Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Nghiên cứu tính chất vật lý và hàm lượng các chát dinh dưỡng của chế phẩm Vigo khi phun lên giống ngô ngọt CPS211 trên đất bạc màu Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 105 trang )

Page 1 of 106
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là một bộ
phận hợp thành quan trọng của môi trường sống, không chỉ là tài nguyên
thiên nhiên mà còn là nền tảng để định cư và tổ chức các hoạt động kinh
tế, xã hội. Đất không chỉ là đối tượng của lao động mà còn là tư liệu sản
xuất không thể thay thế trong sản xuất nông lâm nghiệp. Điều này càng
quan trọng đối với Việt Nam với trên 70% dân số nông nghiệp. Trong 20
năm đổi mới nước ta có nhịp độ tăng trưởng khá vững vàng. Ngành nông
nghiệp, nhất là ngành trồng trọt đã tăng trưởng một cách đáng kể và nước
ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới.
Khi đất đai là yếu tố hạn chế thì việc gia tăng năng suất và sản
lượng đồng nghĩa với thâm canh. Chúng ta đang sử dụng ngày càng nhiều
hóa chất như phân bón và thuốc trừ sâu cho nông nghiệp làm cho đất bị ô
nhiễm, mất kết cấu, giảm khả năng giữ nước, giữ chất dinh dưỡng, giảm
lượng vi sinh vật, hàm lượng mùn, đất chua dần, chai cứng và thiếu các
chất vi lượng. Không khí, nước và cả các sản phẩm nông nghiệp tồn dư
nhiều chất độc hại gây nguy hại đến sức khoẻ con người… Vấn đề đặt ra
là làm thế nào để sử dụng đất có hiệu quả và xây dựng nền nông nghiệp
phát triển bền vững.
Phát triển một nền nông nghiêp sạch, một nền nông nghiệp hàng
hoá là hết sức cần thiết đối với nước ta hiện nay. Các biện pháp này một
Page 2 of 106
mặt làm tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị canh tác, mặt khác nhằm
duy trì, phục hồi và tăng cường sự hài hoà sinh học cho đất. Ngày nay
cùng với phong trào thâm canh tăng vụ, đổi mới cơ cấu cây trồng việc lựa
chọn những cây trồng có giá trị kinh tế cao, có thể sản xuất được nhiều vụ
trong năm sẽ là ưu tiên của các địa phương.
Giống ngô ngọt được du nhập vào nước ta từ năm 1998 và được
trồng chủ yếu ở các tỉnh phía Nam. Từ năm 2000 cây ngô ngọt được phát


triển ra Bắc và trồng nhiều ở các tỉnh: Hưng Yên, Hà Nam, Hà Tây, Hà
Nội, Bắc Giang, phục vụ nhu cầu ăn tươi cho các thành phố lớn và xuất
khẩu. Đây là loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, thời gian sinh trưởng
ngắn (60 - 70)ngày, trồng được nhiều vụ trong năm.
Hiệp Hoà là một huyện thuộc vùng Trung du Bắc Bộ có tổng diện
tích tự nhiên là 20.107,916 ha. Đất đai của huyện gồm 7 nhóm chính,
trong đó nhóm đất bạc màu chiếm gần 40% tổng diện tích tự nhiên. Sản
xuất nông nghiệp chiếm trên 80% cơ cấu kinh tế của huyện. Để tăng thu
nhập cho bà con nông dân, việc lựa chọn những cây trồng có giá trị kinh
tế cao, sản xuất mang tính hàng hóa với mục tiêu 50 triệu đồng/ha đã và
đang được địa phương thực hiện. Ngô ngọt là một trong những cây trồng
được nông dân lựa chọn. Song cùng với sự tăng nhanh về năng suất, sản
lượng, hệ số sử dụng đất, giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích thì cây
ngô ngọt sẽ lấy đi từ đất một lượng dinh dưỡng đáng kể. Nghiên cứu các
biện pháp sử dụng phân bón hợp lý bằng việc thay thế một phần lượng
Page 3 of 106
phân khoáng bằng các loại chế phẩm có chứa các nguyên tố vi lượng và
các chất điều hoà sinh trưởng, cung cấp cho cây trồng bằng việc tuới
vào đất và phun qua lá, vừa đảm bảo năng suất, chất lượng sản phẩm
vừa duy trì, nâng cao độ phì nhiêu của đất là hết sức cần thiêt. Trên cơ
sở đó được sự phân công của khoa sau Đại học, chúng tôi tiến hành thực
hiện đề tài: “ Nghiên cứu tính chất vật lý và hàm lượng các chát dinh
dưỡng của chế phẩm Vigo khi phun lên giống ngô ngọt CPS211 trên
đất bạc màu Bắc Giang "
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích nghiên cứu
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của chế phẩm Vigo đến năng suất,
chất lượng giống ngô ngọt CPS211 trên đất bạc màu Bắc Giang.
- Xác định nồng độ thích hợp của chế phẩm Vigo đối với giống ngô
ngọt CPS211 trên đất bạc màu Bắc Giang.

1.2.2. Yêu cầu
- Xác định năng suất, các yếu tố cấu thành năng suất giống ngô ngọt
CPS 211 trên các công thức thí nghiệm.
- Phân tích một số chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm trên các công
thức thí nghiệm so với đối chứng.
- Phân tích một số chỉ tiêu lý, hóa học đất trước và sau khi thí
nghiệm.

