Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà máy Cán thép Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.95 KB, 92 trang )

Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta trong thời kì đổi mới và phát triển kinh tế. Ổn định chính trị
xã hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ một nước
kinh tế kém phát triển có thu nhập bình quân đầu người thấp, cơ sở hạ tầng
thấp kém về mọi mặt vì vậy để phát triển chúng ta cần phải có cơ sở vững
chắc. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước ta đã có
hàng loạt những chính sách đổi mới để phù hợp với nền kinh tế thị trường
theo xu hướng toàn cầu hóa. Với sự canh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi mỗi
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trên thị trường thì cần phải có những
biện pháp huy động, quản lý và đầu tư có hiệu quả mọi yếu tố sản xuất nhằm
phát huy mọi tiềm lực, đồng thời hạn chế những mặt tồn tại, nắm bắt được cơ
hội và tạo chỗ đứng trên thị trường.
Để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất
kinh doanh, vốn là điều kiện không thể thiếu, nó phản ánh nguồn lực tài
chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trong sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp người ta chú ý đến việc quản lý việc huy động và luân
chuyển của vốn. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải quản lý
và sử dụng vốn như thế nào để góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Với doanh nghiệp trong quá trình hoạt động nếu quản lý tốt về vốn
sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao, phát triển lành mạnh. Ngược lại không ít
doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng khó khăn do quản lý và sử dụng vốn
không tốt, thậm chí còn dẫn đến phá sản.
Theo xu hướng trên, trong những năm vừa qua Công ty cổ phần Gang
thép Thái Nguyên đã tiến hành theo hướng cổ phần hóa để nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm đối với nền kinh tế. Nhà máy Cán thép Thái Nguyên


thuộc Tổng Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên đã mạnh dạn đầu tư đổi
mới công nghệ máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản
phẩm khắc phục tình trạng khó khăn và có vốn tích lũy để tái sản xuất mở
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
1
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
rộng. Điều này đòi hỏi công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yếu tố
không thể thiếu. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của vốn trong doanh
nghiệp nên trong thời gian thực tập tại Nhà Máy Cán Thép Thái Nguyên em
đã đi sâu và nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn tại Nhà máy Cán thép Thái Nguyên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung: Vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn tại
Nhà máy Cán thép Thái Nguyên, tiếp cận dần với thực tế nhằm nâng cao kiến
thức chuyên môn.
- Mục tiêu cụ thể
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng vốn của Nhà máy.
+ Đánh giá được thực trạng sử dụng vốn của nhà máy để từ đó đưu ra
những mặt được và những mặt hạn chế của việc sử dụng vốn.
+ Đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn tại Nhà máy.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Tập chung nghiên cứu chủ yếu tình hình sử dụng vốn sản xuất kinh
doanh tại Nhà máy Cán thép Thái Nguyên thuộc Công ty cổ phần Gang
thép Thái Nguyên.

3.2 Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về nội dung
Do điều kiện về thời gian cũng như năng lực của bản thân nên đề tài chỉ
tập trung đánh giá báo cáo tài chính cơ bản của Nhà máy:
+ Bảng cân đối kế toán.
+ Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Thuyết minh báo cáo tài chính.
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
* Phạm vi về thời gian
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
2
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
+ Số liệu trình bày phần tổng quan được sưu tầm trong các tài liệu đã
công bố từ năm 2007 đến nay.
* Phạm vi về không gian
Đề tài được nghiên cứu tại “Nhà máy Cán thép Thái Nguyên Thái Nguyên”
Địa chỉ: Phường Cam Giá – Thành Phố Thái Nguyên – Tỉnh Thái Nguyên.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở phương pháp luận.
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và các phương pháp
thu thập số liệu trong thống kê để hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
4.2. Phương pháp thu thập số liệu.
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: số liệu thứ cấp được thu thập
thông qua phòng kế toán tài chính tại Nhà máy Cán thép Thái Nguyên, niên
giám thống kê, qua mạng Internet và các tài liệu, sách báo liên quan khác.
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: số liệu sơ cấp được thu thập

qua nhiều phương pháp khác nhau như: phương pháp chuyên gia, chuyên
khảo, thu thập qua các cán bộ chuyên môn của các doanh nghiệp, của các
sở ban ngành liên quan
4.3. Phương pháp xử lý số liệu.
Số liệu sau khi được thu thập sẽ được xử lý:
+ Theo phương pháp thủ công đối với những số liệu đơn giản và
tương đối rõ ràng.
+ Nhập vào máy tính và sử dụng phần mền excel để xử lý đối với
các số liệu phức tạp.
4.4 Phương pháp hệ số
Các hệ số tài chính được tính bằng cách đem so sánh trực tiếp (chia)
một chỉ tiêu này với một chỉ tiêu khác để thấy được mức độ ảnh hưởng, vai
trò của các yếu tố, chỉ tiêu này đối với chỉ tiêu khác, yếu tố khác.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
3
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
Ngoài ra, người ta còn sử dụng một số phương pháp khác như:
phương pháp liên hoàn, phương pháp biểu đồ, đồ thị, phương pháp hồi
quy tương quan nhưng trong đề tài này chỉ tập trung đánh giá hiệu quả tài
chính dựa trên phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ. Sự kết hợp cả
hai phương pháp cho phép thấy rõ được thực chất hoạt động tài chính
cũng như xu hướng biến động của các chỉ tiêu tài chính trong doanh
nghiệp trong các giai đoạn khác nhau.
5. Kết cấu của đề tài:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.

Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà máy Cán thép
Thái Nguyên.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Nhà
máy Cán thép Thái Nguyên.
Kết luận và đề xuất
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
4
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Những vấn đề cơ bản về vốn trong doanh nghiệp.
1.1.1 Khái niệm về vốn trong doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, bất
kì doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển đều phải có nguồn tài chính đủ
mạnh, vốn là một điều kiện tiên quyết để một doanh nghiệp được thành lập và
tiến hành hoạt động kinh doanh. Có nhiều quan niệm về vốn như sau:
Vốn là khái niệm xuất phát từ tên tiếng Anh là “Capital” có nghĩa là
“Tư bản”. Tuy nhiên trên thực tế, khi nói về vốn thì chưa có khái niệm nào
được thống nhất. Qua mỗi hoàn cảnh kinh tế - xã hội khác nhau thì có những
khái niệm khác nhau về vốn.
Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó ném vào lưu thông nhằm mục
đích kiếm lời, tiền đó được sử dụng muôn màu, muôn vẻ nhưng suy cho cùng
là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, nhằm hoàn
thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào đó với mục đích là thu
về số tiền lớn hơn ban đầu. Do đó vốn mang lại giá trị thặng dư cho doanh
nghiệp. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu của quản lý và sử dụng vốn nhưng

lại mang tính trừu tượng, hạn chế về ý nghĩa đối với hạch toán và phân tích
quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Theo quan điểm của K.Marx thì dưới góc độ các yếu tố sản xuất, vốn
được khái quát thành phạm trù tư bản: “Vốn (tư bản) là giá trị mang lại giá
trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động làm thuê”. Để tiến hành sản xuất, nhà
tư bản ứng tiền ra mua tư liệu sản xuất và sức lao động nghĩa là tạo ra các yếu
tố của quá trình sản xuất. K.Marx chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản
khả biến. Trong đó tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư
liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) mà giá trị của nó được chuyển
nguyên vẹn vào sản phẩm. Còn tư bản khả biến là bộ phận tồn tại dưới hình
thức lao động, trong quá trình sản xuất thay đổi về lượng và chất, tăng lên do
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
5
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
sức lao động tăng. Qua đây ta thấy vai trò của vốn chính là tạo ra giá trị thặng
dư, là đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên do hạn chế về
hoàn cảnh lúc bấy giờ, K.Marx chỉ bó hẹp khái niệm về vốn trong lĩnh vực
sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có quá trình sản xuất mới tạo ra giá trị thặng
dư cho nền kinh tế.
Còn theo David Begg, Stenley Ficher cho rằng vốn gồm vốn hiện vật
và vốn tài chính. “Vốn hiện vật là giá trị của các hàng hoá đã được sử dụng
để tạo ra hàng hoá và dịch vụ khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có
giá của doanh nghiệp”.
Một số nhà kinh tế học khác lại cho rằng: “Vốn có nghĩa là phần lượng
sản phẩm tạm thời phải hi sinh cho tiêu dùng hiện tại của các nhà đầu tư, để
đẩy mạnh sản xuất tiêu dùng trong tương lai”. Quan điểm này chủ yếu phản

ánh động cơ về đầu tư nhiều hơn là nguồn vốn và biểu hiện của nguồn vốn.
Do vậy quan điểm này không đáp ứng được nhu cầu nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn cũng như phân tích vốn.
Hiện nay khái niệm về vốn ở nước ta được định nghĩa như sau: Về
pháp luật “vốn doanh nghiệp là toàn bộ tài sản của mọi người gồm chủ sở
hữu, các thành viên…nó tượng trưng các quyền, nhất là quyền sở hữu mà
người chiếm hữu đó có thể tuỳ ý sử dụng và do đó nhận được thu nhập
trong lao động mà không bị phản đối”. Về mặt kế toán tài chính, vốn của
doanh nghiệp là toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp, bao gồm tiền
mặt và hiện vật được sử dụng trong kinh doanh. Giá trị của những tài sản
này bất biến nhờ khấu hao. Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn cố định,
vốn lưu động và vốn chuyên dụng.
Ta có thể thấy các quan điểm khác nhau về vốn, dưới góc độ doanh
nghiệp vốn là một trong những điều kiện vật chất cơ bản kết hợp với sức lao
động và các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn tham gia
trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất, liên tục trong suốt thời gian
tồn tại của doanh nghiệp. Vốn không thể mất đi mà ngày càng phải sinh sôi
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
6
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
nảy nở. Do vậy doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có phương
pháp sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất.
1.1.2 Vai trò của vốn sản xuất kinh doanh
Vốn sản xuất kinh doanh là yếu tố sản xuất có vai trò quan trọng
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn là điều kiện
tiên quyết để quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn là

cơ sở xác lập địa vị pháp lý của doanh nghiệp, vốn đảm bảo cho sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp theo mục tiêu đã định. Vì vậy vốn sản xuất
kinh doanh có tầm quan trọng như sau:
- Vốn sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu đầu tư và phát triển
của doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp khi khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên là
doanh nghiệp đó phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó tối thiểu phải
bằng lượng vốn pháp định khi đó địa vị pháp lý của doanh nghiệp mới được
công nhận. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
cũng cần phải có một lượng vốn để mua tư liệu lao động, đối tượng lao động
và sức lao động gọi là vốn sản xuất kinh doanh. Trong thời đại ngày nay,
muốn phát triển thì các doanh nghiệp càng cần phải đầu tư vốn để mở rộng
sản xuất, đổi mới trang thiết bị, mở rộng thị trường…
- Vốn còn có tầm quan trọng như đòn bẩy kích thích và điều tiết cho
hoạt động sản xuất kinh doanh, là mạch máu quyết định sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy
móc thiết bị, dây chuyền công nghệ phục vụ cho sản xuất mà còn đảm bảo
cho hoạt động kinh doanh diễn ra một cách liên tục, thường xuyên.
Vốn sản xuất kinh doanh là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm
vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tái sản xuất và mở rộng thì sau một
chu kì kinh doanh thì vốn của doanh nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động sản
xuất kinh doanh phải có lãi. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư vào
sản xuất, xâm nhập thị trường, nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Doanh
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
7
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư

nghiệp muốn tồn tại thì phải có một khối lượng vốn lớn để đáp ứng được nhu
cầu đầu tư hay bù đắp được những chi phí đã bỏ ra.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn sản xuất kinh doanh trong
doanh nghiệp thì doanh nghiệp mới có thể sử dụng tiết kiệm, hiệu quả hơn và
phải luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.1.3 Đặc trưng cơ bản của vốn
Chỉ có vốn mới có thể để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng
như trả tiền lương cho lao động sản xuất sau khi tiến hành tiêu thụ sản phẩm,
doanh nghiệp dành một phần doanh thu để bù đắp giá trị tài sản cố định hao
mòn, bù đắp chi phí vật tư đã tiêu hao và một phần lập quỹ dự trữ cần thiết
cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Như vậy có thể thấy tư liệu lao
động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp đầu tư cho mua sắm, cho hoạt
động sản xuất kinh doanh là hình thái hiện vật của vốn sản xuất kinh doanh.
Do vậy vốn sản xuất kinh doanh có đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Đặc trưng đầu tiên của vốn đó là tính tuần hoàn và vận động
sinh lời. Trong quá trình tái sản xuất, vốn của các đơn vị hoạt động kinh
doanh luôn vận động không ngừng qua các giai đoạn khác nhau. Qua mỗi giai
đoạn vận động, vốn không ngừng biến đổi cả về hình thái biểu hiện lẫn quy
mô. K.Marx đã tìm thấy quy luật vận động của vốn qua công thức:
TLLĐ
T –H SX H’ T’
ĐTLĐ
Trong đó:
+ TLSX: Tư liệu sản xuất + T’: Tiền sau khi kết thúc chu kì vận động
+ĐTLĐ: Đối tượng lao động + T : Tiền đầu tư ban đầu
+SX : Sản xuất + H : Hàng hoá
Công thức này tương ứng với 3 giai đoạn: Mua - sản xuất - bán hàng.
Giai đoạn mua: Doanh nghiệp phải có vốn tiền tệ để mua sắm những
tư liệu sản xuất như thiết bị, máy móc, nhà xưởng, nguyên vật liệu… thuê
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT

8
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
nhân công. Hình thái của vốn ở giai đoạn này được chuyển từ vốn tiền tệ
thành vốn dự trữ cho sản xuất.
Giai đoạn sản xuất: Giai đoạn kết hợp giữa lao động, tư liệu lao động
và đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Ở giai đoạn này vốn không chỉ
biến hoá hình thái mà còn thay đổi về lượng giá trị, tạo ra lượng giá trị mới
của sản phẩm hàng hoá. Lúc này vốn được biểu hiện dưới giá trị của các
sản phẩm hàng hoá.
Giai đoạn bán hàng: Lúc này vốn được chuyển từ hình thái hiện vật
sang hình thái tiền tệ - hình thái ban đầu và tăng lên về giá trị so với giá trị
ban đầu bỏ ra. Phần chênh lệch này được tạo ra từ quá trình sản xuất, được
thực hiện ở khâu tiêu thụ và biểu hiện dưới hình thái lợi nhuận. Đây được coi
là kết quả tài chính của doanh nghiệp.
Đối với lĩnh vực phân phối, lưu thông (thương mại) vốn vận động qua 2
giai đoạn: T – H – T’. Trong trường hợp này, H là hàng hoá dịch vụ được lưu
thông và thực hiện giá trị. Với phương thức đầu tư vốn kinh doanh thì vốn
vận động qua công thức: T – T’.
Thứ hai: Vốn gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quản lý
chặt chẽ. Tuy nhiên tuỳ theo hình thức đầu tư vốn mà người sở hữu vốn và
người sử dụng vốn có thể đồng nhất hoặc tách rời. Trong nền kinh tế thị
trường, vốn được xem là loại hàng hoá đặc biệt bởi người sở hữu vốn có thể
bán quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định. Chi phí của việc sử dụng
vốn chính là lãi suất. Chính nhờ đặc điểm này mà vốn có thể lưu chuyển trong
đầu tư kinh doanh để sinh lời.
Thứ ba: Vốn đại diện cho một lượng tài sản nhất định hay là vốn phải

được đảm bảo bằng tài sản có thực. Tài sản đó được biểu hiện bằng tài sản
hữu hình hay tài sản vô hình của doanh nghiệp như: Nhà xưởng, máy móc,
thiết bị, đất đai…Với hình thức này các tài sản tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh không bị mất đi mà thu hồi lại được giá trị thông qua hoạt
động trích khấu hao. Đây cũng chính là hoạt động bảo toàn vốn.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
9
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
Thứ tư: Vốn có giá trị về mặt thời gian vì sức mua của đồng tiền ở mỗi
thời điểm khác nhau. Điều này là do ảnh hưởng khách quan từ nền kinh tế
như: Lạm phát, giá cả, tình hình chính trị…Vì vậy để sử dụng vốn có hiệu quả
doanh nghiệp cần tạo ra giá trị lớn nhất của đồng vốn theo thời gian.
Thứ năm: Vốn phải được tích tụ, tập chung tới một lượng nhất định
mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vì thế một doanh nghiệp muốn hoạt động thì phải có một lượng vốn pháp
định đủ lớn. Tuy nhiên vốn không tự nhiên mà có, để có vốn thì doanh
nghiệp phải biết thu hút, khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi thành một “món
lớn” để đầu tư kinh doanh.
1.1.4 Phân loại vốn
Vốn được coi là một loại hàng hoá đặc biệt. Đứng từ nhiều góc độ, vốn
sẽ được nhìn nhận và phân loại theo các cách khác nhau. Vì vậy để sử dụng
vốn có hiệu quả thì doanh nghiệp phải khách quan, nhìn nhận vốn từ nhiều góc
độ. Từ đó doanh nghiệp sẽ tìm được một cơ cấu vốn hợp lý sao cho phù hợp
với doanh nghiệp mình và mang lại hiệu quả cao nhất từ việc sử dụng vốn.
* Xét theo nguồn hình thành:
Nguồn vốn được chia thành bốn loại:

- Vốn ngân sách nhà nước cấp: Là vốn do nhà nước cấp cho doanh
nghiệp, được xác nhận trên cơ sở biên bản giao xuất vốn mà doanh nghiệp
phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển. Vốn do nhà nước cấp có hai loại
vốn cấp ban đầu và vốn cấp bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh. Các
doanh nghiệp sử dụng vốn này phải nộp ngân sách nhà nước một tỷ lệ phần
trăm nào đó trên vốn cấp được gọi là thuế sử dụng vốn ngân sách.
- Vốn liên doanh, liên kết: Để huy động vốn mở rộng sản xuất thì các
doanh nghiệp phải thực hiện việc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp
trong và ngoài nước. Các bên tham gia góp vốn trong phải cùng làm, cùng
hưởng và cùng chịu trách nhiệm với số vốn mình đã góp.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
10
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
- Vốn tự bổ sung: Quy mô vốn ban đầu của doanh nghiệp là yếu tố
quan trọng, tuy nhiêm số vốn này cần được tăng lên theo quy mô phát triển
của doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển của doanh nghiệp, nếu doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả thì sẽ có điều kiện để tăng nguồn vốn. Nguồn vốn
tích luỹ từ lợi nhuận, chưa phân phối cho chủ đầu tư được sử dụng để tái đầu
tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là nguồn tài chính
quan trọng và khá hấp dẫn của doanh nghiệp, giảm được chi phí và giảm được
sự phụ thuộc vào bên ngoài.
- Vốn vay: Là vốn đầu tư ngoài vốn pháp định, được hình thành từ
nguồn đi vay, đi chiếm dụng từ các đơn vị, cá nhân sau thời gian nhất định
doanh nghiệp phải hoàn trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi. Vốn vay có
thể sử dụng hai nguồn chính là: Vay của các tổ chức tài chính và phát hành
trái phiếu doanh nghiệp.

Doanh nghiệp càng sử dụng nhiều vốn vay thì mức độ rủi ro càng cao
nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là một nguồn huy động lớn tuỳ
thuộc vào khả năng của từng doanh nghiệp.
* Xét trên góc độ pháp luật
Vốn của doanh nghiệp được chia thành:
- Vốn pháp định: Là mức vốn thối thiểu phải có theo quy định của pháp
luật để thành lập doanh nghiệp. Tuỳ theo từng ngành nghề, từng loại hình sở hữu
doanh nghiệp, từng thời kì mà Nhà nước quy định mức vốn pháp định hoặc
doanh nghiệp phải đăng kí mức vốn cần phải có khi thành lập doanh nghiệp.
- Vốn điều lệ: Là số vốn do các thành viên góp và được ghi vào điều
lệ công ty. Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu
hoặc các chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt
Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị
quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi
trong điều lệ công ty do các thành viên góp tạo thành vốn của công ty.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
11
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
- Vốn có quyền biểu quyết: Là phần vốn góp theo đó người sở hữu có
quyền biểu quyết về những vấn đề được hội đồng thành viên hoặc đại hội
đồng cổ đông quyết định…
* Xét theo thời gian huy động và sử dụng vốn:
- Nguồn vốn thường xuyên: Đây là nguồn vốn mang tính chất ổn
định lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đầu tư vào TSCĐ và một
bộ phận TSLĐ tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.

- Nguồn vốn tạm thời: Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà
doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng tạm thời, bất thường những phát
sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này
thường là các khoản vay ngắn hạn, các khoản chiếm dụng. Theo cách phân
loại này giúp cho doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính, hình thành nên
những dự định về tổng nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định về
quy mô số lượng vốn cần thiết, khai thác sử dụng nguồn vốn tiềm tàng, tổ
chức sử dụng vốn có hiệu quả cao.
* Xét theo tính chất sử hữu
- Nguồn vốn chủ sở hữu: Là số vốn của chủ sở hữu, của cá nhân đầu tư
góp vốn hoặc hình thành từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Nguồn vốn chủ sở hữu được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tuy
nhiên có thể chia thành 2 nguồn: Vốn chủ sử hữu, nguồn kinh phí và quỹ khác.
- Nợ phải trả: Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh, doanh nghiệp phải có trách nhiệm trả cho chủ nợ như: Vay, nợ ngắn
hạn, phải trả cho người bán, phải trả cho nhà nước…
Theo tính chất thời gian thanh toán thì các khoản nợ phải trả được chia
thành: Nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, nợ khác.
+ Nợ ngắn hạn: Bao gồm các khoản tín dụng ngắn hạn (bao gồm tín dụng
thương mại và tín dụng ngân hàng) hay các khoản nợ trong vòng một năm.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
12
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
Tín dụng thương mại: Phát sinh trong mua bán chịu, hoặc mua bán trả
góp giữa các doanh nghiệp với khách hàng và giữa người bán với doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng: Là khoản vay tại ngân hàng thương mại hoặc các

tổ chức tín dụng. Đây là lượng vốn bằng tiền nhất định để đáp ứng nhu cầu
vốn nhanh chóng cho doanh nghiệp với thời gian dưới một năm.
+ Nợ dài hạn: Bao gồm các khoản tín dụng dài hạn, vốn huy động được
thông qua ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu công ty. Nợ dài hạn thường
được dùng tài trợ cho nhu cầu về vốn cố định, đặc biệt là mua sắm tài sản cố
định. Nợ dài hạn có mức độ rủi ro thấp hơn nợ ngắn hạn.
+ Nợ khác: Là các khoản nợ phải trả như nợ kí quỹ, kí cược dài hạn, tài
sản thừa chờ thanh lý, các khoản chi phí phải trả.
* Theo giác độ chu chuyển vốn kinh doanh
- Vốn cố định: Là biểu hiện bằng tiền về tài sản cố định và tài sản
đầu tư cơ bản và được luân chuyển từng phần vào trong từng chu kỳ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hình thành vòng tuần hoàn khi tài sản
cố định hết thời hạn sử dụng.
- Vốn lưu động: Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu
thông. VLĐ dùng trong kinh doanh tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và giá trị có thể trở lại trạng thái ban đầu sau
mỗi vòng chu chuyển hàng hoá.
1.2 Vốn cố định của doanh nghiệp:
1.2.1 Khái niệm về vốn cố định
Là bộ phận đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng và lắp đặt các
TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần, từng phần trong nhiều chu
kì sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết hạn
sử dụng. Với doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thì VCĐ chiếm một phần
lớn trong tổng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (khoảng trên 80%).
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
13
Khóa luận tốt nghiệp




Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
1.2.2 Đặc điểm luân chuyển của vốn cố định
Có thể khái quát những nét dặc thù về sự luân chuyển của vốn cố định
trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
- Vốn cố định luân chuyển qua nhiều kì sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp do TSCĐ và các khoản đầu tư dài hạn tham gia vào nhiều chu kì sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bộ
phận VCĐ đầu tư vào sản xuất được phân ra làm hai phần: Một bộ phận VCĐ
tương ứng với giá trị hao mòn của TSCĐ được dịch chuyển vào chi phí kinh
doanh hay giá thành sản phẩm dịch vụ được sản xuất ra, bộ phận giá trị này sẽ
được bù đắp và tích luỹ lại sau khi hàng hoá và dịch vụ được tiêu thụ. Bộ
phận còn lại của VCĐ nằm ở TSCĐ dưới hình thức giá trị còn lại của TSCĐ.
- Sau nhiều chu kì kinh doanh vốn cố định mới hoàn thành một
vòng luân chuyển.
Từ đặc điểm trên của vốn cố định đòi hỏi việc quản lý và sử dụng
vốn cố định phải gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là
TSCĐ trong doanh nghiệp.
1.2.3 Tài sản cố định trong doanh nghiệp
1.2.3.1 Khái niệm và đặc điểm của TSCĐ.
* Khái niệm
Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn
hơn 10 triệu, có thời gian sử dụng, luân chuyển và thu hồi trên 1 năm hoặc
trên một chu kì kinh doanh (nếu chu kì kinh doanh đó lớn hơn 1 năm).
* Đặc điểm của tài sản cố định
- Tuổi thọ của TSCĐ có thời gian sử dụng trên 1 năm, tức là TSCĐ sẽ
tham gia vào nhiều chu kì kinh doanh và giá trị của nó được chuyển dần vào
giá trị sản phẩm làm ra thông qua khoản chi phí khấu hao. Điều này làm giá
trị của TSCĐ giảm dần hàng năm.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT

14
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh, TSCĐ mặc dù bị hao mòn
nhưng chúng vẫn giữ được hình thái vật chất ban đầu và chỉ khi nào chúng hư
hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không còn có lợi về kinh tế thì khi đó chúng bị
thay thế và đổi mới.
1.2.3.2 Phân loại tài sản cố định
Để quản lý tài sản chặt chẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác sử
dụng vốn cố định đạt hiệu quả cao, cần phải phân loại TSCĐ theo những
tiêu thức nhất định.
* Căn cứ theo hình thái biểu hiện
- TSCĐ hữu hình: Là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật
chất nó có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ
thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay
một số chức năng nhất định. Thoả mãn các tiêu chuẩn của TSCĐ hữu hình,
tham gia vào nhiều chu kì sản xuất kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình
thái vật chất ban đầu như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận
tải, dụng cụ văn phòng…
- TSCĐ vô hình: Là những TSCĐ không có hình thái vật chất, thể hiện
một lượng giá trị được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của TSCĐ vô hình
tham gia vào nhiều chu kì kinh doanh như: Một số kinh phí liên quan trực tiếp
tới đất sử dụng, chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế
* Căn cứ vào tình hình sử dụng
TSCĐ được chia thành ba loại: TSCĐ đang sử dụng, TSCĐ chưa dùng,
TSCĐ không dùng và chờ thanh lý.
- TSCĐ đang sử dụng: Là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử

dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi, sự
nghiệp an ninh quốc phòng của doanh nghiệp.
- TSCĐ chưa dùng: Là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động kinh
doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp nhưng hiện tại chưa dùng,
đang được dự trữ để sử dụng sau này.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
15
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
- TSCĐ không cần dùng và chờ thanh lý: Là các TSCĐ không cần thiết
hoặc không phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và các
TSCĐ đã hư hỏng đang chờ thanh lý hoặc nhượng bán.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp thấy được mức độ sử dụng của
TSCĐ trong doanh nghiệp, cho biết được năng lực của TSCĐ có thể huy động
vào sản xuất kinh doanh, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp sớm có những
biện pháp nhằm giải phóng vốn ứ đọng ở loại TSCĐ không cần dùng và chờ
thanh lý để đưa vào sản xuất kinh doanh kịp thời, giúp việc khấu hao được
chính xác hơn tránh được việc tính khấu hao quá lớn.
• Kết cấu tài sản cố định
Kết cấu TSCĐ là tỉ trọng giữa nguyên giá của từng loại TSCĐ trong
tổng nguyên giá TSCĐ của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Kết cấu
TSCĐ giữa các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau là khác
nhau thậm chí trong cùng một ngành sản xuất cũng khác nhau. Kết cấu này
phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Quy mô sản xuất.
+ Phương hướng (mục tiêu) kinh doanh.
+ Khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.

