Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

CƠ hội và THÁCH THỨC TRONG VIỆC THỰC THI HIỆP ĐỊNH TRIPs tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.97 KB, 13 trang )

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC THỰC THI HIỆP ĐỊNH TRIPs
TẠI VIỆT NAM
I NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HIỆP ĐỊNH TRIPs
1. Lịch sử của Hiệp định TRIPS
Hiệp định TRIPS được thiết lập với ý nghĩa là một phần của Những Thoả thuận
Thương mại Đa phương trong vòng Đàm phán Uruguay trong khuôn khổ Thỏa
thuận chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Đây là lần đầu tiên các khía
cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại quốc tế được
đàm phán trong khuôn khổ của GATT. Kết quả của các cuộc đàm phán đó được
thể hiện trong Thỏa thuận Thiết lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiệp
định TRIPS là Phụ lục 1C của Thỏa thuận Thiết lập Tổ chức WTO. Hiệp định có
hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các Thành viên WTO, được thông qua tại
Marrakesh ngày 15 tháng 4 năm 1994 và có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 1995.
Hiệp định là một trong những trụ cột quan trọng nhất của WTO và bảo hộ sở hữu
trí tuệ trở thành một phần không thể tách rời trong hệ thống thương mại đa phương
của WTO.

2. Hiệp định TRIPS: Quyền sở hữu trí tuệ và tự do trong thương mại quốc tế
(a) Hiệp định TRIPS: Thỏa thuận đa phương toàn diện nhất về sở hữu trí tuệ cho
đến nay
Trong mối tương quan với các thỏa thuận quốc tế khác về sở hữu trí tuệ, Hiệp
định TRIPS được coi là toàn diện nhất xuất phát từ những đặc điểm sau đây của
Hiệp định: (i) là kết quả của sự kết hợp một số công ước quốc tế ra đời trước đó;
(ii) thiết lập các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu trong thời hạn cụ thể cho hầu hết các
đối tượng sở hữu trí tuệ, đó là quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế (bao gồm giống cây trồng), thiết kế bố trí
mạch tích hợp, thông tin bí mật; (iii) chứa đựng những quy định mở; (iv) thiết lập
những quy định thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ nhất, Hiệp định TRIPS là kết quả của sự kết hợp những điều ước quốc tế
quan trọng nhất trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Những điều ước quốc tế này là Công
ước Paris, Công ước Bern, Công ước Rome, Công ước Washington. Quy định của


những điều ước quốc tế này có hiệu lực bắt buộc thậm chí đối với những quốc gia
chưa phê chuẩn điều ước, ngoại trừ Công ước Rome có hiệu lực bắt buộc với
những nước đã là thành viên của Công ước.
Sự kết hợp của các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ nêu trên trong Hiệp định
TRIPS được xem xét và giải thích trong khuôn khổ Cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO trong các vụ US-Section 211 Appropriations Act (US-Havana Club) và
EC-Bananas (Điều 22.6) (Ecuador). Trong vụ US-Section 211 Appropriations Act
(US-Havana Club), Cơ quan phúc thẩm chỉ ra rằng các nước thành viên có nghĩa
vụ bảo hộ tên thương mại theo Điều 8 Công ước Paris (1967) bởi vì quy định này
đã được chuyển tải vào Điều 2 Hiệp định TRIPS.
Thứ hai, Hiệp định TRIPS thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu đối với bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ cho tất cả các Thành viên WTO bất kể mức độ phát triển. Đối với
mỗi đối tượng sở hữu trí tuệ, Hiệp định TRIPS thiết lập những tiêu chuẩn bảo hộ
tối thiểu mà các nước thành viên phải tuân thủ. Nội dung chính của những tiêu
chuẩn này là đối tượng được bảo hộ, đối tượng không được bảo hộ, quyền (bao
gồm thời hạn bảo hộ tối thiểu), những trường hợp ngoại lệ của những tiêu chuẩn
bảo hộ tối thiểu. Những tiêu chuẩn này được thể hiện trong Hiệp định TRIPS dưới
hai dạng. Trước hết, Hiệp định TRIPS đòi hỏi các Thành viên WTO tuân thủ
những quy định cơ bản, quan trọng của Công ước Paris và Công ước Berne đã
được chuyển tải vào Hiệp định TRIPS. Hơn nữa, Hiệp định TRIPS quy định thêm
một số nghĩa vụ cho các Thành viên WTO mà những nghĩa vụ này không quy định
trong Công ước Paris và Công ước Berne.
Các Thành viên WTO có nghĩa vụ tuân thủ và áp dụng các tiêu chuẩn bảo hộ do
Hiệp định TRIPS thiết lập. Đối với những vấn đề Hiệp định TRIPS đã thiết lập tiêu
chuẩn tổi thiểu, các nước thành viên không thể áp dụng tiêu chuẩn bảo hộ ở mức
độ thấp hơn mức độ do Hiệp định TRIPS thiết lập. Đồng thời, các Thành viên
không có nghĩa vụ cung cấp mức độ bảo hộ cao hơn. “Thực tế là Hiệp định đã thiết
lập cái mà các Thành viên cho là nguyên tắc và tiêu chuẩn “thích hợp” trong lĩnh
vực này.” Hiệp định TRIPS không có quy chế đặc biệt nào cho các nước đang phát
triển và các nước kém phát triển, ngoại trừ các quy định về giai đoạn chuyển đổi từ

