xuôi, miền Nam, miền Bắc gặp
nhau sum họp trên đất Tổ quê hương, bộc lộ những tình cảm thiêng liêng
tự đáy lòng.
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
16
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN

2.2.6. Truyền thuyết tiêu biểu
* Bọc trăm trứng:
Vua đầu nước ta là Kinh Dương Vương cháu bốn đời Viêm Đế Thần Nông
(vị thần coi về nông nghiệp của Trời) Kinh Dương Vương lấy Thần Long
nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đi tuần thú gặp Âu Cơ ở động
Lăng Xương kết làm vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ sinh ra một
bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Khi các con khôn lớn, Lạc Long
Quân nói: "Ta giống Rồng, nàng giống Tiên không thể ở lâu với nhau
được" bèn chia 50 con cho Âu Cơ đem lên núi, Lạc Long Quân dẫn 49
người con xuống biển, để lại người con cả nối ngôi hiệu là Hùng Vương
đặt tên nước Văn Lang đóng đô ở thành Văn Lang (Việt Trì - VKB),
truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương
* Phù Đổng Thiên Vương: (Tháng Gióng)
Về thời Hùng Vương thứ 16, nước Văn Lang bị giặc Ân xâm lược. Vua
cho sứ giả đi rao người tài ra giúp nước. Ơở làng Phù Đổng bộ Vũ Ninh có
một cậu bé 3 tuổi nghe tiếng sứ giả bèn vươn người thành cao lớn, xin vua
rèn ngựa sắt, nón sắt, roi để đánh giặc. Đuổi xong giặc Ân chàng cưỡi ngựa
bay lên trời. Vua Hùng phong là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ trên
đỉnh Nghĩa Lĩnh.
* Bánh dày bánh chưng:
Vua Hùng thứ 6 muốn chọn con hiền cho nối ngôi, mới ban lệnh thi cỗ.
Các hoàng tử ra sức tìm kiếm sơn hào hải vị bày biện. Riêng Lang Liêu mẹ
mới mất không đi xa được, chàng nghĩ cách dùng gạo nếp thơm chế ra
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
17
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
bánh dày, bánh chưng. Vua thấy Lang Liêu hiếu thảo siêng năng, sáng chế
ra hai bánh quý bèn truyền ngôi cho làm Hùng Vương thứ 7.
* Dưa hấu:
An Tiêm là con nuôi Vua Hùng, nói năng kiêu ngạo, bị đày ra đảo hoang.

Vợ chồng An Tiêm chỉ được mang theo một số lương thực và con dao
phát. Chàng thấy đàn quạ đến đảo ăn thứ quả da xanh lòng đỏ, dây bò trên
mặt đất. An Tiêm lấy một quả ăn thử thấy ngon ngọt khỏe người, bèn trỉa
đất rắc hạt trồng khắp đảo. Đến vụ thu hoạch chàng gọi thuyền buôn vào
bán. Vua biết tin liền cho đón về.
* Chử Đồng Tử:
Công chúa Tiên Dung con Vua Hùng 18 thích du chơi phóng khoáng.
Nàng cưỡi thuyền xuôi sông Cái, đến bãi Tự Nhiên sai căng màn tắm.
Không ngờ dội lớp cát trôi lộ ta chàng đánh cá trần truồng vùi mình trong
hố, tên là Chử Đồng Tử. Tiên Dung cho rằng duyên trời xe, bèn lấy chàng
làm chống. Vua cha biết tin giận sai quân đến bắt, thì toàn bộ khu vực của
Chử Đồng Tử tách khỏi đất bay lên trời.
* Sơn Tinh - Thủy Tinh:
Sơn Tinh và Thủy Tinh đều đến cầu hôn công chúa Ngọc Hoa con Vua
Hùng 18. Nhà vua hẹn ai đem lễ vật đến trước sẽ được lấy công chúa, Sơn
Tinh nhờ có sách ước và các thần thổ địa giúp sức nên sớm có lễ vật đem
đến trình vua, vua bèn gả Ngọc Hoa cho Sơn Tinh đem về núi Tản Viên.
Thủy Tinh đến sau thất bại liền hô phong hoán vũ đánh đuổi Sơn Tinh.
Sơn Tinh huy động các loại dã thú đánh lui các loài thủy tộc và làm cho
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
18
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
núi luôn luôn cao hơn nước. Thủy Tinh thua nhưng vẫn chưa nguôi tức
giận, mỗi năm dâng nước đánh Sơn Tinh một lần, gây ra lũ lụt.
* Cột đá thề:
Vua Hùng 18 không có con trai, nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn
(tức Tản Viên). Thục Phán là cháu Vua Hùng làm lạc tướng bộ lạc Tây Vu
đem quân đến tranh ngôi, xảy ra chiến tranh Hùng - Thục. Tản Viên
khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Phán cảm kích dựng hai
cột đá thề trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thề rằng sẽ kế tục giữ nước và thờ tự