+ Khả năng thu hút vốn đầu tư của doanh nghiệp.
+Tính chất sản xuất và đặc điểm quy trình công nghệ.
Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp phù hợp sẽ giúp cho việc nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn cố định cũng như vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
1.2.3.3 Khấu hao tài sản cố định
Trong quá trình tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, do chịu tác
động của nhiều nguyên nhân nên TSCĐ bị hao mòn dần sự hao mòn này có
thể chia thành hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Trong đó, hao mòn hữu
hình là sự giảm dần về giá trị sử dụng và theo đó giá trị của TSCĐ giảm dần,
hao mòn vô hình là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị mà nguyên nhân chủ yếu
là do sự tiến bộ của khoa học công nghệ.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
16
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
Do vậy để thu hồi lại giá trị của TSCĐ do sự hao mòn trên cần phải
tiến hành khấu hao TSCĐ. Khấu hao là một thuật ngữ sử dụng trong kế toán
miêu tả phương pháp phân bổ chi phí của TSCĐ trong suốt thời gian sử dụng
của nó tương đương với mức hao mòn thông thường. Khấu hao thường áp
dụng với loại tài sản có thời gian sử dụng cố định, mất dần giá trị trong quá
trình sử dụng. Hay nói cách khác, khấu hao là sự phân bổ dần giá trị TSCĐ
vào giá trị sản phẩm nhằm tái sản xuất TSCĐ sau khi hết thời gian sử dụng.
Khấu hao TSCĐ là một yếu tố chi phí trong giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp nên việc lập khấu hao TSCĐ nằm trong nội dung công tác lập
kế hoạch tài chính của doanh nghiệp và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với doanh nghiệp.
Để thực hiện khấu hao TSCĐ người ta thường áp dụng một số phương

pháp chủ yếu sau:
* Phương pháp khấu hao tuyến tính (phương pháp khấu hao theo
đường thẳng)
Đây là phương pháp đơn giản nhất và được sử dụng khá phổ biến.
Theo phương pháp này mức khấu hao cơ bản hàng năm của TSCĐ là đều
nhau trong suốt thời gian sử dụng của TSCĐ và được xác định như sau:
Mức trích khấu hao năm =
+ Nguyên giá TSCĐ bao gồm giá mua thực tế phải trả (giá mua ghi
trên hoá đơn trừ đi các khoản giảm giá, chiết khấu mua hàng nếu có), chi phí
vận chuyển, bốc dỡ, chạy thử, các khoản lãi vay đầu tư cho TSCĐ khi chưa
bàn giao và đưa vào sử dụng.
+ Giá trị thu hồi ước tính là phần giá trị ước tính có thể thu hồi lại tại
thời điểm thanh lý hoặc nhượng bán TSCĐ.
+ Thời gian sử dụng TSCĐ là thời gian doanh nghiệp dự kiến sử
dụng TSCĐ. Nó được căn cứ vào tuổi thọ kĩ thuật và tuổi thọ kinh tế của
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
17
Nguyên giá TSCĐ – Giá trị thu hồi ước tính
Số năm sử dụng TSCĐ
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
TSCĐ có tính đến sự lạc hậu lỗi thời của TSCĐ do sự phát triển của khoa
học công nghệ.
Phương pháp khấu hao này có ưu điểm là tính toán đơn giản, tổng mức
khấu hao TSCĐ được phân bổ đều đặn trong các năm sử dụng TSCĐ và
không gây ra sự biến động trong giá thành sản phẩm hàng năm. Nhưng
phương pháp này có nhược điểm là trong nhiều trường hợp không thu hồi vốn

kịp thời do không tính hết được sự hao mòn vô hình của TSCĐ.
* Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
Để thu hồi vốn nhanh người ta thường sử dụng phương pháp khấu hao
theo số dư giảm dần. Mức khấu hao hàng năm được tính theo công thức:
MK
i
= G
di
x T
kh
Trong đó: MK
i
: Mức khấu hao TSCĐ năm thứ i
G
di
: Giá trị còn lại của TSCĐ đầu năm thứ i
T
kh
: Tỷ lệ khấu hao cố định hàng năm của TSCĐ
T
kh
= T
k
x Hs
T
k
: Tỷ lệ khấu hao theo phương pháp tuyến tính
Hs : Hệ số điều chỉnh
Phương pháp này có ưu điểm là thu hồi vốn nhanh, giảm được tổn thất
do hao mòn vô hình, đồng thời đây là một biện pháp “hoãn thuế”. Tuy nhiên

nhược điểm của phương pháp này là có thể gây sự đột biến về giá thành sản
phẩm trong những năm đầu do chi phí khấu hao lớn, sẽ bất lợi trong cạnh
tranh. Những doanh nghiệp kinh doanh chưa ổn định, chưa có lãi thường
không áp dụng phương pháp khấu hao này.
1.3 Vốn lưu động của doanh nghiệp
1.3.1 Khái niệm vốn lưu động
Vốn lưu động là số tiền ứng trước về TSLĐ hiện có và đầu tư ngắn hạn
của doanh nghiệp để bảo đảm cho việc sản xuất kinh doanh được diễn ra bình
thường liên tục.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
18
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
1.3.2 Đặc điểm của vốn lưu động
- Thể hiện nhiều hình thái và chủng loại.
- Luôn biến động và thể hiện hình thái vật chất một cách tuần hoàn
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Biến hình trở thành thực thể của sản phẩm hoặc chuyển toàn bộ giá trị
vốn vào giá thành sản phẩm.
- Khi kết thúc giai đoạn sản xuất, vốn lưu động được biểu hiện tổng
quát toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh (bao gồm cả bộ phận sức lao động và
vốn cố định)
1.3.3 Tài sản lưu động
1.3.3.1 Khái niệm và đặc điểm của TSLĐ
* Khái niệm TSLĐ:
Tài sản lưu động là đối tượng lao động thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp, mà đặc điểm của chúng là luân chuyển toàn bộ giá trị ngay một lần

