Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

luận văn thạc sĩ kế toán Kế toán công cụ tài chính trong các công ty chứng khoán ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 130 trang )

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển, hàng loạt công ty mới ra
đời. Nhu cầu về vốn là một trong những nhu cầu cấp thiết của các doanh
nghiệp do vậy sự đi lên của thị trường chứng khoán là cấp thiết trong những
năm gần đây. Thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn đầu tư dài hạn có
hiệu quả tương đối cao, Nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển do vậy sự
phát triển của thị trường chứng khoán là một tất yếu Sự phát triển của thị
trường chứng khoán kéo theo sự thành lập các công ty chứng khoán- chuyên
kinh doanh và đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán kinh doanh, mua
bán một thứ hàng hóa vô hình- giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản
nhưng lại có giá trị lớn. Các công cụ tài chính có giá cả thay đổi liên tục, được
mua bán thường xuyên cho nên các nghiệp vụ phát sinh rất phong phú, phức
tạp. Ngoài ra nó còn có những nghiệp vụ rất đặc trưng như bão lãnh phát hành
chứng khoán, cầm cố cổ phiếu, cho vay…. Từ những đặc điểm nêu trên, chế
độ kế toán cho Công ty chứng khoán phải được quy định phù hợp với tính đặc
thù hoạt động kinh doanh chứng khoán. Sự phát triển của các Công ty chứng
khoán kéo theo sự đa đạng của các công cụ tài chính được sử dụng, Việt Nam
lại chưa có một chuẩn mực cụ thể nào quy định về kế toán các công cụ tài
chính. Do vậy ta cần phải nâng cao về chất lượng kế toán công cụ tài chính
trong các Công ty chứng khoán. Nhận biết được tính cấp thiết của vấn đề, em
đã tiến hành thực hiện nghiên cứu đề tài: “ Kế toán công cụ tài chính trong
các công ty chứng khoán ở Việt Nam” để củng cố cơ sở lý luận,thực tại
hoạt động của công cụ tài chính trong công ty chứng khoán và đưa ra các giải
pháp hoàn thiện để đảm bảo tính trung thực, hợp lý, hợp lệ của các công cụ tài
chính trong công ty chứng khoán.
1
1.2. Tổng quan về đề tài
Quy định về kế toán công cụ tài chính trong chuẩn mực kế toán quốc
tế IAS 32 “ công cụ tài chính: trình bày”, IFRS 7 “công cụ tài chính: thuyết
minh”, IAS 39 “công cụ tài chính: ghi nhận và đo lường”. Quy định ban hành


hướng dẫn kế toán trong công ty chứng khoán Việt Nam. Và thực tiễn kế toán
công cụ tài chính các công ty chứng khoán tại Việt Nam.
Từ sự nghiên cứu những đề tài đã có như
- Luận văn tốt nghiệp đề tài “ Công cụ tài chính và sự ra đời phát triển các
Công cụ tài chính ở Việt Nam”
- Luận văn thạc sỹ của học viên trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh “Vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế về công cụ tài chính đề hoàn
thiện chế độ kế toán Việt Nam”
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của PGS.TS Đặng Thái Hùng về “Kế
toán công cụ tài chính ở Việt Nam hiện nay”
Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến bốn vấn đề lớn
sau:
+ Hệ thống các tổ chức tài chính.
+ Sự ra đời và phát triển các Công cụ tài chính trên thế giới.
+ Thực tiễn hoạt động của các Công cụ tài chính ở Việt Nam.
+ Đề xuất những giải pháp cơ bản để hoàn thiện hơn nữa mô hình Công
cụ tài chính để phát huy tối đa chức năng nhiệm vụ của các Công cụ tài chính.
Do vậy ta thấy rằng hầu như các đề tài nghiên cứu trên đi sâu vào nghiên
cứu chuẩn mực, nghiên cứu những vấn đề chung nhất mà chưa đi sâu vào
nghiên cứu tình hình thực hiện trong một loại hình công ty, nhất là công ty
chứng khoán nơi mà việc sử dụng công cụ tài chính luôn là vấn đề then chốt
quyết định đến quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy đề tài em
2
nghiên cứu đề cập đến công cụ tài chính trong công ty chứng khoán, các hình
thức biểu hiện của nó và phương pháp hạch toán kế toán liên quan
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
Do đề tài đi sâu vào kế toán công cụ tài chính tại các công ty chứng
khoán nên đi sâu vào những mục tiêu sau:
Một là: Tìm hiểu những vấn đề lý thuyết liên quan đến thị trường tài chính,
công cụ tài chính của các công ty chứng khoán hiện nay ở Việt Nam và trên

thế giới. Đánh giá tình hình phát triển hiện nay và xu hướng phát triển của các
công cụ tài chính trong các công ty chứng khoán.
Hai là: Tìm hiểu thực trạng kế toán công cụ tài chính trong công ty Chứng
khoán hiện đang được áp dụng tại Việt Nam và theo chuẩn mực kế toán quốc
tế. Từ đó đưa ra đánh giá khái quát về thực trạng công tác kế toán công cụ tài
chính tại Việt Nam
Ba là: Đề xuất các giải pháp về kế toán công cụ tài chính (cả về chuẩn mực và
thực hành) trong các công ty chứng khoán ở Việt Nam để phục vụ nhu cầu
phát triển và quản lý. Các vấn đề hoàn thiện kế toán công cụ tài chính để phù
hợp với chuẩn mực quốc tế tạo niềm tin cho các nhà đầu tư và tăng cường
tính minh bạch của các thông tin tài chính, Tạo điều kiện tối đa cho việc giám
sát tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế.
1.4. Câu hỏi nghiên cứu
Đề nghiên cứu và đưa ra các giải pháp hoàn thiện kế toán công cụ tài chính
trong công ty chứng khoán thì trong đề tài nghiên cứu ta cần giải quyết những
câu hỏi sau:
- Công cụ tài chính là gì, ý nghĩa đối với hoạt động kinh doanh của các công
ty chứng khoán?Thế nào là công cụ tài chính truyền thống và công cụ tài
chính phái sinh.
3
- Đặc điểm, vai trò của công cụ tài chính trong các công ty chứng khoán ở
Việt Nam?
- Phân loại và việc định giá công cụ tài chính truyền thống và công cụ tài
chính phái sinh?
- Lý luận về kế toán công cụ tài chính trong các công ty chứng khoán ở Việt
Nam? (Về chứng từ, tài khoản và hạch toán công cụ tài chính trong các công
ty chứng khoán)
- Chuẩn mực kế toán quốc tế liên quan đến công cụ tài chính và sự áp dụng
của các công ty chứng khoán Việt Nam?