Page 4 of 106
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Vai trò của các nguyên tố vi lượng đối với cây trồng
Cây trồng sinh trưởng và phát triển được là nhờ cây có khả năng
hấp thu các nguyên tố dinh dưỡng cần thiết qua rễ và qua lá. Bộ rễ hấp
thu từ dinh dưỡng đất và vận chuyển vào cây nhiều nguyên tố dinh
dưỡng. Người ta đã phát hiện được sự có mặt của hơn 70 nguyên tố hóa
học trong cây.
Bảng 2.1. Hàm lượng trung bình của các nguyên tố vi lượng dạng dễ
tiêu trong đất Việt Nam
Đất
Hàm lượng các nguyên tố (mg/kg đất
khô)
Mn Cu Zn Co Mo B
Đất feralit đỏ sẫm trên bazan
Đất feralit đỏ vàng
Feralit - Macgalit (phù sa lúa)
- Trung tính
- Chua
- Phù sa cổ bạc màu chua
Cát phù sa ven biển
Chua ven biển

Đất phèn
80
5
50
75
8
10
8
40
25
0,3
0,2
0,5
2,4
2,2
0,4
0,4
2,0
0,6
4,0
2,0
1,0
2,0
3,6
3,0
3,8
2,7
7,0
1,0
2,0

2,0
1,6
< 1
< 1
< 1
< 1
< 1
0,4
0,07
0,07
0,15
0,13
0,08
-
0,13
0,25
0,25
0,43
0,43
0,18
0,23
0,13
-
0,45
0,60
Nguồn: (Nguyễn Đình Thái, 1968). [21]
Page 5 of 106
Những nguyên tố dinh dưỡng mà hàm lượng của nó tính theo phần
trăm được gọi là những nguyên tố đa lượng sau C, H, O thì phải đến vai
trò của nguyên tố đa lượng N, P, K. Các nguyên tố trung lượng Ca, Mg,

S. Những nguyên tố chiếm 10
-5
hay 10
-7
trong chất khô của cây là những
nguyên tố vi lượng. Các nguyên tố vi lượng quan trọng trong đời sống
cây trồng đã và đang được nghiên cứu sử dụng là: Bo (B), kẽm (Zn),
đồng (Cu), mangan (Mn), molipden (Mo)…[25],[26]. Cây cần rất ít
nguyên tố vi lượng, nhưng do vai trò sinh lý đặc biệt, các nguyên tố vi
lượng không thể thiếu được trong đời sống thực vật. Song hầu hết các
loại đất của Việt Nam đều có hàm lượng của các nguyên tố vi lượng dạng
dễ tiêu nghèo. Số liệu về hàm lượng trung bình dạng dễ tiêu của các
nguyên tố vi lượng ở một số đất Việt Nam do Nguyễn Đình Thái công bố
từ năm 1968 đã cho thấy rằng, đất Việt Nam nghèo nguyên tố vi lượng,
đặc biệt đất bạc màu [21] (bảng 2.1). Do đó sử dụng phân bón lá có chứa
các nguyên tố vi lượng phun bổ sung cho cây sẽ đảm bảo cân bằng dinh
dưỡng vi lượng cho cây dẫn tới năng suất cây trồng tăng đáng kể.
2.1.1. Vai trò của nguyên tố vi lượng đối với sự sinh trưởng và phát
triển của thực vật
Các nguyên tố vi lượng là các nguyên tố hoá học chứa trong các
đối tượng sinh học ở lượng nhỏ, là các chất hoạt hoá các quá trình sinh
hoá, có trong cơ thể các động thực vật. Thuộc nguyên tố vi lượng gồm có:
Page 6 of 106
B, Mn, Mo, Cu, Zn, Co, I, F…[27].
Vai trò sinh lý quan trọng của nguyên tố vi lượng đối với đời sống
cây trồng được thể hiện ở nhiều mặt. Nguyên tố vi lượng tham gia các
quá trình ôxi hoá - khử, trao đổi hydrat cacbon và protein, thúc đẩy sự
trao đổi chất của cây trồng, tác động mạnh đến các quá trình sinh lý và
sinh hóa, ảnh hưởng đến các quá trình tổng hợp diệp lục và nâng cao
cường độ quang hợp, dưới ảnh hưởng của các nguyên tố vi lượng hàm

lượng diệp lục trong lá tăng, phát triển quá trình quang hợp và hoạt động
đồng hoá của cả cây trồng. Các nguyên tố vi lượng còn tăng cường khả
năng chống chịu của cây đối với nấm bệnh, vi khuẩn gây bệnh và những
điều kiện bất lợi của môi trường như: nóng quá, lạnh quá, hạn, úng.
• Đồng ( Cu)
Cu tham gia vào thành phần của nhiều enzim trong cây như
poliphenoloxidaza, ascobin - oxidaza,…[26]. Các enzim này là những chất
xúc tác sinh học mang bản chất protein, xúc tác cho nhiều quá trình sinh lý,
sinh hóa trong cây, nhờ vậy làm tăng quá trình đồng hóa các chất dinh
dưỡng, tăng quá trình hô hấp của cây, dẫn đến quá trình trao đổi chất của
cây tăng [5], [12].
Hoạt tính xúc tác của các ion kim loại tăng lên hàng nghìn lần khi
kim loại đó kết hợp với apoenzim. Ví dụ thay xúc tác là Cu
++
bằng
ascobin - oxidaza là enzim có chứa đồng thì quá trình oxy hóa axit
Page 7 of 106
ascorbic tăng lên hàng nghìn lần [25].
Cu quyết định thành phần của nhiều protein và men, làm giảm hoạt
tính của pholyphenoxidaza và ascobin - oxidaza đáng kể. Đồng tham gia
vào thành phần của oxidaza NADPH2, NADH2 xúc tác cho quá trình oxy
hóa khử trong cây. Cu cũng đóng vai trò rất lớn trong sự tổng hợp auxin và
vitamin trong cây.
Cu ảnh hưởng lớn đến quá trình quang hợp, đặc biệt là đối với việc
hình thành chất diệp lục và đối với tính bền vững của chất diệp lục. Khi
thiếu đồng, sự phá hỏng chất diệp lục xảy ra nhanh hơn hẳn khi cây có
dinh dưỡng nguyên tố này một cách bình thường. Tình trạng ổn định chất
diệp lục khi cải thiện dinh dưỡng đồng của cây đã thúc đẩy kéo dài hoạt
động quang hợp của các cơ quan có màu lục, làm trì hoãn quá trình già
sinh lý của lạp thể và tăng năng suất cây trồng. Hầu như toàn bộ đồng của