Điều 65 đến Điều 67.
Những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu được thiết lập trong Hiệp định TRIPS loại bỏ
sự không đối xứng mà nguyên tắc đối xử quốc gia được quy định tại Điều 2(1)
Công ước Paris tạo ra. Cụ thể, theo Điều 2(1) Công ước Paris, trong trường hợp
Công ước Paris không thiết lập các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu, các nước thành
viên của Liên minh được tự do dành sự bảo hộ cho công dân của các nước thành
viên khác mà không dành cho công dân của nước mình. Sự tự do này làm phát sinh
những khác biệt về mức độ bảo hộ giữa các nước thành viên của Liên minh và đôi
khi sự khác biệt được coi là không tương xứng.
Thứ ba, Hiệp định TRIPS trao cho các Thành viên WTO quyền tự quyết nhất
định. Bên cạnh những tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu, Hiệp định TRIPS dành quyền tự
quyết cho các Thành viên trong một số vấn đề nhằm giúp các nước thiết lập tiêu
chuẩn quốc gia về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo chính sách của các nước này
trên cơ sở các quy định tuỳ nghi (trong tiếng Anh là flexible provisions).
Theo giải thích của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), các quy định tuỳ
nghi là những cách thức khác nhau mà thông qua đó các nghĩa vụ do Hiệp định
TRIPS thiết lập được chuyển tải vào pháp luật quốc gia sao cho phù hợp với lợi ích
quốc gia nhưng vẫn tương thích với các quy định và nguyên tắc của Hiệp định
TRIPS. Từ “tuỳ nghi” được sử dụng nhấn mạnh trong đoạn 6 Lời nói đầu của Hiệp
định TRIPS và ý nghĩa của từ này được tìm thấy trong nhiều quy định của Hiệp
định TRIPS. Những quy định tuỳ nghi của Hiệp định TRIPS được chia thành bốn
nhóm. Thứ nhất, những quy định tuỳ nghi tại đoạn 6 Lời nói đầu về giai đoạn
chuyển đổi. Thứ hai, những quy định tuỳ nghi tại Điều 1.1 về cách thức thi hành
các nghĩa vụ trong Hiệp định TRIPS. Thứ ba, những quy định tuỳ nghi tại các Điều
6, 8.1, 17, 18, 20, 23.4, 23.5, 23.9, 24.8, 26.2, 26.3, 30, 31, 33, 37, 38 về tiêu chuẩn
bảo hộ. Các quy định tuỳ nghi tại Điều 41.5 về vấn đề thực thi.
Cuối cùng, lần đầu tiên Hiệp định TRIPS thiết lập một cơ chế thực thi quyền sở
hữu trí tuệ hiệu quả. Một trong những khác biệt lớn nhất giữa Hiệp định TRIPS và
các điều ước quốc tế đa phương về sở hữu trí tuệ được ban hành trước Hiệp định
là: Hiệp định bao gồm các quy định chi tiết hơn nhằm đảm bảo thực thi những cam

kết của Hiệp định. Những tranh chấp sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi điều chỉnh của
Hiệp định TRIPS có thể được giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau như dân
sự, hành chính, biện pháp tạm thời, biện pháp kiểm soát biên giới và biện pháp
hình sự. Những tranh chấp phát sinh thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định
TRIPS được giải quyết theo thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO. Tức là, về
nguyên tắc, các nguyên tắc của WTO được quy định trong GATT cũng như cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO được áp dụng.
Với những đổi mới vừa nêu trên, cho đến nay, Hiệp định TRIPS được đánh giá
là thoả thuận đa phương về sở hữu trí tuệ toàn diện nhất. “[Hiệp định] là sự củng
cố có ý nghĩa quan trọng nhất đối với những tiêu chuẩn toàn cầu trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ.”
(b) Hiệp định TRIPS: Mục tiêu cơ bản nhất là thúc đẩy tự do trong thương mại
quốc tế
Phù hợp với mục tiêu của WTO, mục tiêu của Hiệp định TRIPS là thúc đẩy tự
do trong thương mại quốc tế bằng cách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời ngăn
chặn các quốc gia thành viên sử dụng quyền sở hữu trí tuệ như những rào cản trong
thương mại. “Một trong những hiểu lầm phổ biến nhất về Hiệp định TRIPS là mục
tiêu chính của Hiệp định là đề cao bảo hộ sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, điều này không
đúng. Mục tiêu chính - nếu không phải là mục tiêu duy nhất - của Hiệp định TRIPS
cũng như mục tiêu của toàn bộ Thỏa thuận Thiết lập WTO là thúc đẩy tự do trong
thương mại.”
Như đã nhấn mạnh trong Lời nói đầu của Hiệp định TRIPS, mục tiêu cơ bản
đầu tiên của Hiệp định là “giảm sự những lệch lạc và trở ngại trong thương mại
quốc tế…và bảo đảm rằng các biện pháp và thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ
không tự chúng tạo thành những rào cản cho thương mại hợp pháp.” Mục tiêu này
nên được đặt trong mối quan hệ với Điều 7 và Điều 8 của Hiệp định TRIPS. Theo
đó, bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ phải góp phần thúc đẩy đổi mới công
nghệ, chuyển giao và phổ biến công nghệ, đem lại lợi ích chung cho người tạo ra
và người sử dụng kiến thức công nghệ, đem lại lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế, tạo
ra sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ (Điều 7). Các Thành viên WTO được phép