- Thực trạng kế toán công cụ tài chính trong các công ty chứng khoán ở Việt
Nam?
- Thành công và hạn chế kế toán công cụ tài chính trong công ty chứng
khoán?
- Giải pháp nào cần có để hoàn thiện kế toán công cụ tài chính trong các công
ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay?
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào nghiên cứu thực trạng kế công cụ tài chính của các công
ty chứng khoán tại Việt Nam trong những năm vừa qua; việc thực hiện quy
định kế toán công cụ tài chính tại các công ty chứng khoán. Đi sâu chủ yếu
vào hai loại công cụ tài chính là: công cụ tài chính truyền thống và công cụ tài
chính phái sinh.
- Các chuẩn mực của Việt Nam và quốc tế ban hành quy định về công cụ tài
chính: Thông tư 210/2009/BTC ngày 6/11/2009, thông tư 95/2008/TT-BTC
ngày 24/10/2008, IAS32- công cụ tài chính trình bày, IAS 39, IFRS 7
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phân tích thực tiễn theo quan điểm
lịch sử, toàn diện, gắn sự phát triển công cụ tài chính và sự phát triển kế toán
4
công cụ tài chính của Việt Nam, đồng thời không tách rời xu hướng chung
của thế giới.
Luận văn tiến hành nghiên cứu tình hình kế toán công cụ tài chính trong
một số công ty chứng khoán ở Việt Nam, từ đó tìm ra ưu, nhược điểm, kết
hợp với việc vận dụng kế toán công cụ tài chính trong chuẩn mực kế toán
quốc tế từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện về chuẩn mực cũng như phương
pháp kế toan về công cụ tài chính. Đây là phương pháp chọn mẫu điển hình.
1.7. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Do kế toán công cụ tài chính là rất phức tạp và tương đối mới nên việc
nghiên cứu đề tài nhằm đưa ra thực trạng kế toán công cụ tài chính trong các
công ty chứng khoán, chỉ ra các đặc điểm điển hình chi phối kế toán công cụ

tài chính, cũng như các chuẩn mực có liên quan nhằm đưa ra các điểm chưa
phù hợp tình hình hiện tại của các công ty chứng khoán ở Việt Nam.
Đề tài nhằm đi sâu vào việc hoàn thiện về chuẩn mực và trong việc hạch
toán kế toán công cụ tài chính trong các công ty chứng khoán, giúp các công
ty chứng khoán quản lý một cách đồng bộ và khoa học hơn, giúp các nhà
quản lý và các nhà đầu tư đánh giá chính xác được tình hình hoạt động của
các công ty chứng khoán từ đó đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
1.8. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Luận văn được chia ra làm 4 chương với nội dung từng chương như sau:
Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về kế toán công cụ tài chính trong các công ty chứng
khoán
Chương 3: Thực trạng kế toán các công cụ tài chính trong các công ty Chứng
khoán ở Việt Nam
Chương 4: Kết quả nghiên cứu, các giải pháp đề xuất hoàn thiện kế toán các
công cụ tài chính trong các công ty Chứng khoán ở Việt Nam và kết luận.
5
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN CÔNG CỤ TÀI CHÍNH
TRONG CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
2.1. Những vấn đề kinh tế - tài chính cơ bản về công cụ tài chính
2.1.1. Khái niệm và phân loại công cụ tài chính
2.1.1.1. Khái niệm công cụ tài chính[1.112]
Công cụ tài chính là bất kỳ hợp đồng nào mang lại một tài sản tài chính
cho doanh nghiệp và một khoản nợ tài chính hoặc công cụ vốn cổ phần cho
một doanh nghiệp khác.
Tài sản tài chính là loại tài sản vô hình mà giá trị của nó thể hiện ở trái quyền
hay quyền thụ hưởng một số tiền trong tương lai. Bao gồm:
- Tiền (Ví dụ: tiền gửi ngân hàng)
- Quyền theo hợp đồng để nhận tiền hoặc tài sản tài chính khác từ đơn vị
khác (Ví dụ một khoản thu nợ và công cụ phái sinh)

- Quyền theo hợp đồng để trao đổi công cụ tài chính với đơn vị khác
dưới các điều kiện có lợi tiềm tàng
- Công cụ vốn cổ phần của một doanh nghiệp khác (ví dụ như cổ phiếu)
Một khoản nợ tài chính là một nghĩa vụ hợp đồng để:
- Giao một tài sản tài chính bất kỳ (Ví dụ một nghĩa vụ nợ và công cụ
phái sinh)
- Trao đổi công cụ tài chính theo các điều kiện có khả năng bất lợi
Một công cụ vốn là bất kỳ hợp đồng nào cho thấy phần lợi ích còn lại
trong các tài sản của doanh nghiệp sau đi trừ đi tất cả các khoản nợ. Nghĩa vụ
phát hành công cụ vốn cổ phần không phải là nghĩa vụ nợ tài chính do nghĩa
vụ này dẫn đến việc làm tăng vốn cổ phần và không gây tổn thất cho doanh
nghiệp
6
2.1.1.2. Phân loại công cụ tài chính
Có nhiều cách để phân loại công cụ tài chính như: phân loại theo kỳ hạn và
tính chất, phân loại theo chủ thể phát hành, phân loại theo thứ tự trong bảng
cân đối. Nhưng trong đó phân loại theo tính chất và kỳ hạn là phổ biến nhất.
Việc phân loại như sau:
 Công cụ tài chính truyền thống
- Những công cụ trên thị trường tiền tệ: đây là loại công cụ thay thế tiền mặt
ngắn hạn, thời hạn đáo hạn luôn ngắn hoặc ít hoặc không có xảy ra tình trạng
rủi ro không được thanh toán và có tính thanh khoản cao.
Bao gồm: tín phiếu kho bạc, thương phiếu (kỳ phiếu thương mại) và chứng
chỉ tiền gửi.
- Những công cụ trên thị trường vốn: đặc điểm của loại này là thời gian đáo
hạn trên một năm, rủi ro không được thanh toán của nó đôi khi cao hơn và
tính thanh khoản thấp và được coi là những khoản đầu tư khá rủi ro. Nó bao
gồm:
+ Các công cụ nợ là trái phiếu bao gồm trái phiếu tiết kiệm, trái phiếu kho
bạc, trái phiếu đô thị, trái phiếu công ty, trái phiếu có thể chuyển đổi