lá xanh đều tập trung vào các lục lạp, tình hình đó cũng cho thấy vai trò
lớn của đồng trong quá trình quang hợp [13] .
Cu tham gia vào quá trình thúc đẩy sự phát triển của thực vật, thiếu
Cu cây ngừng sinh trưởng, dễ mắc bệnh gỉ sắt, héo cây, trỗ muộn và cây
chết. Cu kích thích phản ứng oxi hoá diphenol và hydroxyl hoá
monophenol, mà các qúa trình này làm tăng nhanh thời kỳ quá độ chuyển
giai đoạn, do đó thúc đẩy sự phát triển của thực vật.
Cu ảnh hưởng tốt tới sự chống chịu của thực vật với một số điều
Page 8 of 106
kiện bất lợi của ngoại cảnh như hạn, sương giá và nồng độ các dinh
dưỡng quá lớn, Cu có tác dụng làm tăng lượng nước kết hợp khi cung cấp
nước không được đầy đủ, hàm lượng nước kết hợp tăng lên chủ yếu do
tăng lượng nước liên kết keo. Dưới ảnh hưởng của Cu hàm lượng keo ưa
nước như protein và nucleoproteit tăng lên, do vậy khả năng ngậm nước
tăng. Cu làm tăng hàm lượng của nhóm photphatit và nucleoproteit. Do
photphatit là sản phẩm trung gian trong quá trình trao đổi axit béo, nên sự
tăng lên của phophatit sẽ dẫn tới hàm lượng lipit trong tế bào tăng, mà
lipit đóng vai trò điều hòa tính thấm của nguyên sinh chất, do đó làm tăng
tính chống hạn của thực vật. Hạn thường làm tăng quá trình thủy phân,
làm giảm quá trình tổng hợp protein, dẫn đến sự tích lũy axit amin, do đó
mà các quá trình sinh trưởng bị ức chế. Ngoài ra Cu còn có tác dụng giảm
thấp hàm lượng ATP trong điều kiện nhiệt độ quá cao do đó ảnh hưởng
tốt tới việc trao đổi năng lượng.
• Mangan ( Mn)
Mn có trong thành phần của men tham gia tổng hợp axít ascobic.
Mn tham gia vào thành phần 23 tổ hợp các men. Mn có ý nghĩa rất to lớn
trong tất cả các quá trình cacboxyl hóa và khử cacboxyl. Phản ứng
chuyển hóa NAD thành NADP có sự tham gia của Mn [9].
NAD + ATP
Mn

NADP + ADP
Mn là tác nhân hoạt hoá mạnh mẽ các enzim xúc tác cho quá trình
Page 9 of 106
phân giải yếm khí (chu trình đường phân) cũng như hiếu khí (chu trình
Krebs) các nguyên liệu hữu cơ trong quá trình hô hấp [26].
Mn là nguyên tố kim loại quan trọng duy trì tiềm năng oxi hoá đến
khử oxi và có thể dễ dàng tham gia trong các phản ứng sinh học, tham gia
trực tiếp trong quang hợp, tăng hàm lượng đường, diệp lục và độ bền liên
kết của diệp lục với protein, cường độ hô hấp. Mn có trong thành phần của
cacboxylaza, enolaza, glyerophotphataza và aldohytoxydaza. Sự tham gia
của Mn vào quá trình tổng hợp và chuyển hóa gluxit nói lên vai trò lớn lao
của Mn trong quang hợp.
Không chỉ có B mà còn cả Mn cũng thúc đẩy sự tổng hợp và vận
chuyển gluxit, đặc biệt là saccaroza từ lá về cơ quan sinh thực.
Mn còn tham gia vào thành phần của các enzim chuyển hóa
protein làm tăng hoạt tính của arginaza, aminopeptidaza và polypeptidaza
là những dẫn chứng về vai trò của Mn trong việc trao đổi protein [9].
Mn cần cho việc tổng hợp chlorophyl. Mn hoạt hoá các phản ứng
oxi hoá - khử qua các men dehydrogenaza và cacboxylaza, giúp vào việc
chuyển NO
2
-

thành NH
4
+
. Bón mangan clorua đã làm sự hút thu oxy của
rễ cây lúa mì tăng được 155 - 470% ngược lại bón sắt ở dạng clorua hoặc
xitrat đã làm sự hút thu oxy của rễ giảm trung bình 21% [13]. Thiếu Mn,
ở trong cây đã thấy lượng chứa tương đối của Fe