các Vua Hùng. Phán sai thợ đẽo đá dựng miếu trên núi và cho mời dòng
tộc nhà vua đến ở chân núi lập ra làng Trung Nghĩa giao cho trông nom
đền miếu, cấp cho đất ngụ lộc từ Việt Trì trở ngược đến hết địa giới nước
nhà. Lại sai dựng miếu ở động Lăng Xương thờ bà mẹ Tản Viên, cấp đất
ngụ lộc cho Tản Viên từ cửa sông Đà trở lên phía Tây Bắc. Sau đó Phán
xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa đặt tên nước là Âu Lạc.
Phả hệ họ Hùng: (1)
TT Hiệu vua Húy Tuổi thọ
Số năm làm
vua
1 Kinh Dương Vương Lộc Tục 260 215
2 Lạc Long Quân Sùng Lâm 506 400
3 Hùng Quốc Vương Lân Lang 260 221
4 Hùng Diệp Vương Bảo Lang 646 300
5 Hùng Hy Vương Viên Lang 599 200
6 Hùng Huy Vương
Pháp Hải
Lang
500 87
7 Hùng Chiêu Vương Lang Liêu 692 200
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
19
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
Lang
8 Hùng Vi Vương
Thừa Vân
Lang
642 100
9 Hùng Định Vương Quân Lang 602 80
10 Hùng Uúy Vương

Hùng Hải
Lang
512 90
11 Hùng Chinh Vương
Hưng Đức
Lang
514 107
12 Hùng Vũ Vương
Đức Hiền
Lang
456 96
13 Hùng Việt Vương Tuấn Lang 502 105
14 Hùng Aánh Vương
Chân Nhân
Lang
386 99
15 Hùng Triều Vương
Cảnh Chiêu
Lang
286 94
16 Hùng Tạo Vương
Đức Quân
Lang
273 92
17 Hùng Nghị Vương
Bảo Quang
Lang
217 160
18 Hùng Duệ Vương Huệ Lang 221 150
(2) Cộng:

2.796
năm


Đời
vua
thứ
Hịêu vua Số con trai Số con
gái
Số chi Số cháu
chắt
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
20
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
1 Kinh Dương vương 24 20 36 596
2 Lạc Long Quân 186 29 141 3599
3 Hùng Quốc Vương 33 10 51 900
4 Hùng Diệp Vương 49 20 59 1591
5 Hùng Hy Vương 52 9 61 1600
6 Hùng Huy Vương 33 19 52 599
7 Hùng Chiêu Vương 23 36 59 750
8 Hùng Vi Vương 31 16 47 579
9 Hùng Định Vương 29 30 50 559
10 Hùng Uúy Vương 29 30 50 434
11 Hùng Chinh Vương 46 18 64 409
12 Vùng Vũ Vương 50 6 56 305
13 Hùng Việt Vương 27 30 541
14 Hùng Aánh Vương 18 22 40 309
15 Hùng Triều Vương 40 16 56 399
16 Hùng Tạo Vương 30 7 37 319