+ Các công cụ vốn bao gồm cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu phổ thông
+ Ngoài ra còn các công cụ chuyển đổi hay các công cụ phát sinh như các
khoản tín dụng cầm cố, các khoản tín dụng thương mại và chứng chỉ quỹ đầu
tư.
 Công cụ tài chính phái sinh
- Những công cụ tài chính phái sinh: là công cụ mà việc giao dịch và giá trị
của nó phụ thuộc vào giao dịch và giá cả của tài sản cơ sở
Tài sản cơ sở là: hàng hóa, chứng khoán, ngoại tệ, chỉ số chứng khoán
Các công cụ phái sinh là: Hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, hợp đồng
giao sau và hợp đồng quyền chọn.
Công cụ tài chính phái sinh là công cụ được phát hành dựa vào công cụ tài
chính đã có trước dưới hình thức các hợp đồng phái sinh cụ thể. Công cụ phái
7
sinh luôn “ăn theo” và với mục tiêu tránh rủi ro từ công cụ tài chính chính
thức. Giá cả của hợp đồng tài chính phái sinh là hiệu số giữa mức rủi ro dự
tính trong tương lai với rủi ro thực tế qua thời gian dự tính từ khi hợp đồng có
hiệu lực đến khi hợp đồng đáo hạn hoặc có trường hợp giá cả của hợp đồng
đơn giản là chi phí đặt cọc nhưng kỳ vọng sẽ không bị mất trong tương lai.
Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành
trên cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như
phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ
phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu,
trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất….Công cụ tài chính phái sinh xuất
hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó
thường được sử dụng cao nhất là hợp đồng kỳ hạn (forward contracts), hợp
đồng tương lai (future contracts). Những công cụ trên còn có thể kết hợp với
nhau, với những khoản vay hoặc những chứng khoán truyền thống để tạo nên
các công cụ lai tạo.
- Các công cụ tài chính phái sinh
+ Hợp đồng kỳ hạn: là công cụ tài chính lâu đời nhất. Là loại hợp đồng giữa

hai bên (người mua và người bán) để mua hoặc bán tài sản vào một ngày
trong tương lai. Nếu vào ngày đáo hạn, giá thực tế cao hơn giá thỏa thuận thì
người sở hữu sẽ kiếm được lợi nhuận, nếu ngược lại thì người sở hữu hợp
đồng sẽ chịu một khoản lỗ.
Bản thân hợp đồng kỳ hạn mang trong mình 3 loại rủi ro.
Thứ 1: nếu giá thực tế vào ngày đáo hạn hợp đồng cao hơn giá mong đợi, rủi
ro vốn có của công ty sẽ làm giảm giá trị công ty nhưng sự sụt giảm này sẽ
được đền bù bằng lợi nhuận của hợp đồng kỳ hạn. Vì vậy, hợp đồng kỳ hạn
cung cấp một cách phòng ngừa rủi ro hoàn hảo.
Thứ 2, Rủi ro tín dụng hay rủi ro không có khả năng chi trả của hợp đồng. Rủi
ro này có hai chiều, người sở hữu hợp đồng hoặc là người nhận được hoặc là
người chi trả, phụ thuộc vào biến động giá cả thực tế của tài sản cơ sở.
8
Thứ 3, Giá trị của hợp đồng kỳ hạn chỉ được giao nhận vào ngày nào đáo hạn
của hợp đồng, không có khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết
hoặc trong thời hạn của hợp đồng. Vậy nên, bản thân những hợp đồng kỳ hạn
có chứa nhiều rủi ro nhất trong các công cụ phái sinh.
+ Hợp đồng giao sau: là một hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán,
để mua bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày
hôm nay. Hợp đồng giao sau tiến triển từ hợp đồng kỳ hạn nên có những điểm
giống với hợp đồng kỳ hạn. Về bản chất, chúng giống tính thanh khoản của
hợp đồng kỳ hạn. Tuy vậy, khác với hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau
được giao dịch trên thị trường có tổ chức, được gọi là sàn giao dịch giao sau.
Người mua hợp đồng giao sau là người có nghĩa vụ mua hàng vào một ngày
trong tương lai, có thể mua lại hợp đồng giao sau trên thị trường giao sau.
Điều này làm cho họ thoát khỏi nghĩa vụ mua hàng. Và tương tự đối với
người bán hợp đồng giao sau, là người có nghĩa vụ bán hàng vào một ngày
trong tương lai, có thể mua lại hợp đồng trên thị trường giao sau, và điều này
cũng làm cho họ thoát khỏi nghĩa vụ bán hàng. Đặc trưng này giúp những
người tham gia mua bán công cụ tài chính phái sinh tránh được những thiệt

hại kinh tế đáng kể nếu trong thời hạn hợp đồng giá cả của tài sản cơ sở có sự
biến động không có lợi cho mỗi bên.
Giống như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau cũng có rủi ro hai chiều, rủi
ro tín dụng, tức người sở hữu hợp đồng hoặc là người được nhận hoặc là
người phải chi trả. Nhưng khác biệt rõ nhất với thị trường kỳ hạn là thị trường
giao sau sử dụng hai công cụ để loại bỏ rủi ro này.
Thứ 1, Thay vì giao nhận giá trị hợp đồng vào một ngày thông qua mua bán
đơn thuần vào ngày đáo hạn, thay đổi trong giá trị hợp đồng giao sau được
thực hiện thanh toán vào cuối ngày giao dịch. Điều này có nghĩa hợp đồng
giao sau có tính chất thanh toán tiền mặt hay điều chỉnh theo ngày, tức thời
hạn giao sau được rút ngắn lại. Nhờ thế mà rủi ro trong thanh toán được giảm
đi.
9
Thứ 2, Hợp đồng giao sau yêu cầu tất cả các thành viên tham gia thị trường,
người bán và người mua đều như nhau, phải thực hiện một khoản ký gửi gọi
là ký quỹ. Nếu hợp đồng giao sau của bạn tăng giá trị trong ngày giao dịch,
mức tăng này sẽ được công vào tài khoản ký quỹ của bạn vào cuối ngày.
Ngược lại, nếu hợp đồng của bạn giảm giá trị, thua lỗ sẽ được trừ ra.Và nếu
số dư tài khoản ký quỹ của bạn giảm xuống mức tối thiểu đã thoả thuận trước
đó, bạn sẽ bị yêu cầu nộp một khoản ký gửi bổ sung, tài khoản ký quỹ của bạn
phải được bổ sung như cũ hoặc là vị thế của bạn sẽ bị đóng.
Hợp đồng giao sau rất giống với một danh mục các hợp đồng kỳ hạn.
Tuy nhiên, hợp đồng giao sau và một danh mục các hợp đồng kỳ hạn chỉ
giống nhau khi lãi suất là có thể xác định trước, tức là biết được một cách
chắc chắn. Vào lúc đóng cửa mỗi ngày, các hợp đồng giao sau mang tính kỳ
hạn đang tồn tại sẽ được thanh toán cũng như một hợp đồng mới được ký kết.
Tính chất thanh toán hàng ngày kết hợp với yêu cầu ký quỹ cho phép hợp
đồng giao sau giảm thiểu đáng kể rủi ro tín dụng vốn có của hợp đồng kỳ hạn.
+ Quyền chọn: Là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó
cho người mua quyền nhưng không phải nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài

sản nào đó vào ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay.
Người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn.
Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo điều
khoản của hợp đồng nếu người mua muốn thế. Một quyền chọn để mua tài
sản gọi là quyền chọn mua (call), một quỳên chọn bán một tài sản gọi là
quyền chọn bán (put). Mặc dù các quyền chọn được giao dịch trong một thị
trường có tổ chức nhưng phần lớn các giao dịch quyền chọn được quản lý
riêng rẽ giữa hai bên. Những người này tự tìm đến với nhau, loại thị trường
này gọi là thị trường OTC, đây chính là loại thị trường quyền chọn xuất hiện
đầu tiên. Hầu hết các quyền chọn là mua bán các loại tài sản tài chính chẳng
hạn như cổ phiếu, trái phiếu…, bên cạnh đó cũng có những quyền chọn về
thoả thuận tài chính khác như hạn mức tín dụng, đảm bảo khoản vay, và bảo
10
hiểm cũng là một hình thức khác của quyền chọn. Ngoài ra, bản thân cổ phiếu
cũng là quyền chọn trên tài sản công ty. Quyền chọn cũng có những nét giống
với một hợp đồng kỳ hạn nhưng quyền chọn không bắt buộc phải thực hiện
giao dịch còn người sở hữu hợp đồng kỳ hạn bắt buộc phải thực hiện giao
dịch. Hai bên trong hợp đồng kỳ hạn có nghĩa vụ phải mua và bán hàng hoá,
nhưng người nắm giữ quyền chọn có thể quyết định mua hoặc bán tài sản với
giá cố định nếu giá tri của nó thay đổi.
+Hoán đổi: Là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền,
một giao dịch mà cả hai bên đồng ý thanh toán cho bên còn lại một chuỗi các
dòng tiền trong một khoảng thời gian xác định. Ví dụ, một bên đối tác đang
nhận được một dòng tiền từ một khoản đầu tư, nhưng lại thích một loại đầu
tư khác với dòng tiền mà mình đang thị hưởng. Bên đối tác này sẽ liên lạc với
một dealer hoán đổi, thường là một công ty hoạt động trên OTC, và họ sẽ
thực hiện vị thế đối nghịch trong giao dịch. Tuỳ thuộc vào lãi suất hay giá sau
đó thay đổi như thế nào mà một bên sẽ thu được lợi nhuận hay là bị lỗ. Lãi
của bên này chính là lỗ của bên kia. Có bốn loại hoán đôỉ là hoán đổi tiền tệ,
hoán đổi lãi suất, hoán đổi chứng khoán và hoán đổi hàng hoá. Và cũng giống

như hợp đồng kỳ hạn, các hoán đổi cũng gánh chịu những rủi ro nếu một bên
bị vỡ nợ. Hoán đổi được xem như là kết hợp giữa các hợp đồng kỳ hạn. Nó là
cải tiến tài chính mới nhất nhưng về thực chất không phức tạp hơn một danh
mục các hợp đồng kỳ hạn và rủi ro tín dụng hiện diện trong hoán đổi cũng có
phần thấp hơn so với rủi ro tín dụng của hợp đồng kỳ hạn có cùng kỳ hạn.
2.1.2. Vai trò của công cụ tài chính
Đối với hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính của các doanh nghiệp
Công cụ tài chính có vai trò rất quan trọng trong quá trình kinh doanh
và hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Nó giúp doanh nghiệp tạo cung
hàng hóa cho thị trường, đa dạng hóa công cụ đầu tư nhằm thỏa mãn nhu cầu
11
đầu tư đa dạng của nhà đầu tư. Nó hỗ trợ cho việc thực hiện các quyết định
chủ yếu về tài chính của công ty. Hơn thế nữa nó giúp phần thúc đẩy sự phát
triển hệ thống tài chính và phát triển nên kinh tế.
Đối với thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi mua bán các công cụ tài chính nhờ đó mà
vốn được chuyển giao một cách trực tiếp hay gián tiếp từ các chủ thể dư thừa
vốn đến các chủ thể nhu cầu vốn.
Trong nền kinh tế, nhu cầu về vốn để đầu tư và các nguồn tiết kiệm có
thể phát sinh từ những chủ thể khác nhau. Nhiều người có cơ hội đầu tư sinh
lời thì thiếu vốn, nhiều người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư.
Do đó có một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được
thực hiện trong khuôn khổ thị trường tài chính. Những người thiếu vốn huy
động vốn bằng cách phát hành các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu.
Những người có vốn dư thừa thay vì đầu tư vào máy móc thiết bị nhà xưởng
để sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ sẽ đầu tư vào các tài sản tài chính
được phát hành bởi các công ty huy động vốn.
2.2 Kế toán công cụ tài chính trong các công ty chứng khoán
2.2.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán có ảnh
hưởng đến kế toán công cụ tài chính