++
tăng, ngược lại khi
thừa Mn, lượng chứa các hợp chất feric đã tăng. Lá xanh nhạt, chuyển
Page 10 of 106
dần sang vàng, sinh trưởng mảnh khảnh, rụng hoa là các triệu chứng thiếu
Mn điển hình. Đất cacbonat thường thiếu Mn do Mn chuyển sang dạng
khó tan. Ở đất kiềm, đất chua sau khi bón vôi, đất thoáng khí và đất giầu
hữu cơ thường thiếu Mn. Trên các loại đất này ion Mn ở dạng hoá trị 3 và
hoá trị 4 khó hoà tan hoặc kết hợp với các chất hữu cơ tạo thành hợp chất
khó tan. Trong điều kiện kiềm, Mn sau khi hút được còn có thể chuyển
sang dạng oxy hoá và kết đọng trong các mạch dẫn [16].
Vai trò của Mn trong hoạt động sống của cây là rất quan trọng và
nhiều mặt. Mn tham gia vào thành phần nhiều hệ men và tham gia vào tất
cả những quá trình quan trọng nhất xảy ra trong cơ thể sống của thực vật
như quang hợp, hô hấp, trao đổi hydrat cacbon và trao đổi protein
• Kẽm (Zn)
Zn tham gia vào thành phần của tất cả các cơ thể thực vật với
số lượng từ vài phần triệu đến vài phần chục vạn, đôi khi đến vài phần
vạn [13]. Lượng chứa Zn chủ yếu ở các bộ phận như lá, điểm sinh trưởng,
các cơ quan sinh sản và trước hết ở trong phôi hạt, điều này cho biết sự
liên hệ giữa Zn và những quá trình hoạt động sống quan trọng nhất của
cây như là quang hợp và hình thành hạt. Không có Zn trong môi trường
dinh dưỡng, cây không thể phát triển và sẽ chết chẳng bao lâu sau khi nẩy
mầm dù có tất cả các nguyên tố dinh dưỡng khác.
Ở các loại đất cát, đất cát pha, đất cacbonat và ở những đất có
Page 11 of 106
nhiều chất hữu cơ chậm phân giải cũng như ở một vài đất kém màu mỡ
mới phục hoá và đã canh tác lâu dài hoặc đất có hàm lương lân cao
thường thấy hiện tượng thiếu Zn .
Triệu trứng thiếu Zn đặc trưng ở cây ngô là xuất hiện cây con

bạch tạng hoặc ngọn bị trắng bạch. Giữa các gân lá có xuất hiện những
giải màu vàng; những lá dưới bị rụng và những lá trên nõn đang xoè hầu
như có màu trắng. Dóng thân bị ngắn lại và sinh trưởng bị ngừng lại hoặc
bị kìm hãm [13].
Đối với cây họ đậu, cây đậu cô ve và cây đậu tương rất mẫn
cảm với hiện tượng thiếu Zn. Lá úa vàng, phiến lá phát triển không đối
xứng là biểu hiện triệu trứng thiếu kẽm. Zn là một nguyên tố vi lượng cho
nên khi chữa thiếu Zn cũng chỉ cần bón một lượng nhỏ (25 kg Zn/ha) là
đủ [16].
Zn thể hiện vai trò sinh lý ở nhiều mặt [4]. Zn có vai trò quan
trọng trong quá trình oxy hóa khử. Nó tham gia vào các thành phần của
nhiều enzim, tham gia vào các quá trình trao đổi protein, hydrat cacbon,
trao đổi photpho, vào quá trình tổng hợp vitamin và các chất kích thích
sinh trưởng (auxin). Thiếu Zn sẽ phá vỡ quá trình trao đổi hydrat cacbon,
kìm hãm sự tạo đường sacaroza, tinh bột và chất diệp lục. Thiếu Zn còn
làm cho hạt không hình thành được do đó mà Zn rất cần thiết cho cây lấy
hạt.
Page 12 of 106
• Vai trò của một số nguyên tố vi lượng khác
Bo (B)
B không tham gia vào thành phần của enzim mà chỉ kích thích
hoặc ức chế hoạt động của enzim [27]. B đóng vai trò quan trọng trong sự
hình thành phấn hoa. Thiếu B phấn hoa không hình thành được do đó hoa
rụng và không tạo hạt được hoặc hạt bị lép, chất lượng giống kém. B tăng
cường sự tổng hợp và vận chuyển hydrat cacbon, các chất dinh dưỡng và
axit ascorbic từ lá tới cơ quan tạo quả. Khi thiếu B sự trao đổi hydrat
cacbon và protein giảm, đường và tinh bột bị tích lũy lại ở lá, đỉnh sinh
trưởng bị chết. B tác động đến việc phân chia tế bào, do vậy giúp vào
việc kéo dài rễ và sinh trưởng thân. B liên quan đến nhiều quá trình sinh
lý như trao đổi canxi, tổng hợp auxin, trao đổi đường, vận chuyển đường