17 Hùng Nghị Vương 22 15 37 291
18 Hùng Duệ Vương 20+ 6+ 26 194
2.3 Thực trạng phát triển của khu di tích lịch sử Đền Hùng trong
những năm gần đây.
Ai đã từng đến thăm Đền Hùng của những năm tháng xa xưa nhớ lại, đều
thấy một bước tiến đáng kể trong quá trình đầu tư xây dựng Đền Hùng. Nếu
như trước đây khi đến Đền Hùng còn âm u, huyền bí; lối đi ra vào Đền Hùng
chỉ là những con đường nhỏ gập ghềnh, cây cỏ mọc úm đường, người đi lại
thăm viếng Đền Hùng thưa thớt, chỉ có những người thành tâm, hàng năm mới
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
21
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
về thăm viếng một Tổ thì ngày nay, mặc dù Đền Hùng không còn vẻ u tịch
như xưa, nhưng vẻ trang nghiêm, tôn kính của các đền chùa trên núi Hùng,
cũng có nghĩa là sự trân trọng các giá trị văn hóa mà ông cha ta để lại vẫn còn
nguyên giá trị. Trong xu thế phát triển và đổi mới, ban quản lý Đền Hùng đã
cho mở rộng xây dựng và tu bổ các công trình từ kết cấu hạ tầng đến các đền
đài, lăng tẩm, làm cho bộ mặt Đền Hùng ngày càng khang trang, to đẹp và văn
minh hơn. Những việc làm này chính là chúng ta đã từng bước kết hợp hài
hòa giữa tôn trọng tín ngưỡng tâm linh của dân tộc với sự phát triển kinh tế–
văn hóa của đất nước.
Thời gian gần đây Khu di tích lịch sử Đền Hùng đã được Nhà nước công
nhận là khu di tích đặc biệt của quốc gia – một khu di tích lịch sử “độc nhất
vô nhị” của dân tộc. Đây là một ưu thế lớn đối với tỉnh Phú Thọ. Chính vì thế
tại Đại hội XVI của Đảng bộ tỉnh đã xác định cần xây dựng Khu di tích lịch
sử Đền Hùng nối liền với Việt Trì là tâm điểm du lịch của Phú Thọ và trở
thành thành phố lễ hội thu hút đồng bào cả nước về với đất Tổ.
Vậy Chúng ta sẽ làm gì để Khu di tích lịch sử Đền Hùng sớm trở thành
nơi đóng góp nguồn ngân sách chính cho tỉnh đồng thời du lịch ở nơi đây trở
thành nghành kinh tế mũi nhọn của tỉnh trong tương lai.Hiện tại tỉnh Phú Thọ

vẫn còn ở mức "nghèo" so với cả nước. Trước hết về quan điểm chỉ đạo của
tỉnh và Trung ương, đã hoàn toàn thấy rõ sự quan tâm đầu tư, chỉ đạo của các
cấp, các ngành đối với sự phát triển của Khu di tích lịch sử Đền Hùng. Chính
vì thế mà những năm qua từ Trung ương đến địa phương tỉnh phú thọ đã đầu
tư hàng trăm tỷ đồng để mở rộng đường xá, xây dựng những công trình mới
ngày càng khang trang to đẹp, thu hút đồng bào cả nước về với Đền Hùng.
Giỗ Tổ Hùng Vương – lễ hội Đền Hùng năm 2005, 2008 vừa qua được tổ
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
22
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
chức hoành tráng đã gây được ấn tượng tốt đẹp đối với đồng bào cả nước và
khách nước ngoài.
Tuy nhiên bên cạnh những thành công đã làm được chúng ta còn rất nhiều
việc còn phải làm.Vì chúng ta không được phép dừng lại mà phải tiếp tục cố
gắng để sớm đưa nơi đây không chỉ có người Việt Nam mà cả khách nước
ngoài ai cũng đều biết đến nơi đây là cái nôi là niềm tự hào của dân tộc Việt
Nam. Ví dụ như tình trạng mùa vụ rất lớn ở đây, theo quan sát của em thì chỉ
khi vào ngày lễ hội chính là mọi người kéo nhau về đây rất đông thậm chí
gây ra tình trạng chen lấn xô đẩy nhau dẫn đến quá tải làm cho nơi đây không
thể phục vụ hết được tất cả lượng khách đến đây và gây khó khăn cho ban
quản lý trong việc kiểm soát được hết mọi việc ở nơi đây . Nhưng hết ngày lễ
hội thì mọi việc ở đây lại trở nên vắng vẻ nếu có thì chỉ có tầm vài chục người
đi lễ chùa một ngày lễ hội chính, vào ngày đó mọi người trên khắp cả nước
kéo nhau về Đền Hùng dẫn đến quá tải làm cho nơi đây không thể phục vụ hết
được tất cả lượng khách đến đây và gây khó khăn cho ban quản lý kiểm soát
được mọi việc
Nếu ai đã từng có dịp về lễ hội Đền Hùng vào 5-6 năm trước đây cũng đều
nhận thấy những điều bức xúc như tình trạng ăn xin tràn lan,nạn ăn chẹt
khách… do khi đó công tác quản lý ở đây vẫn còn yếu kém. Nhưng trong 2-3
năm nay được sự quan tâm của đảng và nhà nước nơi đây đã được quy hoạch