áp dụng các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng cũng như những lợi ích công
cộng khác và được ngăn chặn lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ hoặc những hành vi
cản trở thương mại bất hợp lý hoặc ảnh hưởng xấu đến chuyển giao công nghệ
quốc tế (Điều 8).
Bên cạnh Lời nói đầu, nhiều quy định của Hiệp định TRIPS cũng thể hiện mục
tiêu thúc đẩy tự do trong thương mại. Chẳng hạn, đó là những quy định về thực thi
quyền sở hữu trí tuệ. Các biện pháp và thủ tục thực thi quyền sở hữu trí tuệ được
cho là tự chúng trở thành những rào cản trong thương mại quốc tế khi được sử
dụng không thích đáng. Do đó, Hiệp định TRIPS yêu cầu các Thành viên WTO áp
dụng các biện pháp thực thi “sao cho tránh tạo ra những rào cản cho thương mại
hợp pháp” theo quy định tại Điều 41. Các Điều 48, 50.3, 50.7 và 56 là những ví dụ
khác về các quy định nhằm ngăn chặn và xử lý việc lạm dụng các biện pháp thực
thi của chủ thể nắm giữ quyền (hoặc người được cho là chủ thể nắm giữ quyền) có
thể cản trở thương mại quốc tế hợp pháp.
3. Các nguyên tắc của Hiệp định TRIPS
Tương tự như các thoả thuận khác thuộc WTO như GATT và GATS, Hiệp định
TRIPS được thiết lập dựa trên ba nguyên tắc. Đó là nguyên tắc đối xử quốc gia,
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, nguyên tắc minh bạch. Các vấn đề liên quan đến
khả năng đạt được, phạm vi, sử dụng và thực thi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại trong Hiệp định TRIPS là đối tượng của hai nguyên tắc đầu
tiên. Nguyên tắc thứ ba nhằm duy trì tính công khai, ổn định, dự báo của pháp luật
sở hữu trí tuệ.
(a) Nguyên tắc đối xử quốc gia
Nguyên tắc đối xử quốc gia được quy định lần đầu tiên trong Công ước Paris
(Điều 2). Tuy nhiên, hoạt động của nguyên tắc này theo Công ước Paris làm phát
sinh những khác biệt về mức độ bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp giữa các nước
thành viên của Liên minh và hệ quả là tạo ra những rào cản cho xuất khẩu hàng
hoá, dịch vụ mang đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ. Do đó, các nước thành
viên ở vòng đàm phán Uruguay đã nhất trí thiết lập một công thức mới cho nguyên
tắc đối xử quốc gia tại Điều 3 Hiệp định TRIPS.