vào chi phí sản xuất kinh doanh.
* Đặc điểm của TSLĐ
- Tài sản lưu động chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất kinh doanh và
luôn thay đổi hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển toàn
bộ một lần vào giá trị sản phẩm và được bù đắp khi sản phẩm được thực hiện.
Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân
chuyển trong quá trình SXKD. Trong bảng cân đối kế toán của DN, TSLĐ
được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán có tính thanh khoản
cao, khoản phải thu, hàng tồn kho. Giá trị các loại TSLĐ của các DN sản xuất
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chúng. Vì vậy việc
quản lý và sử dụng tốt loại TSLĐ có ý nghĩa rất quan trong trong quá trình
SXKD của DN.
Trong SXKD thì TSLĐ thay đổi thường xuyên theo một chu trình khép
kín như sau:
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
19
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
Sơ đồ 01: Chu trình luân chuyển vốn lưu động
1.3.3.2 Phân loại tài sản lưu động
Để quản lý và sử dụng TSLĐ cho tốt thì ta cần phải phân loại TSLĐ
theo những tiêu thức khác nhau. Thông thường có những cách phân loại sau:
* Theo vai trò đối với quá trình sản suất kinh doanh.
- TSLĐ trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm giá trị các khoản nguyên
vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, công cụ dụng cụ lao động nhỏ,
phụ tùng thay thế.
- TSLĐ trong khâu sản xuất: Bao gồm giá trị sản phẩm dở dang và

vốn về chi phí trả trước.
- TSLĐ trong khâu lưu thông: Bao gồm giá trị thành phẩm, vốn bằng
tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh toán (các khoản
phải thu, tạm ứng).
* Theo hình thái biểu hiện
- Vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán: Gồm tiền mặt tại quỹ, tiền
gửi nhân hàng, tiền đang chuyển, kể cả kim loại quý như vàng, bạc, đá
quý ,Các khoản nợ phải thu của khách hành, các khoản tạm ứng và các
khoản phải thu khác.
- Hàng tồn kho: Bao gồm nguyên, nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế,
công cụ dụng cụ, sản phẩm dở dang và thành phẩm.
- Vốn về chi phí trả trước: Là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã
phát sinh có liên quan đến nhiều chu kì kinh doanh nên được phân bổ vào
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
20
Nguyên vật liệu
Tiền
Sản phẩm
Bán thành phẩm
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
nhiều chu kì kinh doanh như: Chi phí sửa chữa lớn TSCĐ, chi phí thuê tài
sản, cải tiến kĩ thuật, lắp đặt các công trình tạm bợ
* Kết cấu vốn lưu động
- Kết cấu vốn lưu động là tỷ trọng giữa từng bộ phận vốn lưu động
trên tổng số vốn lưu động của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu kết cấu vốn
lưu động giúp ta thấy được tình hình phân bổ vốn lưu động và tỷ trọng của

mỗi loại vốn chiếm trong các giai đoạn luân chuyển, từ đó xác định trọng
điểm quản lý vốn lưu động, đồng thời dùng mọi biện pháp nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn lưu động.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu của vốn lưu động:
+ Nhân tố về mặt sản xuất: Gồm những nhân tố quy mô sản xuất, tính
chất sản xuất, trình độ sản xuất, độ phức tạp của sản phẩm khác nhau thì tỷ
trọng vốn lưu động ở các khâu dự trữ - sản xuất – lưu thông cũng khác nhau.
+ Nhân tố về mặt thanh toán: Việc sử dụng thể thức thanh toán khác
nhau thì vốn chiếm dụng trong thanh toán cũng khác nhau, do đó nó ảnh
hưởng đến việc tăng giảm vốn lưu động.
+ Nhân tố về cung ứng tiêu thụ: Trong điều kiện tiêu thụ sản phẩm
cũng ảnh hưởng nhất định đến kết cấu vốn lưu động. Khối lượng tiêu thụ
sản phẩm mỗi lần nhiều hay ít cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vốn lưu động
trong khâu lưu thông.
1.4 Hiệu quả sử dụng vốn
1.4.1 Khái niệm và vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong doanh nghiệp.
* Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực, vật lực, tài lực của DN để đạt được kết quả cao nhất trong hoạt
động SXKD với tổng chi phí thấp nhất. Vì vậy không ngừng nâng cao hiệu
quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của bất kì nền sản xuất nào nói chung
và của mỗi doanh nghiệp nói riêng. Hiện nay nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
21
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư

vừa là câu hỏi, vừa là thách thức đối với các DN hiện nay. Vậy hiệu quả sử
dụng vốn trong doanh nghiệp là một phạn trù kinh tế phản ánh trình độ khai
thác, sử dụng nguồn vốn của DN vào quá trình hoạt động SXKD nhằm mục
đích sinh lời tối đa với chi phí thấp nhất.
Hiệu quả sử dụng vốn là một vần đề phức tạp có liên quan đến tất cả
các yếu tố của quá trình sản xuất (đối tượng lao động và tư liệu lao động), cho
nên DN chỉ có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trên cơ sở sử dụng các yếu
tố cơ bản của quá trình SXKD có hiệu quả như:
- Sử dụng hợp lý và tiết kiệm, tránh thất thoát, lãng phí hay để ứ đọng,
chậm, luân chuyển vốn.
- Huy động vốn có hiệu quả để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, tăng
hiệu quả kinh doanh.
- Đảm bảo các mục tiêu của DN.
Bất kì DN sản xuất nào cũng có hàm sản xuất dạng: Q = f (K,L)
Trong đó: K là vốn, L là lao động
Vì vậy kết quả sản xuất kinh doanh của DN có quan hệ hàm với các
yếu tố tài nguyên, vốn, công nghệ. Với một DN trong ngắn hạn thì các nguồn
lực này đều bị giới hạn, điều này đòi hỏi các DN phải tìm biện pháp nhằm
khai thác và sử dụng vốn, sử dụng các nguồn lực sẵn có của mình trên cơ sở
so sánh và lựa chọn phương án SXKD tốt nhất.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, người ta thường sử dụng sự
tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra, và chỉ thu được hiệu
quả khi kết quả đầu ra lớn hơn chi phí đầu vào. Hiệu quả càng lớn thì
chênh lệch càng cao. Vậy bản chất của hiệu quả sử dụng vốn là là phân
tích, đánh giá đúng cũng như xác định được các nguyên nhân của những
tồn tại về quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp mình sẽ giúp cho DN
tìm được những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, để
có thể tồn tại và phát triển trên thị trường.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
22

Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
* Vai trò của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong DN.
Trước đây trong cơ chế bao cấp, chi phí và doanh thu do nhà nước ấn
định là chủ yếu. Quan hệ giữa nhà nước và DN dựa trên nguyên tắc lãi nhà nước
thu, lỗ nhà nước bù. Nhà nước ra kế hoạch mang tính pháp định về kế hoạch về
mặt hàng trong kinh doanh, nguồn hàng, nơi tiêu thu và doanh thu. Vì vậy DN
không thể và không cần thiết phát huy tính sáng tạo, chủ động của mình trong
sản xuất kinh doanh. Việc hạch toán kinh doanh mang tính chất hình thức. Đa số
các DN là lãi giả lỗ thật, nguy cơ ảnh hưởng đến nền kinh tế ngày càng tăng,
nhiều DN làm ăn kém hiệu quả vẫn được nhà nước bù lỗ để duy trì.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, do điều đó không còn phù hợp
nữa, sự cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế, giữa các DN thì việc
nâng cao hiệu quả SXKD là điều kiện cơ bản để một DN tồn tại và phát triển.
Lúc này lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu. Để đạt tới lợi nhuận tối đa thì DN phải
không ngừng nâng cao tình độ quản lý SXKD trong đó có quản lý và sử dụng
vốn là một bộ phận quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả SXKD của DN.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng có nghĩa là nâng cao năng lực
quản lý các loại tài sản, tận dụng các lợi thế của DN, phát huy khả năng tiềm
tàng để tạo ra sự phát triển của DN. Với số vốn cố định, vốn lưu động hiện có
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có nghĩa là sản xuất thêm một số lượng
sản phẩm với chất lượng tốt, giá thành hạ, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, thanh
toán các khoản nợ kịp thời.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng
cao hiệu quả trong hoạt động SXKD. Vì hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng
được xác định bằng cách so sánh kết quả đạt được với chi phí bỏ ra, trong đó
chi phí về vốn là chủ yếu.

1.4.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
Các DN Việt nam với số vốn tự có hay vốn vay, vốn điều lệ đều là số
vốn phải trả cổ tức, hoặc là nộp thuế vốn và hạch toán bảo toàn vốn. Vậy số
vốn này lớn bao nhiêu là đủ, là hợp lý, là hiệu quả cho quá trình SXKD của
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
23
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
DN. Mặt khác trong quá trình kinh doanh, một DN tạo ra các sản phẩm và
dịch vụ có sức tiêu thụ lớn, thị trường ngày càng ổn định và mở rộng, nhu cầu
của khách hành ngày càng lớn thì nhu cầu về vốn SXKD ngày càng lớn hơn.
Do vậy nếu công tác quản trị và điều hành không tốt thì sẽ ảnh hưởng không
tốt đến hiệu quả SXKD của DN. Vì vậy DN cần phải đánh giá đúng vai trò
của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong SXKD của DN sao cho lượng
vốn có thể đáp ứng tốt nhu cầu của DN.
1.4.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn tổng quát.
Tình hình tài chính của DN được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ
tiêu về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Nó thể hiện mối quan hệ giữa
kết quả kinh doanh trong kì và số vốn kinh doanh bình quân. Ta có thể sử
dụng các chỉ tiêu sau:
* Hiệu suất sử dụng vốn hay sức sản xuất của vốn.
Hiệu suất sử dụng vốn =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn doanh nghiệp bỏ vào kinh doanh
tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản lượng, doanh thu trong kì. Trị số của mục
tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Ngược lại trị số
của chỉ tiêu này càng nhỏ phản ánh hiệu quả sử dụng vốn thấp. Mặt khác chỉ
tiêu này còn cho thấy, hiệu suất sử dụng vốn thay đổi không những phụ thuộc

vào doanh thu mà còn phụ thuộc vào sự tăng giảm của tổng số vốn bình quân.
Do vậy muốn tăng hiệu quả sử dụng vốn không những tăng doanh thu và còn
phải tiết kiệm vốn. Trong đó:
Lượng vốn sử dụng bình quân trong kì =
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
24
Giá trị tổng sản lượng (doanh thu)
Lượng vốn sử dụng bình quân trong kì
2
VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ
Khóa luận tốt nghiệp



Chuyên ngành: Kinh tế đầu tư
* Suất hao phí vốn
Suất hao phí vốn =
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu tạo ra thì DN phải hao phí
bao nhiêu đồng vốn kinh doanh. Suất hao phí vốn càng thấp chứng tở hiệu
quả sử dụng vốn càng cao, hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại.
* Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất
Tỷ suất lợi nhuận vốn =
Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận được tạo ra trên một đồng vốn trong
kì. Khi tính ra chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng
vốn càng cao và ngược lại.
*Hệ số doanh lợi vốn chủ sử hữu
Hệ số doanh lợi vốn chủ sở hữu =
Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận tạo ra trên một đồng vốn chủ sở hữu.
Chỉ tiêu này càng cao thể hiện khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu hay hiệu
quả sử dụng vốn chủ sở hữu càng tăng và ngược lại.

1.4.2.2 Các chỉ tiêu đành giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Trong điều kiện cơ chế thị trường, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố
định là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư
cũng như chất lượng hiệu quả sử dụng vốn cố định, tài sản cố định của
doanh nghiệp.
Sinh viên: Trần Thị Huyền Lớp K3KTĐT
25
Lượng vốn bình quân trong kỳ
Doanh thu
Lượng vốn bình quân trong kỳ
Tổng lợi nhuận
Lợi nhuận trước (sau) thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân trong kì

×