và tổng hợp pectin
Molipden (Mo)
Mo cần ít nhất trong các nguyên tố vi lượng cho cây. Nó có mặt
trong một số rất ít các enzim, trong đó quan trọng nhất là enzim
nitrogennaza và nitratreductaza. Đây là hai enzim có vai trò quan trọng
trong quá trình cố định đạm trong các nốt sần của cây họ đậu. Mo tác
động đến các quá trình khử nitrat và sinh tổng hợp axít amin, tham gia
vào các quá trình trao đổi hydrat cacbon sinh tổng hợp vitamin và diệp
lục. Lượng Mo có trong đất rất thấp, thông thường vào khoảng 2 ppm,
Page 13 of 106
thường ở thể anion hoá trị 4,5,6 hoặc ở thể cation với các hoá trị 2,3. Mo
là nguyên tố vi lượng duy nhất thường xảy ra hiện tượng thiếu trong điều
kiện chua [16].
Như vậy ta thấy các nguyên tố vi lượng đóng vai trò quan trọng
trong quá trình sinh trưởng và phát triển của thực vật, nhưng nếu quá
thừa, hay quá thiếu một nguyên tố vi lượng nào đó cũng gây ra sự kìm
hãm hoặc phá vỡ các quá trình sinh hóa quan trọng khiến cây phát triển
không bình thường, không có khả năng cho năng suất cao ngay cả khi
cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa lượng. Do đó khi sử dụng phân bón lá
có chứa các nguyên tố vi lượng phải tùy theo điều kiện đất đai và đặc tính
sinh lý của cây mà chọn cách sử dụng phân bón lá chứa các nguyên tố vi
lượng phù hợp để đảm bảo cân bằng dinh dưỡng trong cây làm cho cây
sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất và chất lượng cao.
Page 14 of 106
2.1.2. Phức chelate và khả năng hấp thu dinh dưỡng qua lá của cây
trồng
Trong nhiều năm trở lại đây ở các nước phát triển và đang phát
triển, người ta dùng phân vi lượng chủ yếu dưới dạng chelate (phức chất
nội), đó là những phức chất tạo nên giữa các hợp chất hữu cơ với muối
của kim loại sắt, đồng, kẽm, man gan… Loại phân vi lượng chelate

không bón trực tiếp vào đất mà phun lên lá, chỉ sau 2- 4 giờ là cây trồng
đã hấp thu hết. Hiệu quả sử dụng và khả năng làm tăng năng suất cây
trồng của các phức chelate cao hơn so với phân vi lượng vô cơ [29].
2.2. Vai trò sinh lý của axít amin và chất điều hòa sinh trưởng đối đối
với đời sống thực vật
Axít amin và chất điều hòa sinh trưởng có vai trò hết sức quan
trọng đối với đời sống thực vật. Axít amin tham gia vào thành phần cấu
tạo của protein. Các chất điều hòa sinh trưởng là những chất có bản chất
hóa học khác nhau nhưng đều có tác dụng điều tiết các quá trình sinh
trưởng phát triển của cây từ lúc tế bào trứng thụ tinh phát triển thành phôi
cho đến khi cây ra hoa kết quả, hình thành cơ quan sinh sản, dự trữ và kết
thúc chu kỳ sống của mình [26].
2.2.1. Vai trò sinh lý của axít amin
Axít amin là những hợp chất hữu cơ chứa đạm có công thức R -
CH(NH
2
) - COOH. Hiện nay người ta phát hiện được khoảng 100 axít
Page 15 of 106
amin, nhưng chỉ có 20 axít amin tham gia vào thành phần cấu tạo của
protein [6]. Các axit amin được điều chế bằng cách thuỷ phân protein
trong môi trường axít hoặc kiềm.

H
+
Protein + (n-1) H
2
O n axit amin
Trong cơ thể thực vật axit amin được hình thành do quá trình kết
hợp giữa NH
3

do rễ cây hút từ đất với xetoaxit là sản phẩm của quá trình
hô hấp. Theo phương trình:
Giai đoạn 1:
imidaza
R - CO - COOH + NH
3
R - CNH - COOH + H
2
O
Giai đoạn 2:
NADH
2
→ NAD
R - CNH - COOH R - CH(NH
2
) - COOH
Trong cơ thể thực vật axit amin là nguồn nguyên liệu để tổng hợp
protein-thành phần chính của nguyên sinh chất, enzim, các hocmon.
n axit amin - (n-1)H
2
O Protein.
Page 16 of 106
Hầu hết các axit amin đều có khả năng tạo phức chelat nội với các
nguyên tố kim loại hoá trị 2 [22].
Trong tự nhiên hợp chất hữu cơ quan trọng quyết định sự sống của
thế giới động vật và thực vật đều là các hợp chất có cấu tạo kiểu chelat
như chlorophil - sắc tố quang hợp của thực vật, hemoglobin - sắc tố hô
hấp của động vật bậc cao và người, hemoxiamin - sắc tố hô hấp của loại
nhuyễn thể. Trong các hợp chất này. Các nguyên tử kim loại là các tác
nhân tạo phức chất như Mg

2+
, Fe
2+
, Cu
2+
, đều được gắn vào photphitin
giống nhau về cấu trúc, chỉ khác nhau về các gốc R [9]. Qua đó ta thấy
axít amin đóng vai trò sinh lý quan trọng trong đời sống của thực vật, nó
là nguồn nguyên liệu tổng hợp protein thành phần chính của nguyên sinh
chất, của enzim và của hocmon.
Do có khả năng tạo phức chelat tương tự như chlorophil với hầu
hết các nguyên tố vi lượng Mg
2+
, Cu
2+
, Zn
2+
, Fe
2+
, Mn
2+
, cholorophil nên
người ta sử dụng axít amin phối với các nguyên tố vi lượng trong chế
phẩm vi lượng để chuyển vi lượng sang dạng phức chelat cây trồng dễ sử
dụng hơn, như các chế phẩm Pherala của Anh Quốc chế phẩm Nanzdum,
Neugol, Omaza của Thái Lan [27]. Ở Việt Nam có chế phẩm komix được
sản xuất bằng sự phối hợp các nguyên tố vi lượng với dịch đạm chiết ra
từ một loại giun hồng [1] và chế phẩm phun qua lá thiên nông sản xuất
bằng cách phối chế các nguyên tố vi lượng với dịch đạm thủy phân từ cá,
Page 17 of 106