Nguyên tắc đối xử quốc gia trong Hiệp định TRIPS được bộ phận giải quyết
tranh chấp của WTO xem xét và giải thích kỹ lưỡng. Chẳng hạn, nguyên tắc này đã
được hiểu trong một số vụ việc sau đây: European Communities-Protection of
Trademark and Geographical Indications for Agricultural Products and Foodstuffs,
complaint by the US; European Communities-Protection of Trademark and
Geographical Indications for Agricultural Products and Foodstuffs, complaint by
Australia; Indonesia-Autos; and US-Section 211 Appropriations Act (US-Havana
Club). Theo đó, không còn tồn tại sự bảo hộ mà một nước thành viên dành cho
công dân của các nước thành viên khác không giống với sự bảo hộ dành cho công
dân của mình (như quy định trong Công ước Paris); Hiệp định TRIPS đòi hỏi mỗi
nước thành viên WTO dành sự bảo hộ cho công dân các nước thành viên khác
“không kém thiện chí hơn” sự bảo hộ dành cho công dân của mình. Nói cách khác,
bất kể mức độ bảo hộ một nước thành viên dành cho công dân của mình, nước này
buộc phải áp dụng tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu do Hiệp định TRIPS thiết lập cho
công dân của các nước thành viên khác. Nếu mức độ bảo hộ của nước thành viên
đó thấp hơn hoặc ngang bằng với mức độ bảo hộ do Hiệp định TRIPS thiết lập,
nước thành viên đó có thể giới hạn mức độ bảo hộ cho công dân của các nước
thành viên theo tiêu chuẩn bảo hộ của Hiệp định TRIPS. Nếu mức độ bảo hộ của
nước thành viên đó cao hơn mức độ bảo hộ do Hiệp định TRIPS thiết lập, nước
thành viên đó phải dành mức độ bảo hộ cao tương tự cho công dân của các nước
thành viên khác.
(b) Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được quy định tại Điều 4 Hiệp định TRIPS.
Nguyên tắc này không được đề cập trong những công ước về sở hữu trí tuệ được
thiết lập trước Hiệp định TRIPS nhưng được quy định trong các thoả thuận khác
của WTO như GATT (Điều I) và GATS (Điều 2). Trong khi nguyên tắc đối xử
quốc gia cấm một nước thành viên phân biệt đối xử giữa công dân của mình và
công dân của các nước thành viên khác, nguyên tắc đối xử tối huệ quốc cấm một
nước thành viên phân biệt đối xử giữa công dân của hai nước thành viên khác. Đối
với bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Điều 4 Hiệp định TRIPS đòi hòi các nước thành

viên của WTO dành sự bảo hộ “lập tức và vô điều kiện” “ưu tiên, chiếu cố, đặc
quyền hoặc miễn trừ” cho “công dân của bất kỳ nước nào khác” (bao gồm cả công
dân của nước không phải là thành viên của WTO) như sự bảo hộ dành cho công
dân của mình. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được hiểu trong một số vụ việc sau
đây: European Communities-Protection of Trademark and Geographical
Indications for Agricultural Products and Foodstuffs (khiếu kiện của Hoa Kỳ); US-
Section 211 Appropriations Act (US-Havana Club).
(c) Nguyên tắc minh bạch
Nguyên tắc minh bạch được biết đến lần đầu tiên trong Điều X GATT năm
1947. Trong Hiệp định TRIPS, nguyên tắc này được quy định tại Điều 63. Điều 63
yêu cầu các nước thành viên của WTO công bố các nguyên tắc liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ. Theo Điều 63(1), các nguyên tắc liên quan đến quyền sở hữu
trí tuệ bao gồm các luật, quy định, quyết định xét xử cuối cùng, quyết định hành
chính, thoả ước giữa chính phủ của nước thành viên hoặc cơ quan chính phủ với
chính phủ hoặc cơ quan chính phủ của nước thành viên khác. Nghĩa vụ công bố
này được thực hiện thông qua ba phương thức, đó là công bố chính thức (Điều
63(1)), thông báo cho Hội đồng TRIPS (Điều 63(2)), yêu cầu nước thành viên khác
cung cấp thông tin và cho phép tiếp cận thông tin (Điều 63(3)). Mục đích của
nguyên tắc minh bạch là “giúp cho chính phủ và các chủ thể khác được thông báo
về khả năng thay đổi của pháp luật sở hữu trí tuệ của nước thành viên nhằm góp
phần đảm bảo môi trường pháp lý ổn định và có thể dự báo được.”
Cần lưu ý rằng Hiệp định TRIPS cũng quy định một số ngoại lệ đối với ba
nguyên tắc trên đây. Ngoại lệ cho đối với nguyên tắc đối xử quốc gia được quy
định tại Điều 3(2); ngoại lệ đối với nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được quy định
tại Điều 4(a), (b), (c), (d); ngoại lệ đối với nguyên tắc minh bạch được quy định tại
Điều 63(4).
II CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP HIỆP
ĐỊNH TRIPs.
1 – Hệ thống SHTT và ý nghĩa của việc trở thành thành viên Hiệp định
TRIPS