Là một chủ thể kinh doanh, công ty chứng khoán cũng có những đặc
điểm tương đồng về tổ chức và hoạt động của các công ty khác nói chung. Vì
vậy ta cần nhấn mạnh đến hoạt động nghiệp vụ và hoạt động tài chính điều
làm nên sự khác biệt giữa công ty chứng khoán và các công ty khác.
Các công ty chứng khoán với hoạt động chuyên môn, kinh nghiệm
nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, thực hiện được vai trò trung gian
môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số
hoạt động khác cho cả người đầu tư và người phát hành. Nhờ các công ty
12
chứng khoán mà các cổ phiếu và trái phiếu lưu thông, buôn bán tấp nập trên
thị trường chứng khoán.
Hoạt động trong công ty chứng khoán bao gồm 2 hoạt động chính là hoạt
động nghiệp vụ và hoạt động tài chính.
2.2.1.1 Hoạt động nghiệp vụ
Bao gồm các hoạt động sau đây:
Một là: Nghiệp vụ Môi giới chứng khoán:
Bản chất nghiệp vụ: môi giới chứng khoán là hoạt động kinh doanh chứng
khoán trong đó một công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành
giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị
trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh
tế của việc giao dịch đó.Thực hiện nghiệp vụ môi giới này, công ty chứng
khoán thu phí môi giới từ khách hàng
Hai là: Nghiệp vụ Quản lý danh mục đầu tư:
Bản chất nghiệp vụ: Đây là một dạng nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng
khoán nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này khách hàng ủy thác
cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến
lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận. Nó là hoạt động
quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua, bán, và nắm giữ các chứng
khoán vì quyền lợi khách hàng theo hợp đồng được ký kết giữa Công ty
chứng khoán và khách hàng. Người ủy thác đầu tư thường không can dự vào

việc đầu tư của công ty chứng khoán và trả một khoản phí cho công ty chứng
khoán theo thỏa thuận.
13
Ba là: Nghiệp vụ Tự doanh chứng khoán:
Bản chất nghiệp vụ: Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán tự
tiến hành các giao dịch mua bán các chứng khoán cho chính mình.Hoạt động
tự doanh của doanh nghiệp có thể thực hiện trên các thị trường giao dịch tập
chung hoặc thị trường OTC. Mục đích của hoạt động tự doanh là thu lợi cho
chính mình.
Thông thường chức năng chính của Công ty chứng khoán là cầu nối
giữa nhà đầu tư với Trung tâm giao dịch chứng khoán, người chơi chứng
khoán sẽ phải đến các Công ty chứng khoán để thực hiện một số thủ tục như
mở tài khoản chứng khoán, lưu ký chứng khoán. Khi đã là thành viên của
Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, sẽ phải mở tài khoản lưu ký của bản thân
công ty tại Trung tâm này và đồng thời mở tài khoản lưu ký cho khách hàng
của mình. Tất nhiên với dịch vụ này, Công ty chứng khoán sẽ thu được một
mức phí nhất định. Song, với nghiệp vụ tự doanh, Công ty chứng khoán sẽ
tham gia mua bán chứng khoán như một tổ chức độc lập bằng chính nguồn
vốn của công ty, chứ không phải bằng tài khoản của khách hàng. Để thực hiện
nghiệp vụ này thành công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích thị trường có
nghiệp vụ giỏi và nhanh nhậy với những biến động của thị trường, Công ty
chứng khoán còn phải có một chế độ phân cấp quản lý và đưa ra những quyết
định đầu tư hợp lý, trong đó việc xây dựng chế độ phân cấp quản lý và ra
quyết định đầu tư là một trong những vấn đề then chốt, quyết định sự sống
còn của Công ty chứng khoán.
Bốn là: Nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành:
Bản chất nghiệp vụ: Quy định các điều khoản nhằm đảm bảo hồ sơ đăng ký
phát hành và bản cáo bạch chứa đựng các thông tin đầy đủ về tình hình tài
chính và kinh doanh của tổ chức phát hành và bảo vệ các tổ chức bảo lãnh
14

trong một số trường hợp cụ thể nếu họ không đáp ứng được các nghĩa vụ bảo
lãnh.
Năm là: Nghiệp vụ Tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán:
Bản chất nghiệp vụ: là hoạt động đưa ra những lời khuyên, phân tích các tình
huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng.
Công ty chứng khoán tiến hành cung cấp cho khách hàng trong lĩnh vực
đầu tư chứng khoán, tái cơ cấu tài chính, chia tách, sáp nhập, hợp nhất doanh
nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp phát hành và niêm yết chứng khoán…Dịch vụ
tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính bao gồm hoạt động quản lí danh mục đầu tư
chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán và tư vấn doanh nghiệp.Trong đó:
+ Hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán:
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng
khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở
bảo toàn vốn và tăng lợi nhuận.
+ Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán, bao gồm:
- Nghiên cứu, phân tích tổng hợp tình hình thị trường, hoạt động của tổ chức
niêm yết và thông tin về các ngành hàng liên quan đến tổ chức niêm yết.
- Tổ chức phân tích có hệ thống theo các tiêu chí chuẩn mức về tình hình thị
trường chứng khoán và dự báo xu hướng biến động giá chứng khoán.
- Tư vấn định giá chứng khoán và lựa chọn thời điểm mua bán.
- Giúp khách hàng xây dựng chiến lược đầu tư hợp lý.
- Tư vấn giúp khách hàng đưa ra quyết định đầu tư tối ưu.
+ Hoạt động tư vấn doanh nghiệp, bao gồm:
- Tư vấn niêm yết chứng khoán.
15
- Tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp.
- Trung gian bán đấu giá cổ phần lần đầu cho doanh nghiệp Nhà nước cổ phần
hoá.
- Tư vấn sau cổ phần hoá.
- Tư vấn chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp.

- Dàn xếp các giao dịch tài chính.
- Tái cấu trúc nợ, cấu trúc tài chính, sáp nhập doanh nghiệp
Sáu là: Các nghiệp vụ hỗ trợ khác:
Nhìn chung, các nghiệp vụ hỗ trợ giao dịch nhằm mục đích tạo thuận lợi cho
nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn.
+ Nghiệp vụ tín dụng là hoạt dộng thông dụng tại các thị trường chứng khoán
phát triển. Còn ở thị trường mới nổi hoạt động này bị hạn chế, chỉ các định
chế tài chính đặc biệt mới được phép cấp vốn vay.
+ Nghiệp vụ tư vấn đầu tư và tư vấn tài chính công ty có thể do bất kỳ công ty
chứng khoán hay cá nhân tham gia thông qua: khuyến cáo, lập báo cáo, tư vấn
trực tiếp, thông qua ấn phẩm về chứng khoán để thu phí
+ Nghiệp vụ quản lý thu nhập chứng khoán (quản lý cổ tức): xuất phát từ
nghiệp vụ quản lý hộ chứng khoán cho khách hàng.
2.2.1.2 Hoạt động tài chính
Hoạt động tài chính của công ty chứng khoán bao gồm việc xác định
kinh doanh cái gì để thu nhiều lợi nhuận, sử dụng các loại tài sản cố định gì,
lấy nguồn tài chính dài hạn nào để chi phí cho các khoản đầu tư của mình.
Hoạt động tài chính có quan hệ mật thiết với hoạt động nghiệp vụ. Số lượng
16
nghiệp vụ và quy mô kinh doanh lớn thế nào thì ứng với nó là mảng tài chính
công ty như vậy.
- Vốn của công ty chứng khoán nhiều hay ít phụ thuộc vào loại tài sản cần tài
trợ. Số vốn cần cố để thực hiện nghiệp vụ chứng khoán được xác định bằng
việc cân đối giữa yêu cầu về vốn pháp định và các nhu cầu vốn kinh doanh
của công ty.
- Cơ cấu vốn: là sự pha trộn của các khoản nợ và vốn cổ đông hoặc vốn góp
của các thành viên mà công ty sử dụng để hoạt động của mình.
- Quản lý vốn và hạn mức kinh doanh: Ngoài việc xác định tỷ lệ nợ như đã
nói trên, các công ty chứng khoán thường phải duy trì một mức vốn khả dụng