rong biển…
Để chiết rút axít amin người ta sử dung các nguyên liệu là các sản
phẩm phụ của động vật, thực vật có chứa Protein. Hàm lượng Protein cao
nhất trong nguyên liệu bột máu (801 g/kg), tiếp đến là bột nhộng tằm lá
dâu - 686 g/kg, bột lông vũ - 685 g/kg, bột nhộng tằm lá sắn - 611 g/kg và
bột bã gan - 508 g/kg [24]. Hàm lượng Protein của một số loại nguyên
liệu dùng chiết rút axít amin được trình bày cụ thể trong phụ lục số 1.
2.2.2. Vai trò sinh lý của các chất điều hòa sinh trưởng (auxin,
gibberellin và cytokinin ) [26]
Auxin, gibberellin và cytokinin, thuộc nhóm các chất kích thích
sinh trưởng (stimulator), các chất này có tác dụng kích thích sinh trưởng
phát triển của thực vật.
Auxin có tác dụng sinh lý rất nhiều mặt lên các quá trình sinh
trưởng của tế bào, hoạt động của tầng phát sinh, sự hình thành rễ, hiện
tượng ưu thế ngọn, tính hướng của thực vật, sự sinh trưởng của quả và tạo
quả không hạt…
Gibberellin kích thích mạnh mẽ sự sinh trưởng kéo dài của thân, sự
vươn dài của lóng cây họ lúa. Hiệu quả này có được là do ảnh hưởng kích
thích đặc trưng của GA lên pha dãn của tế bào theo chiều dọc.
Cytokinin kích thích sự phân chia tế bào mạnh mẽ. Vì vậy người ta
xem chúng như là các chất hoạt hóa sự phân chia tế bào. Có được hiệu
Page 18 of 106
quả này là do cytokinin hoạt hoá mạnh mẽ sự tổng hợp axit nucleic và
protein.
2.3. Kết quả nghiên cứu và sử dụng các chế phẩm phân bón qua lá
trên thế giới và ở Việt Nam
Phân bón lá (Foliar fertilizer): ngày nay nhờ có những tiến bộ kỹ
thuật về hóa học, về sinh học, các dạng phân bón qua lá đã được cải tiến
và sử dụng có hiệu quả [11]. Phân bón lá được sử dụng như một phương
tiện cung cấp dinh dưỡng vi lượng, đa lượng, hoocmon kích thích sinh

trưởng, và những chất cần thiết cho cây. Những ảnh hưởng quan sát được
của việc bón phân qua lá là tăng năng suất cây trồng, tăng khả năng chịu
bệnh và sâu bệnh của cây, phản ứng của cây trồng phụ thuộc vào giống,
dạng phân bón, nồng độ và số lần bón, cũng như từng giai đoạn phát triển
của cây trồng [30]. Một trong những tác dụng của phân bón lá là tăng khả
năng hấp thu các chất dinh dưỡng từ đất. Tác dụng này dựa trên cơ sở là
phân bón lá làm tăng khả năng tổng hợp (hút) đường và các dịch rỉ khác
từ hệ rễ. Các vi khuẩn hữu ích (có lợi) trong vùng rễ kích thích làm tăng
hàm lượng của dịch rỉ. Sau đó, sự hoạt động mạnh của các vi sinh vật đã
làm tăng các chất dinh dưỡng, giảm nguy cơ bị bệnh, tăng các loại
vitamin và các yếu tố có lợi khác cho cây trồng. Đó là một cách hợp lý để
tăng cường mức độ sử dụng phân bón lá trong các nông trại hữu cơ.
Hầu hết các loại nguyên liệu phân bón hòa tan thông thường đều có
Page 19 of 106
thể dùng làm phân bón qua lá. Các công thức trộn hỗn hợp giữa các
nguyên tố đa lượng, vi lượng, các vitamin và các hoocmon kích thích sinh
trưởng ở dạng lỏng và khô (ví dụ như các sản phẩm của Miracle-Gro)
thường được ưu tiên sử dụng vì chúng dễ tan trong nước và ít gây ô
nhiễm môi trường. Tuy nhiên, cần tránh dùng các loại phân bón chứa
hàm lượng lớn Chlorine để tránh gây tác hại đến cây trồng.
Hiệu quả sử dụng phân bón qua lá là tốt hơn qua rễ, ít gây ô nhiễm
môi trường [27]. Việc sử dụng dinh dưỡng khoáng qua lá có lợi ích đặc
biệt lớn ở điều kiện nồng độ dinh dưỡng trong đất thấp: ở đất vôi Fe thiếu
hụt lớn, phun sắt qua lá có lợi hơn bón vào đất bởi vì những phức sắt đắt
tiền. Mặt khác, đây là biện pháp làm giảm sự độc hại của Mn. Ở đất có
pH cao và nhiều chất hữu cơ thường có sự thiếu hụt Mn lớn, do vậy việc
phun bổ sung Mn qua lá là biện pháp có tác dụng hữu hiệu. Ở đất khoáng
Mo ở dạng cố định, cây trồng khó sử dụng, Mo phun qua lá là rất cần
thiết để đảm bảo cân bằng dinh dưỡng cho cây trồng. Khi tầng đất mặt
khô: ở những vùng khô cằn, việc mất khả năng cung cấp nước trên tầng