1.1 Sự cần thiết phải có một hệ thống SHTT
Hệ thống SHTT được hiểu là tập hợp các quyền SHTT và các chính sách bảo hộ
quyền SHTT. Hệ thống SHTT mang tính quốc gia vì nó phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế xã hội riêng biệt của từng quốc gia. Chính các điều kiện này bao gồm các
chính sách, cơ sở hạ tầng và đặc biệt nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đối
với một hệ thống SHTT mạnh. Bên cạnh đó, một chính sách tốt phải đưa ra được
các tiêu chuẩn xác lập quyền của chủ sở hữu quyền. Nói cách khác, chính sách này
phải xác định phạm vi được bảo hộ của các đối tượng của quyền SHTT. Sự giới
hạn quyền SHTT hợp lý cho phép hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế quốc dân
bảo đảm công bằng xã hội. Muốn đạt được điều đó trong các chính sách quốc gia
về SHTT không thể thiếu những chế tài đối với các hành vi xâm phạm quyền
SHTT.
Trên bình diện quốc gia, để phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế thành công
một hệ thống quyền SHTT là yếu tố cần thiết vì nó có ảnh hưởng quan trọng đến
các hoạt động thương mại của quốc gia đó. Ngoài ra với xu thế toàn cầu hoá hiện
nay, hệ thống này cũng phải phù hợp với những quy tắc phổ biến của quốc tế như
Hiệp định TRIPS.
1.2 Hiệp định TRIPS và những nguyên tắc bảo hộ tối thiểu
Quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được thắt chặt giữa các quốc gia thì càng
xuất hiện các vấn đề liên quan đến hàng giả và vi phạm bản quyền liên quan đến sở
hữu trí tuệ. Đó trở thành một vấn đề rất quan trọng trong giao dịch thương mại xuất
phát từ giá trị to lớn của “know-how” trên cơ sở các sản phẩm được thương mại
hoá trên thị trường.
Việc kém hiệu quả trong bảo hộ sở hữu trí tuệ ở cấp độ quốc tế đã không chỉ làm
tăng căng thẳng trong các quan hệ kinh tế mà còn gây trở ngại cho việc chuyển
giao và đổi mới công nghệ. Cho đến trước năm 1994, các thỏa thuận hiện hành
trong lãnh vực SHTT dù có quy định hay không các biện pháp thực thi bảo hộ
cũng không quy định chế tài trong trường hợp không tuân thủ các thoả thuận. Mặc
dù vậy việc đưa các quy định và các chế tài bảo hộ quyền SHTT sẽ tạo ra rào cản
đối với thương mại hợp pháp vẫn còn là điều đáng lo ngại. Để giải quyết những

vấn đề này, cộng đồng quốc tế tiến hành xây dựng một thỏa thuận đa phương về
thương mại liên quan đến các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
TRIPS, Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ, có những quy định liên quan đến phạm vi các loại quyền SHTT rộng hơn,
bao quát hơn so với các công ước đã tồn tại trước đó, chỉ tập trung vào một số hoặc
một vài đối tượng SHTT ví dụ công ước Berne về quyền tác giả và quyền liên
quan, công ước Paris về quyền sở hữu công nghiệp v.v… TRIPS đặt ra những yêu
cầu bảo hộ ở mức tối thiểu. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia đang phát triển hay
kém phát triển thì những yêu cầu bảo hộ SHTT này vẫn còn cao, Việt Nam cũng
không là ngoại lệ. Ngoài ra, các nước Thành viên hoàn toàn có quyền thiết lập
những quy định ở mức cao hơn miễn không trái với quy định của TRIPS. Đây cũng
chính là điểm mà các nước phát triển đã lợi dụng để dùng sức ép đối với các nước
đang phát triển để ký những Hiệp định song phương theo đó việc bảo hộ giành cho
nhau luôn ở mức cao hơn quy định tối thiểu của TRIPS.
Trước xu thế toàn cầu hoá, SHTT ngày càng được chú trọng vì có vai trò quan
trọng trong kinh doanh thương mại. Muốn hội nhập kinh tế thế giới thành công
Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế chung đó. Trở thành Thành viên của WTO,
Việt Nam phải thực hiện các quy định do TRIPS đưa ra, nhưng cũng thực sự có cơ
hội phát triển trong môi trường quốc tế với luật chơi chung, luật WTO.
2. Thách thức đối với Việt Nam trong việc thực thi nghĩa vụ bảo hộ quyền
SHTT
2.1 Vấn đề thực hiện cam kết với tư cách Thành viên Hiệp định TRIPS
Về mặt nguyên tắc, Hiệp định TRIPS bảo hộ mọi hình thức sở hữu trí tuệ và tìm
cách hài hòa và tăng cường các tiêu chuẩn bảo vệ, và bảo đảm thực hiện hiệu quả ở
cấp quốc gia cũng như quốc tế.
Đối với việc thực hiện, sửa đổi pháp luật quốc gia, các Thành viên có thể áp
dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe công cộng và dinh dưỡng, và thúc
đẩy lợi ích công cộng trong các lĩnh vực có tầm quan trọng sống còn đối với sự
phát triển kinh tế và xã hội, nhưng các biện pháp này vẫn phải phù hợp với Hiệp
định TRIPS. Ngoài ra, các quốc gia Thành viên được quyền có những biện pháp