có chiến lược và hình ảnh về Đền Hùng trong con mắt du khách thập phương
đã được cải thiện phần nào.Nhưng ở khu di tích nào cũng vậy những điều bức
xúc thì không bao giờ có thể dẹp hết được đó cũng là quy luật của sự phát
triển. Ở Đền Hùng cũng vậy nơi đây vẫn tồn tại rất nhiều việc cho chúng ta
phải làm để đưa nơi đây trỉơ thành một điểm du lịch hấp dẫn không chỉ đối
với du khách trong nước mà còn cả với du khách nước ngoài đó là:
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
23
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
 những cây cổ thụ lâu năm đang bị mất dần do sự tàn phá của
thiên nhiên
 diện tích của khu di tích đang bị lấn chiếm bởi sự thiếu hiểu
biết của một số hộ dân
 Nét cổ kính đang bị mất dần thay vào đó là những kiến trúc
hiện đại đang được xây dựng lên do không có sự quản lý chặt chẽ.
 Năng lực quản lý tổ chức vẫn kém để xảy ra tình trạng lấn
chiếm diện tích đương đi của khách vào ngày lễ hội chính dẫn đến
xảy ra tình trạng chen lấn xô đẩy giữa các khách tham quan, từ đó
xảy ra rất nhiều tệ nạn như giật đồ của khách
 Chưa quản lý tập trung được nơi cư trú cho những nhu cầu
qua đêm của khách phương xa đến
Đó chỉ là một trong những vấn đề cấp bách đòi hỏi chúng ta cần phải đưa
ra những giải pháp thật hợp lý để vừa phát triển được khu di tích lịch sử Đền
Hùng vừa giải quyết tốt vấn đề công ăn việc làm cho người dân địa phương.
Theo số liệu thống kê của tổng cục du lịch năm 2007 số khách quốc tế đến
việt nam đạt khoảng 3,9 triệu lượt, tăng khoảng 300.000lượt khách so với
năm 2006. Khách du lịch nội địa cũng đạt 17,5 triệu lượt người. Doanh thu
của nghành du lịch ước đạt 42.000 tỷ đồng tăng 6.00 tỷ đồng so vơí năm 2006
Trong năm 2007 nhà nước đã đầu tư khoảng 620 tỷ đồng cho 59 tỉnh, thành
phố phát triển cơ sở hạ tầng du lịch.về đầu tư nước ngoài trong tổng số 5, 15

tỷ USD vốn đã cam kết đầu tư vào việt nam trong 9 tháng đầu năm nay, có tới
2, 2 tỷ USD, chiếm gần 43% tổng số vốn đầu tư vào lĩnh vực du lịch.
Trong năm 2008 du lịch việt nam dự kiến đón khoảng 4,4 triệu lượt khách
quốc tế tăng khoảng 800.000 lượt so với con số ước đạt 2008. Mức tăng
trưởng đạt từ 16% đến 18% số lượng khách nội địa là 18,5 triệu lượt, tốc độ
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
24
ĐỀ ÁN KINH T Ế DU LỊCH KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
tăng trưởng 11%. Thu nhập từ du lịch 40.000 đến 43.000 tỷ đồng (2.5 tỷ
USD)
(4)
Trong đó theo số liệu thống kê của ban quản lý di tích lịch sử Đền Hùng thì số
lượng khách đến khu di tích vào những năm qua như sau:
Năm Số lượt khách nội
địa
Số lượt khách quốc tế Tổng lượt khách
200
5
1.994.000 6.000 2.000.000
200
6
1.995.000 5.000 2.000.000
200
7
2.492.000 8.000 2.500.000
200
8
3.240.000 10.000 3.250.000
Những con số thống kê đã chứng tỏ sức thu hút đối với khách du lịch cả
trong lẫn ngoài nước của khu di tích lịch sử. Nhưng trong điều kiện hội nhập

WTO nếu chúng ta chỉ dừng lại ở đó thì chúng ta sẽ bị tụt hậu xa so với sự
năng động nền kinh tế của những tỉnh thành phố khách trong cả nước
Chương 3 :Giải pháp phát triển khu di tích lịch sử đền Hùng
Chương trình Lễ hội đền Hùng 2008
Lễ hội đền Hùng là hoạt động quan trọng nhất trong chương trình “Về miền lễ hội cội
nguồn dân tộc Việt Nam năm 2008” mở màn ngày 11/4/2008 (tức ngày 6/3/2008 âm lịch)
tại đền Mẫu Âu Cơ (Hạ Hoà) và kết thúc vào ngày 15/4/2008 (tức ngày 10/3/2008 âm
lịch) tại đền Hùng.
Không gian lễ hội được mở rộng từ TP. Việt Trì - thành phố trên nền kinh đô Văn
Lang xưa đến núi Nghĩa Lĩnh, nơi thờ tự 18 đời Vua Hùng.
SVTH: NGUYỄN DUY KHÁNH LỚP: DU LỊCH 47
25

×