mặt sẽ kéo theo sự suy giảm khả năng dinh dưỡng trong suốt vụ gieo
trồng, ngay cả khi nước có khả năng cung cấp đủ thì dinh dưỡng khoáng
ở trên tầng mặt cũng là yếu tố hạn chế sự phát triển. Ở những điều kiện ấy
bổ sung dinh dưỡng khoáng qua lá có tác dụng hơn bón vào đất rất nhiều.
Khi hoạt động cố định đạm của bộ rễ cây họ đậu giảm do sự cạnh tranh
Page 20 of 106
hydratcacbon giữa quả non đang phát triển và nốt sần sẽ gây ra giảm lớn
tỷ lệ hạt đậu, vì thế sử dụng các hợp chất có chứa đạm phun qua lá cho
cây sẽ ảnh hưởng lớn tới năng xuất hạt đậu: Tuy có rất nhiều ưu điểm
nhưng việc phun qua lá có một số hạn chế. Nắm được các hạn chế đó có
thể đưa ra giải pháp khắc phục để hiệu quả sử dụng phân bón cao:
+ Tỷ lệ thấm của các chất dinh dưỡng qua lá thấp, đặc biệt là lá vỏ
dày.
+ Các chất dinh dưỡng dễ bị mất do bề mặt kỵ nước của lá.
+ Tính khô nhanh của dung dịch phun.
+ Lượng dinh dưỡng cung cấp cho cây qua một lần phun nhỏ.
+ Dễ làm tổn thương lá nếu nồng độ phun không hợp lý (gây ra sự
chết hoại hoặc cháy lá).
Việc làm tổn thương lá do nồng độ dinh dưỡng cao là kết quả chính
của sự phân bố dinh dưỡng khoáng không cân bằng trong tế bào lá. Đây là
một vấn đề đặc biệt nguy hiểm. Việc hoại lá giảm nhiều khi phun dinh
dưỡng ở pH thấp, hoặc thêm các chất hoạt động bề mặt. Silicol khi đưa vào
thành phần phân bón lá có thể làm giảm sự hại lá, đồng thời làm tăng hiệu
quả của việc phun, đặc biệt là ở các cây có lá dày. Người ta thường bổ sung
phân bón lá vào thời kỳ cây sinh trưởng và phát triển mạnh nhất. Sự hút các
chất dinh dưỡng của cây vào thời kỳ đó là mạnh nhất nên hiệu quả của phân
bón lá đạt cao. Hiện nay, việc sản xuất phân phức hợp lỏng chứa những tỷ lệ
Page 21 of 106
khác nhau các nguyên tố dinh dưỡng cơ bản NPK cũng như các nguyên tố
vi lượng là một trong những lĩnh vực phát triển mạnh mẽ nhất của công

nghiệp phân khoáng của các nước trên thế giới.
Do tính hiệu quả cao của các dạng phân bón lá đối với cây trồng đặc
biệt là với cây rau, ở nhiều nước như Đức, Mỹ, Pháp, Nhật, Hà Lan, Thái
Lan, Trung Quốc người ta rất chú trọng sản xuất nhiều loại sản phẩm
phân phức hợp lỏng. Chẳng hạn, ở Mỹ đã sản xuất trên 150 hỗn hợp dinh
dưỡng có vi lượng dùng để bón thúc cho cây trồng. Ở Hà Lan đã sản xuất
trên 60 loại phân phức hợp chứa vi lượng cung cấp cho ngành trồng rau.
Để sản xuất các loại phân này người ta dùng phương pháp trộn lạnh các
muối kỹ thuật chất lượng cao ((NH
4
)
2
HPO
4
, KH
2
PO
4
, K
2
SO
4
…) với các
chất kích thích sinh trưởng khác nhau như: β-indolaxetic, gibberellin,
cytokinnin, axit humic, vitamin, axit amin và các chất có hoạt tính sinh
học khác. Nguyên tố vi lượng được bổ sung dưới dạng phức chelat với
các hợp chất hữu cơ để ngăn ngừa nguyên tố vi lượng chuyển sang dạng
khó tiêu cho cây trồng [14], [21].
Ngành công nghiệp phân khoáng Liên Xô (cũ) trước đây đã sản xuất
các loại phân phức hợp lỏng chứa nguyên tố vi lượng dùng bón thúc cho

rau và cây quả mọng. Tuy nhiên để sản xuất các dạng phân phức hợp
lỏng dùng để bón thúc ở các nước người ta không sử dụng các dạng phân
khoáng có chứa Cl làm nguyên liệu [27]
Page 22 of 106
Ngày nay ngoài các nguyên tố dinh dưỡng cơ bản NPK, một số
nguyên tố trung lượng như Mg, S được đánh giá cao trong dinh dưỡng
cây trồng. S có trong thành phần của axit amin, chất béo thực vật,
vitamin, chất khoáng, đồng thời S còn tham gia vào quá trình trao đổi
protein, oxihoá khử, hoạt hoá tác dụng của enzim và tăng cường cố định
nitơ khí quyển. Nhu cầu cây rau và cây ăn quả mọng là từ 15 -20 kg/ha.
Cây đồng hoá S dưới dạng SO
4
2-
, ion này cũng có tác dụng làm tăng khả
năng đồng hoá các nguyên tố vi lượng của cây trồng. Nguồn S trong phân
phức hợp lỏng là hỗn hợp các muối sunphát của Kali và Mg. Người ta
thường đưa Mg vào thành phần phân phức hợp lỏng dưới dạng phức
chelat để ngăn ngừa hiện tượng chuyển Mg
2+
về dạng khó tiêu.
Ở nước ta việc sản xuất và sử dụng phân bón lá đã và đang được
qua tâm phát triển. Sản phẩm phân bón lá Pomior của Hoàng Ngọc Thuận
(Đại học Nông Nghiệp I) đã được Bộ Nông Nghiệp và PTNT công nhận
là tiến bộ kỹ thuật năm 2005. Pomior là một dạng phức hữu cơ bao gồm
các nguyên tố đa lượng, trung lượng, vi lượng và các chất kích thích sinh
trưởng (auxin). Kết quả thử nghiệm Pomior trên cây ăn quả như xoài, vải,
nhãn của Phạm Thị Hương năm 2005 cho thấy Pomior có tác dụng cải
thiện sinh trưởng các đợt lộc, tăng khả năng đậu quả, nhờ đó cải thiện
năng suất [15].
Gần đây có rất nhiều chế phẩm phân bón qua lá đuợc các nhà khoa