để đảm bảo khả năng thanh toán cho người đầu tư. Vốn thanh khoản được
định nghĩa là phần vượt trội của tài sản khả dụng so với các nghĩa vụ nợ cùng
cấp độ- bao gồm các điều chỉnh về tài chính.
2.2.2. Nhiệm vụ và nguyên tắc kế toán công cụ tài chính trong các công ty
chứng khoán
 Đối với công cụ tài chính truyền thống:
Từ việc phân loại các công cụ tài chính theo thông tư 95/2008/TT-BTC
đưa ra nhiệm vụ và nguyên tắc kế toán công cụ tài chính trong công ty chứng
khoán như sau:
*Về nhiệm vụ: Phản ánh một cách trung thực tình hình sử dụng các công cụ
tài chính trong công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện kế toán của các công ty chứng khoán
- Trong quá trình hình thành công cụ tài chính: Kế toán cần tiến hành định giá
công cụ tài chính mới phát sinh. Việc định giá này phụ thuộc vào tình hình
thực tế của Công cụ tài chính đó và xác định giá trị cho phù hợp. Ta cần theo
dõi chi tiết về số lượng, thời hạn đầu tư công cụ tài chính, lợi nhuận ước tính
đối với việc đầu tư công cụ tài chính.
17
- Trong quá trình lưu giữ công cụ tài chính: Cần tiến hành lưu giữ và theo dõi
sự thay đổi về giá của công cụ tài chính từ đó đưa ra các quyết định tiếp tục
đầu tư hay thanh lý công cụ tài chính đó. Trong quá trình lưu giữ công cụ tài
chính thì cũng cần lập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán hoặc định giá
lại công cụ tài chính cho phù hợp với tình hình thực tế của loại công cụ tài
chính đó.
- Khi tiến hành thanh lý công cụ tài chính: Thì ta cần theo dõi về số lượng
thanh lý và giá thanh lý từ đó hạch toán phù hợp đưa vào doanh thu hay chi
phí cho việc đầu tư chứng khoán.
 Đối với Công cụ tài chính phái sinh:
Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên với tư cách là một công
cụ phòng chống rủi ro nhưng cùng với sự lớn mạnh và phức tạp của thị trường

tài chính, các công cụ tài chính phái sinh cũng được sử dụng nhiều hơn để tìm
kiến lợi nhuận và thực hiện các hoạt động đầu cơ. Chính vì những biến thái
như nên không phải lúc nào sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng
ngừa rủi ro cũng có hiệu quả. Các công cụ phái sinh ngày càng tinh vi và
mang theo một số rủi ro gây gián đoạn lớn hơn độ rủi ro thông thường. Sự sụp
đổ của thị trường tài chính cổ phiếu Mỹ năm 1987 chính được đẩy nhanh nhờ
sử dụng rộng rãi kỹ thuật tự bảo hiểm Delta, được mua bán các hợp đồng bảo
hiểm danh mục đầu tư. Những người bảo hiểm này đã đầu tư, mạnh hơn vào
thị trường mà nếu như không có kỹ thuật này thì có thể họ đã không làm như
vậy. Khi sự sụt giảm của thị trường kích hoạt bảo hiểm, khối lượng bán đột
ngột gây ra một gián đoạn và thị trường sụp đổ. Hay như Great Britain’s
Bearing, một trong những ngân hàng lâu đời nhất thế giới đã phá sản năm
1995 khi đầu cơ các hợp đồng tương lai trong một thương vụ ở Singapore.
Tuy vậy, các công cụ tài chính phái sinh vẫn phát triển mạnh mẽ và được sử
dụng rộng rãi tại các thị trường tài chính lớn của thế giới. Nguyên nhân không
nằm ngoài việc đó là phương thức duy nhất để các chủ thể trên thị trường
18
phòng chống rủi ro. Theo điều tra đối với 500 công ty lớn nhất thế giới tai 26
quốc gia khác nhau thì có tới 92 % các công ty trả lời rằng họ thường xuyên
sử dụng công cụ tài chính phái sinh để phòng ngừa và quản lí rủi ro
Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái
sinh, những công cụ mang tính hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác
định trên một hoặc một số công cụ tài sản khác. Chúng ta xem các công cụ
phái sinh như là các hợp đồng, và giống như tất cả hợp đồng, chúng được thoả
thuận giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó mỗi bên sẽ thực hiện
nghĩa vụ gì đó cho bên kia. Các hợp đồng này có giá cả và người mua sẽ cố
gắng mua với giả rẻ và người bán cố gắng bán với giá cao nhất. Các loại công
cụ phái sinh khác nhau bao gồm: Hợp đồng kỳ hạn, Hợp đồng giao sau, quyền
chọn, hoán đổi và chứng khoán lai tạp.
- Yêu cầu đối với kế toán công cụ tài chính:

+Thu thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng và nội dung công
việc kế toán, theo chuẩn mực và chế độ kế toán.
+ Kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa vụ thu, nộp, thanh
toán nợ, kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản,
phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạp pháp luật về tài chisnhm kế toán
+ Phân tích thông tin, số liệu kế toán. Tham mưu, đề xuất các giải pháp phục
vụ yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán.
+ Cung cấp thông tin, số liệu kế toán theo quy định của pháp luật.
*Về nguyên tắc kế toán công cụ tài chính trong các công ty chứng khoán:
đảm bảo các nguyên tắc phù hợp, thận trọng và nguyên tắc nhất quán.
- Nguyên tắc giá gốc: Giá trị tài sản được tính theo giá gốc/ giá trị hợp lý bao
gồm chi phí mua, vận chuyển và các chi phí trực tiếp khác liên quan đến khi
đưa tài sản vào trạng thái sãn sàng sử dụng. Đơn vị kế toán không được tự
19
điều chỉnh lại giá trị tài sản đã ghi sổ kế toán trừ trường hợp có quy định khác
về công cụ tài chính.
- Nguyên tắc nhất quán: Các quy định và phương pháp kế toán đã chọn phải
được áp dụng nhất quán trong kỳ kế toán năm
- Nguyên tắc thận trọng: Đơn vị kế toán phải sử dụng phương pháp đánh giá
tài sản và phân bổ các khoản thu, chi một cách thận trọng, không được làm sai
lệch kết quả hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị
2.2.3. Định giá các công cụ tài chính
Mục đích của nhà đầu tư là xác định giá trị kinh tế hay giá trị thực của một
tài sản được xác định tương đương với giá trị hiện tại của những luồng tiền
trong tương lai dự tính thu được từ tài sản đó. Do vậy có nhiều cách để định
giá công cụ tài chính.
 Định giá các công cụ tài chính truyền thống
Đó là những luồng tiền tương lai này được chiết khấu trở lại hiện tại
bằng việc sử dụng tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư. Quan điểm này đúng
cho việc định giá tất cả những tài sản và nó là cơ sở cho việc xác định giá

chứng khoán. Theo cách này, giá trị bị tác động bởi ba nhân tố:
- Độ lớn và thời điểm của những luồng tiền dự tính trong tương lai của tài sản.
Với trái phiếu, độ lớn và thời điểm của luồng thu nhập phụ thuộc vào mệnh
giá, lãi suất danh nghĩa, phương thức trả gốc lãi, kỳ hạn
- Mức độ rủi ro của luồng tiền hay độ không chắc chắn của luồng thu nhập
- Tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư đối với việc thực hiện đầu tư. Tỷ lệ lợi
tức này phụ thuộc vào mức độ rủi ro, vào ý muốn chủ quan của nhà đầu tư.
Có thể nói, hai nhân tố đầu thuộc về đặc điểm của tài sản, nhân tố thứ ba là
tỷ lệ lợi tức tối thiểu càn thiết để thu hút nhà đầu tư mua hoặc giữ một chứng
khoán. Tỷ lệ này phải đủ cao để bù đắp cho nhà đầu tư vì rủi ro chứa đựng
20
trong những luồng tiền tương lai của tài sản vì vậy đây là tỷ lệ lợi tức cân
bằng với rủi ro.
- Việc xác định giá trị hiện tại của khoản thanh toán trong tương lai được
thực hiện theo phương pháp chiết khấu dòng tiền bằng cách quy đổi giá trị
danh nghĩa của khoản thanh toán trong tương lai theo lãi suất thực tế tại thời
điểm hiện tại.
- Khi sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền, doanh nghiệp phải xác định
các yếu tố sau:
+ Giá trị danh nghĩa của khoản thanh toán trong tương lai: Là giá trị bằng tiền
của khoản thanh toán trong tương lai. Trường hợp khoản thanh toán trong
tương lai là ngoại tệ thì trước khi chiết khấu về giá trị hiện tại, doanh nghiệp
phải quy đổi giá trị danh nghĩa của khoản thanh toán trong tương lai bằng
ngoại tệ về đồng tiền kế toán theo tỷ giá giao dịch thực tế hoặc tỷ giá bình
quân liên ngân hàng tại thời điểm báo cáo.
+ Lãi suất thực tế dùng để chiết khấu dòng tiền (lãi suất chiết khấu)
+ Thời gian chiết khấu dòng tiền: Là khoảng thời gian còn lại kể từ thời điểm
ghi nhận tài sản hoặc nợ phải trả đến thời điểm đáo hạn hợp đồng.
+ Kỳ chiết khấu dòng tiền: Là khoảng thời gian được tính theo kỳ hạn lãi suất
thực tế (tháng, quý, năm) dùng để chiết khấu. Số lượng kỳ chiết khấu dòng

tiền được xác định bằng cách lấy thời gian chiết khấu dòng tiền chia (:) kỳ
chiết khấu dòng tiền. Ví dụ, nếu lãi suất thanh toán theo kỳ hạn 1 năm/lần,
hợp đồng có thời hạn 5 năm thì số lượng kỳ chiết khấu dòng tiền là 5
+ Việc chiết khấu dòng tiền để xác định giá trị hiện tại của khoản thanh toán
trong tương lai được thực hiện theo công thức: [7]
Trong đó:
- Ct: Là giá trị hiện tại của khoản thanh toán trong tương lai;
- C: Là giá trị danh nghĩa của khoản thanh toán trong tương lai;
21
- i: Là lãi suất thực tế dùng để chiết khấu dòng tiền;
- t: Là số lượng kỳ chiết khấu
Ví dụ: Ngày 31/12/N, Công ty A mua Trái phiếu Chính phủ trị giá 1.000 triệu
VNĐ với những đặc thù sau:
- Mệnh giá: 1.000 triệu đồng
- Kỳ hạn: 5 năm
- Lãi suất danh nghĩa: 8%
- Kỳ trả lãi: lãi trả sau hàng năm (31/12 hàng năm)
Tại ngày mua, lãi suất thị trường cho công cụ tương đương có cùng đặc
thù là 10%/năm.
Ngày
Giá trị danh nghĩa
dòng tiền thu được
Yếu tố chiết
khấu
Giá trị hiện tại
31/12/N
1.000.000.000 x 8%
= 80.000.000
1/(1+10%)^1 =
0,909090909