cần thiết để ngăn chặn việc lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu quyền
hoặc các hành vi hạn chế thương mại bất hợp lý hoặc ảnh hưởng xấu đến việc
chuyển giao công nghệ quốc tế, trong trong khuôn khổ của Hiệp định.
Chính thức trở thành Thành viên của WTO, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ
và ngay lập tức, không qua thời gian chuyển đổi, các quy định của TRIPS. Để làm
được điều này Việt Nam phải nỗ lực không ngừng trong việc rà soát, điều chỉnh,
ban hành các văn bản pháp luật ngày càng phù hợp hơn với Hiệp định TRIPS. Bộ
luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội thông qua ngày 22/11/2005 sau 11 tháng chuẩn
bị là một ví dụ. Hàng loạt các văn bản dưới luật được ban hành khẳng định quyết
tâm cải cách hệ thống luật pháp của Việt Nam đồng thời đảm bảo việc thực thi bảo
hộ quyền SHTT ngày càng hiệu quả hơn.
2.2 Vấn đề thực hiện cam kết của Thành viên các Hiệp định TRIPS Cộng
Hiệp định TRIPS Cộng vẫn thường được hiểu là Hiệp định song phương hay
còn gọi là “thoả thuận tự do thương mại”. Loại giao ước này là những thỏa thuận
trực tiếp và đơn lẻ giữa hai hay nhiều nước về hợp tác thương mại hay đầu tư,
nghiên cứu khoa học, hợp tác và hỗ trợ phát triển. Các hiệp định song phương có
một số điểm chung ví dụ như nó thường chứa đựng những nghĩa vụ mà các bên
phải tuân thủ đặc biệt là về quyền sở hữu trí tuệ. Các hiệp định trao đổi tự do song
phương thường có ít ràng buộc hơn so với các GATT/WTO, đó chính là điểm hấp
dẫn các nước tham gia ký kết loại Hiệp định này.
Tuy nhiên những Hiệp định thương mại song phương đôi khi không phải xuất
phát từ nhu cầu phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Ngược lại, đó là
điều kiện bị áp đặt đối với những quốc gia muốn gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới. Bởi vì để trở thành Thành viên của WTO các quốc gia ứng cử viên phải tiến
hành thương lượng vừa trong khuôn khổ song phương vưà đa phương. Sau năm
1995, các quốc gia muốn tham gia tổ chức này phải thương lượng với các quốc gia
hùng mạnh hơn về kinh tế thông qua các hiệp định song phương. Theo phương
thức đó, các điều khoản cam kết đặc biệt được đưa ra và trong lĩnh vực SHTT, các
quy định thông thường luôn cao hơn các quy định trong Hiệp định TRIPS.
Trong khuôn khổ các cuộc thương lượng để gia nhập WTO, Việt Nam đã ký kết

Hiệp định thương mại Việt-Mỹ (BTA) năm 1999. Thực hiện cam kết của Hiệp
định, Việt Nam trở thành thành viên của công ước Berne ngày 16 tháng 10 năm
2004, công ước Genève ngày 16 tháng 7 năm 2005, Công ước Bruxelles ngày 12
tháng 1 năm 2006 và Hệ thống Madrid ngày 11 tháng 7 năm 2006. Ngoài ra trong
khuôn khổ hiệp định song phương về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ký với Thuỵ Sĩ,
Việt Nam đã phải tham gia công ước Rome và Công ước quốc tế về bảo hộ giống
cây trồng cuối năm 2006.
Một cách tổng quát, các thoả thuận thương mại ưu đãi mà Hoa Kỳ ký kết với các
quốc gia khác đều chứa đựng cam kết buộc đối tác phải tham gia những công ước
đa phương. Hiệp định ký kết với Việt Nam cũng không ngoại lệ. Theo Điều 18 (3),
Việt Nam phải tuân thủ hoàn toàn Hiệp định TRIPS ngay khi gia nhập WTO, thậm
chí cả trong trường hợp việc gia nhập được thực hiện trước khi hết thời hạn cho
phép từng bước được quy định trong BTA. Hơn nữa, căn cứ vào lịch trình quy định
tại BTA, Việt Nam phải thực thi hầu hết các quy định của TRIPS vào tháng 6 năm
2004, trước thời điểm Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Về mặt nội dung, một
số quy định bảo hộ của BTA cao hơn TRIPS, ví dụ : thời hạn bảo hộ quyền tác giả
dài hơn, áp dụng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa đối với nhãn chứng nhận; Việt Nam
có nghĩa vụ thiết lập một hệ thống đăng ký nhãn hiệu hàng hoá; thời hạn bảo hộ
nhãn hiệu hàng hoá dài hơn; nghĩa vụ bảo hộ các chương trình mang tín hiệu được
mã hóa. Tuy nhiên, TRIPS không điều chỉnh nghĩa vụ bảo hộ các chương trình
mang tín hiệu vệ tinh được mã hoá được quy định tại BTA. Vì, hình thức quyền sở
hữu trí tuệ này không nằm trong phạm vi định nghĩa về quyền sở hữu trí tuệ của
TRIPS.
Như vậy, mặc dù TRIPS là quy chuẩn bảo hộ SHTT chung của rất nhiều quốc
gia nhưng việc một số quốc gia buộc phải có những cam kết bảo hộ cao hơn quy
định của TRIPS là một hiện thực. Tuy nhiên, TRIPS vẫn chưa đáp ứng yêu cầu bảo
hộ quyền SHTT của các quốc gia phát triển đang ngày càng cao.
3. Khuynh hướng bảo hộ quyền SHTT cao hơn TRIPS của các nước phát
triển
3.1 Hiệp ước Thương mại chống hàng giả (Anti-Counterfeiting Trade