Page 23 of 106
học khảo nghiệm hiệu lực đối với các loại cây trồng khác nhau và trên
các loại đất khác nhau.
Kết quả khảo nghiệm về hiệu lực của một số phân bón qua lá:
PHALA-R, PHALA-V, PHALA-C, của Công ty TNHH thương mại
Thanh Điền trên một số loại cây trồng [2].
• Phân bón lá PHALA-R là phân bón lá dạng lỏng, được điều chế từ
N, P
2
O
5
, K
2
O là yếu tố đa lượng cơ bản, kết hợp với nguyên tố vi lượng
cần thiết là Fe, Cu, Zn, và B, bổ sung chất điều hoà sinh trưởng thực vật
GA
3
, có thành phần hoạt hoá như sau: N: 5%; P
2
O
5
: 3%; K
2
O: 2; Fe:
0,05%; Cu: 0,02%; Zn: 0,05%; B: 0,02% ; GA
3
: 0,05%.
• Phân bón lá PHALA-V là phân bón lá dạng viên sủi, được điều chế
từ N, P
2

O
5
, K
2
O là yếu tố đa lượng cơ bản, kết hợp với nguyên tố vi
lượng cần thiết là Fe, Cu, Zn, B và Mo, bổ sung chất điều hoà sinh trưởng
thực vật GA3, có thành phần hoạt hoá như sau: N: 5%; P
2
O
5
: 5%; K
2
O:
3; Fe: 0,05%; Cu: 0,02%; Zn: 0,05%; B: 0,02% ; Mo: 0,005% ; GA3:
0,05%.
• Phân bón lá PHALA-C là phân bón lá dạng lỏng, có thành phần
gồm các nguyên tố với hàm lượng: B: 0,5% và Mg: 10%, bổ sung thêm
chất điều hoà sinh trưởng Nitrophenol với hàm lượng 0,4%.
Kết quả khảo nghiệm cả ba loại phân trên cho thấy năng suất tăng
13 -20% đối với cây ngô và lúa, 14 - 19% đối với cây cam và xoài, 13 -
Page 24 of 106
14% đối với cây cà phê [2] .
Bảng 2.2. Thành phần tính chất của 3 loại phân bón lá Pisomix
của công ty TNHH Thái Dương [3]
Thành
phần
Đơn vị PISOMIX-
101
PISOMIX-
102

PISOMIX-105
N
P
2
O
5
K
2
O
Mg
Mn
Cu
S
Zn
B
K-
Humate
GA
3
NAA
%
%
%
ppm
ppm
ppm
ppm
ppm
ppm
%

ppm
ppm
6
30
30
800
300
500
1000
400
200
-
-
-
10
40
20
1500
50
400
800
1000
200
-
-
-
6
4
5
1000

200
200
800
400
3000
15
400
250
Báo cáo kết quả khảo nghiệm hiệu lực các loại phân bón lá
Pisomix do công ty TNHH Thái Dương sản xuất bằng việc phối trộn các
Page 25 of 106
hợp chất chứa các nguyên tố dinh dưỡng thông thường (Potassium Nitrat,
Mono aminium Phosphate, Urea, Ammonium sulphate, Magnesium
Sulphate,…) theo những tỷ lệ khác nhau. Các nguyên tố vi lượng được
phối trộn trong phân dưới dạng chelate, ngoài ra còn được bổ sung thêm
các chất điều hoà sinh trưởng GA
3
, K-humate.
Kết quả khảo nghiệm 3 loại phân PISOMIX-101, PISOMIX-102,
PISOMIX-105 trên cây lúa làm tăng số bông/m
2
và số hạt chắc/bông so
với đối chứng. Năng suất thực thu tăng từ 15-17% [3]. Đối với cây ngô,
khi phun 3 loại phân này cũng làm tăng năng suất từ 13- 16% so với đối
chứng [3].
Báo cáo kết quả khảo nghiệm 4 loại phân bón lá ROSABOR,
FOLIFERT MAGICAL, FOLIERT X- PLODE Và FOLIEERT KELP-P-
MAX do Công ty TNHH một thành viên Bảo vệ Thực vật Sài Gòn nhập
khẩu từ Bỉ và Nam Phi. Thành phần và tính chất của các loại phân này
được trình bày trong bảng số 2.3.

Bảng 2.3. Thành phần và tính chất các loại phân bón lá [28]
Phân bón
Chỉ tiêu
Đơn vị FOLIFERT
MAGICAL
FOLIERT
X- PLODE
FOLIEER
T KELP-
P-MAX
DO
N
P
%
%
-
-
9,2
-
-
4,1
3,5
11,1

×