72.727.272,73
31/12/N+1 80.000.000
1/(1+10%)^2 =
0,826446281
66.115.702,48
31/12/N+2 80.000.000
1/(1+10%)^3 =
0,751314801
60.105.184,07
31/12/N+3 80.000.000
1/(1+10%)^4 =
0,683013455
54.641.076,43
31/12/N+4 1.080.000.000
1/(1+10%)^5 =
0,620921323
670.595.028,90
Giá trị hợp lý 924.184.264,61
Biểu 2.1 Định giá công cụ tài chính theo phương pháp chiết khấu dòng
tiền
 Định giá các công cụ tài chính phái sinh
- Trường hợp công cụ tài chính phái sinh được phân loại là tài sản
+ Giá trị hợp lý công cụ tài chính phái sinh được xác định dựa trên giá niêm
yết trên thị trường.
22
+ Trường hợp không có giá niêm yết trên thị trường, doanh nghiệp phải tự
xác định giá trị hợp lý bằng các kỹ thuật định giá để xác định giá trị của tài
sản phái sinh vào ngày xác định giá trị trong một giao dịch trao đổi ngang giá.
- Các kỹ thuật định giá có thể bao gồm:
+ Sử dụng giá của các giao dịch ngang giá trên thị trường giữa các bên có đầy

đủ hiểu biết và mong muốn thực hiện giao dịch bình đẳng;
+ Tham chiếu giá trị hợp lý của một loại công cụ phái sinh tương tự;
+ Phân tích dòng tiền chiết khấu;
+ Sử dụng mô hình định giá quyền chọn.
- Nếu trên thị trường có một phương pháp định giá phổ biến và đã có các
bằng chứng cho thấy rằng phương pháp đưa ra các ước tính sát với giá trị giao
dịch thực tế thì doanh nghiệp được phép áp dụng phương pháp đó. Phương
pháp định giá được chọn phải tận dụng hết các thông tin thị trường và không
phụ thuộc nhiều vào các thông tin của một tổ chức cá biệt. Phương pháp định
giá phải kết hợp tất cả các yếu tố mà các bên tham gia thị trường có thể xem
xét khi xác định giá công cụ tài chính phái sinh và phải phù hợp với các
phương pháp kinh tế luận được thừa nhận trong việc định giá tài sản tài chính.
Theo định kỳ, doanh nghiệp phải xem xét lại và kiểm tra sự phù hợp của
phương pháp định giá bằng cách sử dụng giá thu thập được từ các giao dịch
thực tế trên thị trường đối với loại công cụ tương tự hoặc dựa trên các số liệu
có thể quan sát được trên thị trường.
- Trường hợp công cụ tài chính phái sinh được phân loại là nợ phải trả:
Giá trị hợp lý của công cụ tài chính phái sinh được phân loại là nợ phải trả
không nhỏ hơn giá trị phải trả theo cam kết trong hợp đồng, tính từ ngày đầu
tiên có thể phải phải trả tiền.
23
2.2.4. Nội dung kế toán công cụ tài chính trong các công ty chứng khoán
2.2.4.1. Chứng từ và thủ tục pháp lý
Chứng từ kế toán áp dụng cho công ty chứng khoán phải thực hiện theo đúng
nội dung, phương pháp lập, ký chứng từ theo quy định của Luật kế toán và
nghị định số 129/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004 của chính phủ và các văn bản
khác có liên quan đến chứng từ kế toán và các quy định trong chế độ này.
Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến hoạt động của đơn vị
đều phải lập chứng từ kế toán. Chứng từ kế toán chỉ lập một lần cho một
nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Nội dung chứng từ kế toán phải đầy đủ

các chỉ tiêu, phải rõ ràng, trung thực với nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài chính
phát sinh. Chữ viết trên chứng từ phải rõ ràng, không tẩy xóa, không viết tắt.
Số tiền bằng chữ phải khớp đúng với số tiền bằng số.
Trong kế toán công cụ tài chính thì những chứng từ sau được sử dụng:
- Chứng từ sử dụng trong công cụ tài chính truyền thống
+ Phiếu nhập kho (khi mua chứng khoán), phiếu xuất kho (Khi bán chứng
khoán)
+ Bảng kê chứng khoán gửi lưu ký trong ngày
+ Bảng kê chứng khoán lưu ký rút ra trong ngày
+ Phiếu thu, phiếu chi
- Chứng từ sử dụng trong công cụ tài chính phái sinh: Bao gồm những
chứng từ sử dụng trong công cụ tài chính truyền thống và một số chứng từ
sau: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi, quyền chọn, hợp đồng giao sau.
2.2.4.2. Tài khoản sử dụng
Hệ thống tài khoản kế toán áp dụng đối với công ty chứng khoán thực hiện
theo qui định tại Quyết định 15/2006/QĐ-BTC và các sửa đổi, bổ sung.
Các công ty chứng khoán căn cứ vào hệ thống tài khoản Kế toán quy định
trong chế độ kế toán công ty chứng khoán, tiến hành nghiên cứu, vận dụng và
24
chi tiết hóa hệ thống tài khoản kế toán phù hợp với đặc điểm kinh doanh, yêu
cầu quản lý của từng công ty nhưng phải phù hợp với nội dung, kết cấu và
phương pháp hạch toán của các tài khoản tổng hợp tương ứng.
Hệ thống tài khoản của công ty chứng khoán bao gồm các tài khoản cấp 1 và
tài khoản cấp 2, tài khoản trong bảng cân đối kế toán và tài khoản ngoài bảng
cân đối kế toán. Trường hợp công ty cần bổ sung tài khoản cấp 1, cấp 2 hoặc
sửa đổi tài khoản cấp 1, cấp 2 về tên, ký hiệu, nội dung và phương pháp hạch
toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đặc thù thì phải được sự chấp thuận bằng
văn bản của Bộ Tài chính trước khi thực hiện.
Các công ty có thể mở thêm các tải khoản cấp 2, cấp 3 đối với những tài
khoản không có quy định tài khoản cấp 2 và cấp 3 tại danh mục hệ thống tài

khoản kế toán công ty chứng khoán đã quy định trong thông tư số
95/2008/TT-BTC ngày 24/10/2010 nhằm phục vụ yêu cầu quản lý của Công
ty Chứng khoán thì không phải dề nghị Bộ Tài chính chấp thuận.
Các tài khoản sử dụng theo quy định trong các công ty Chứng khoán
- Tài khoản 121- Chứng khoán thương mại được mở chi tiết
TK1211 Cổ phiếu
TK1212 Trái phiếu
TK1213 Chứng chỉ quỹ
TK1218 Chứng khoán khác
- TK224- Đầu tư chứng khoán dài hạn
Được mở chi tiết như sau:
TK2241: Chứng khoán sẵn sàng để bán
TK2242: Chứng khoán nắm giữ đến ngày đáo hạn
-TK343: Trái phiếu phát hành
TK3431: Mệnh giá trái phiếu
TK3432: Chiết khấu trái phiếu
TK3433: Phụ trội trái phiếu
-Tài khoản 511 - “Doanh thu”
25

×