Agreement -ACTA)
Năm 2006, một ý tưởng thiết lập một Hiệp ước đa phương chống hàng giả đầu
tiên xuất phát từ Nhật Bản và Hoa Kỳ. Sau đó Canada và Cộng đồng châu Âu,
Thụy Sĩ cũng tham gia thảo luận sơ bộ từ năm 2007. Những cuộc thương lượng
chính thức bắt đầu vào tháng 6 năm 2008 với sự tham gia của Australie, Mexique,
Maroc, New-Zeland và Hàn Quốc và Singapore.
Hiện tại có hai luồng ý kiến khác nhau về sự xuất hiện của Hiệp ước thương mại
chống hành vi làm giả, sao chép lậu.
Luồng ý kiến thứ nhất nhìn nhận sự cần thiết của ACTA. Bởi Hiệp ước này thiết
lập một khuôn khổ pháp lý mới với cơ chế điều hành riêng, Ủy ban ACTA độc lập
với các cơ quan quốc tế đã tồn tại trước đó như WIPO hay Liên Hiệp Quốc… Hiệp
ước này nhằm nâng cao các tiêu chuẩn quốc tế để có hành động chống lại các hành
vi xâm phạm có quy mô lớn tới quyền SHTT.
Hiệp ước ACTA không chỉ điều chỉnh các hành vi xâm phạm quyền tác giả, mà
còn mở rộng đến các hành vi làm hàng giả như sản phẩm tiêu dùng cao cấp, đồ
chơi trẻ em và thuốc chữa bệnh, các tác phẩm văn hóa. Các hành vi sao chép lậu và
làm hàng giả được xếp chung vào cùng một loại hành vi bởi vì hành vi sao chép
lậu bị coi là “hàng giả của quyền tác giả” mặc dù các lợi ích bị xâm phạm không
giống nhau. Hàng giả có thể gây thiệt hại cho người tiêu dùng trong khi đấu tranh
chống sao chép lậu nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ quyền lợi của các chủ sở
hữu quyền.
ACTA buộc các quốc gia thành viên phải có những giới hạn rất nghiêm ngặt về
quyền SHTT liên quan đến Internet và thương mại hàng hoá có liên quan đến
quyền này. Cũng như TRIPS, văn bản này cho phép các quốc gia đưa thành viên
đưa ra những quy định gắt gao hơn. Cần lưu ý là có hẳn 1 kế hoạch hành động để
khích lệ các nước đang phát triển cùng tham gia hiệp ước.
Luồng ý kiến thứ hai cho rằng Anti-Counterfeiting Trade Agreement (ACTA),
được thương lượng một cách kín đáo từ năm 2007 đến 2010 trong một nhóm 39
quốc gia trong đó có các quốc gia thành viên của Cộng đồng châu Âu, Hoa Kỳ,
Nhật Bản. Nhiều cuộc thương lượng ở cấp quốc gia nhằm áp đặt một logic trấn áp

do các nhà Công nghiệp giải trí đưa ra. ACTA chứa đựng những chế tài hình sự
mới buộc các nhà cung cấp Internet phải kiểm soát và kiểm duyệt các thông tin
trên mạng. Hiệp ước này được coi là một đạo luật đe dọa quyền tự do bày tỏ ý kiến
trên mạng và nguồn bất ổn pháp lý đối với các doanh nghiệp kinh doanh Internet.
Đối với quyền nhãn hiệu, quyền sáng chế, Hiệp ước này cũng gây trở ngại cho việc
tiếp cận các thuốc phiên bản (generic) ở các nước nghèo.
ACTA gây tranh cãi vì nó có ảnh hưởng tới các quyền tự do dân sự và trách
nhiệm mà những nhà cung cấp dịch vụ Internet phải gánh vác, các hậu quả của
việc sản xuất thuốc phiên bản hay việc bảo hộ không hiệu quả chỉ dẫn địa lý.
ACTA chứa đựng những chế tài hình sự mới buộc các nhà cung cấp Internet
phải kiểm soát, kiểm duyệt các giao tiếp trên mạng. Hiệp ước này trở thành mối đe
doạ lớn đối với quyền tự do bày tỏ ý kiến trên mạng và gây bất ổn pháp lý đối với
các doanh nghiệp cung cấp Internet. Việc thực hiện mục đích bảo hộ quyền nhãn
hiệu và sáng chế cũng gây trở ngại đối với việc tiếp cận thuốc phiên bản ở các
nước nghèo.
Hiệp ước vấp phải sự phản đối gay gắt vì ACTA sẽ hạn chế quyền tự do bày tỏ ý
kiến trên mạng. Bên cạnh đó, một số quyền riêng tư có nguy cơ bị xâm phạm vì
các thông tin về người sử dụng Internet có thể bị tiết lộ vì nhà cung cấp Internet
buộc phải “hợp tác” khi có yêu cầu mà không cần có lệnh của Toà. Mối đe dọa đến
quyền tự do của những người sử dụng Internet được đặc biệt quan tâm nhưng khía
cạnh pháp lý, nguyên tắc cơ bản về quyền suy đoán vô tội dường như cũng bị đe
doạ nếu không nói đến trách nhiệm truy tìm chứng cứ của các cơ quan hữu quan.
3.2 Chuẩn bị của Việt Nam trước thách thức của ACTA?
Khi trang web Megaupload bị đóng cửa dưới sức ép của nguyên tắc hợp tác
quốc tế chống sao chép lậu thì người lạc quan có thể khẳng định rằng một đạo luật
chống sao chép lậu thống nhất có thể dùng chung cho cả thế giới. Ta càng thấy rõ
ảnh hưởng của Hiệp ước khi văn bản này được Cộng đồng châu Âu và Hoa Kỳ tiến
hành ký kết với nhau vào cuối tháng 1 năm 2012.
Thực ra việc áp dụng và gây sức ép để phê chuẩn và áp dụng ACTA ở các nước
đang phát triển không phải là không thể xảy ra. Điều này có thể đòi hỏi một thời

gian tương đối dài, cũng có thể xảy ra trong ngắn hạn với tốc độ phát triển kinh tế
và xu thế toàn cầu hoá. Việt Nam không thể phát triển kinh tế đất nước mà đứng
ngoài dòng xoáy đó. Vậy, ta cần có những chuẩn bị gì ?Với mục đích đấu tranh
chống hàng lậu, hàng giả, Hiệp ước đưa ra những biện pháp để ngăn chặn việc lưu
thông thuốc phiên bản, cụ thể là các thuốc có nguồn gốc từ Ấn Độ, được Tổ chức y
tế thế giới thừa nhận trong một vài quốc gia. Tuy nhiên những thuốc này vẫn còn
hiệu lực bảo hộ độc quyền ở một số quốc gia nơi các thuốc này chỉ “quá cảnh”. Để
tăng cường đấu tranh chống hàng giả, ACTA đưa ra một hệ thống các biện pháp
ngăn chặn thuốc phiên bản vốn được xử lý như hàng giả. Là một quốc gia đang
phát triển, Việt Nam sẽ còn phải cần sử dụng công cụ bắt buộc chuyển giao quyền
sử dụng sáng chế đối với một số ngành công nghệ mà Việt Nam chưa có được, đặc
biệt là trong lĩnh vực dược phẩm để ổn định xã hội và vì mục đích săn sóc tốt hơn
sức khoẻ cộng đồng. Trong khuôn khổ đó, ACTA sẽ có những ảnh hưởng nhất
định nếu Việt Nam tham gia Hiệp ước.
KẾT LUẬN
Ở góc độ vĩ mô và dài hạn, quốc gia có một hệ thống SHTT mạnh và hiệu quả
có thể thành công trong việc phát triển công nghệ, tạo môi trường kinh doanh lành
mạnh từ đó bảo đảm cho nền kinh tế phát triển vững chắc hơn. Mặc dù, trên thực tế
nếu hệ thống SHTT yếu kém thì cơ hội phát triển công nghệ với chi phí thấp lại
càng cao hơn. Tuy nhiên cách lựa chọn phát triển này chỉ mang tính tạm thời. Để
phát triển bền vững kinh tế quốc gia, một hệ thống SHTT mạnh vẫn phải là mục
tiêu cần đạt được, và điều này không có ngoại lệ. Do vậy, Việt Nam vẫn phải tiếp
tục phấn đấu xây dựng một hệ thống SHTT ngày càng mạnh hơn.
Bị xem là một trong số các quốc gia thực thi bảo hộ quyền SHTT kém, Việt
Nam sẽ còn vất vả để thực thi các cam kết sẵn có, trong đó có TRIPS và TRIPS
Cộng như đã đề cập bên trên. Có thể trong tương lai rất gần Việt Nam không phải
tham gia vào Hiệp ước ACTA, nhưng ta cần nắm vững khuynh hướng bảo hộ của
thế giới vẫn phải được hiểu biết và có những chuẩn bị nhất định trong xu thế hội
nhập kinh tế thế giới. Bởi, để phát triển kinh tế dài lâu mỗi quốc gia đều phải có
một chiến lược dài hạn và thống nhất, đó được coi là chìa khoá thành công nếu

muốn hội nhập kinh tế thế giới. Hệ thống bảo hộ SHTT hiệu quả là một bộ phận
của quá trình đó. Quá trình này diễn ra một cách cực kỳ tế nhị bởi vì những vấn đề
trật tự xã hội hoặc nhân đạo, ví dụ các vấn đề liên quan đến sức khoẻ cộng đồng
vẫn phải được ưu tiên hàng đầu. Ưu tiên này vẫn gây ra những xung đột quyền lợi
về SHTT.

×