Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Dịch vụ khách sạn trong hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.67 KB, 93 trang )







LUẬN VĂN:
Dịch vụ khách sạn trong hoạt động của
NHNo&PTNT Việt Nam








MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan đang thu
hút sự quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới; Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn
là một xu thế lớn phản ánh nguyện vọng và đòi hỏi của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Trong bối cảnh đó, nhu cầu giao lưu, hợp tác kinh tế, đặc biệt là du lịch tăng mạnh,
du lịch thế giới phát triển nhanh với xu thế chuyển dần sang khu vực Đông Nam Á -
Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Đây thực sự là một cơ hội tốt
tạo đà cho du lịch Việt Nam phát triển.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Việt Nam
là một Ngân hàng thuơng mại hàng đầu ở Việt Nam, với uy tín sẵn có, thị trường
rộng khắp, định hướng kinh doanh đa năng phát triển theo xu huớng thành tập đoàn
Tài chính-Ngân hàng mạnh. Vì vậy, không thể không khai thác cơ hội kinh doanh


do chính sách đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước, trong đó có sự
phát triển của du lịch Việt Nam mang lại.
Với một hệ thống các khách sạn, nhà nghỉ của NHNo&PTNT Việt Nam được
hình thành từ Bắc vào Nam, được xây dựng ở các nơi trọng điểm du lịch của cả
nước như: Quảng Ninh, Sa pa, Hải Phòng, Sầm Sơn, Huế, Đà Nẵng, Hội An, Đà
Lạt, Nha Trang, Bình Thuận… Nhưng do chưa có một mô hình tổ chức quản lý
thống nhất, một cơ chế kinh doanh phù hợp và tính chuyên nghiệp, kỹ năng trong
kinh doanh du lịch - khách sạn nên hoạt động còn nhiều hạn chế, kém hiệu quả
trong quản lý, khai thác các cơ sở khách sạn và kinh doanh du lịch.
Vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng những kiến thức đã tiếp thu được qua quá
trình học tập để xây dựng một đề án mới với mô hình tổ chức quản lý và những giải
pháp thiết thực phù hợp nhằm quản lý, khai thác có hiệu quả các cơ sở khách sạn,
nhà nghỉ của NHNo&PTNT Việt Nam hiện có, góp phần thực hiện chiến lược phát
triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010 là vấn đề mang tính cấp bách.


Với ý nghĩa đó, bản thân chọn vấn đề: “Dịch vụ khách sạn trong hoạt động
của NHNo&PTNT Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Nghiên cứu về mô hình quản lý kinh doanh chuyên ngành du lịch theo hướng
xây dựng Công ty hạch toán độc lập - hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Đây là mô hình tổ chức còn khá mới mẻ với NHNo&PTNT Việt Nam, có
nhiều vấn đề đặt ra cần đi sâu làm sáng tỏ trong tổ chức quản lý kinh doanh du lịch -
khách sạn hiện nay.
- Là vấn đề nghiên cứu riêng độc lập mang tính đặc thù của NHNo&PTNT
Việt Nam, góp phần bổ sung lý luận cho mô hình tổ chức quản lý - kinh doanh du
lịch - khách sạn thuộc NHNo&PTNT Việt Nam nên chưa có công trình nào nghiên
cứu về đề tài này.


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng tình hình hoạt động các khách sạn, nhà nghỉ
của NHNo&PTNT Việt Nam, từ đó đưa ra mô hình tổ chức quản lý mới nhằm khai
thác kinh doanh có hiệu quả các cơ sở du lịch, khách sạn trong xu hướng hội nhập
kinh tế quốc tế nói chung và kinh doanh khách sạn nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ
chính như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và quan điểm về kinh doanh dịch vụ khách
sạn.
- Phân tích tình hình kinh doanh du lịch nói chung, trong đó chủ yếu kinh
doanh khách sạn là lĩnh vực phù hợp với khả năng, điều kiện của NHNo&PTNT
Việt Nam.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp, xây dựng mô hình tổ chức quản lý mới
nhằm khai thác các cơ sở khách sạn đạt hiệu quả cao.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng


Luận văn tập trung nghiên cứu về tính khả thi, hiệu quả của kinh doanh dịch
vụ khách sạn trong mô hình Công ty chuyên ngành du lịch của NHNo &PTNT Việt
Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do các sản phẩm du lịch rất phong phú và đa dạng, vì vậy luận văn chỉ đi vào
hướng sản phẩm chính phù hợp với điều kiện của NHNo&PTNT Việt Nam và có khả
năng sinh lợi cao là dịch vụ lưu trú trong du lịch từ năm 2000 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa vào các chính sách, đường lối của Đảng, Nhà nước về
phát triển du lịch ở Việt Nam; các công trình nghiên cứu có liên quan đến nội dung
mà luận văn đề cập; chủ trương của NHNo&PTNT Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp
thống kê và phân tích tài chính. Sử dụng các phương pháp này, luận văn sẽ phân tích
các tài liệu đã có về tài nguyên, tiềm năng, thực trạng hoạt động du lịch trong thời
gian qua. Về thu nhập thông tin dữ liệu thứ cấp có độ tin cậy cao được coi là nguồn
thông tin chính.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Từ kết quả của việc nghiên cứu, luận văn đánh giá thực trạng tình hình hoạt
động kinh doanh của các cơ sở khách sạn, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế. Sự cần thiết phải tổ chức, quản lý theo mô hình mới: Công ty độc lập
chuyên ngành du lịch thuộc NHNo&PTNT Việt Nam nhằm phát triển bền vững,
đảm bảo cạnh tranh có hiệu quả trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, luận văn cũng góp phần nhất định làm sáng tỏ thêm cơ sở lý
luận để NHNo&PTNT Việt Nam có những quyết định đúng đắn về cơ chế, chính
sách phù hợp với điều kiện phát triển chung của nền kinh tế và du lịch nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm có 3 chương, 8 tiết.





Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH DOANH KHÁCH SẠN


1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH DOANH KHÁCH SẠN
1.1.1. Khái niệm kinh doanh khách sạn
Trong nghiên cứu bản chất của kinh doanh khách sạn, việc hiểu rõ nội dung
của khái niệm: kinh doanh khách sạn là cần thiết và quan trọng. Hiểu rõ nội dung
của kinh doanh khách sạn một mặt sẽ tạo ra cơ sở để tổ chức kinh doanh khách sạn
đúng hướng, mặt khác kết hợp yếu tố cơ sở vật chất-kỹ thuật với con người một
cách hợp lý nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng (khách du
lịch).
Nền kinh tế ngày càng phát triển, xu huớng hội nhập quốc tế ngày càng mở
rộng, đời sống vật chất ngày càng được cải thiện tốt hơn thì con người càng có điều
kiện chăm lo đến đời sống tinh thần, số người đi du lịch, giao thương ngày càng
tăng nhanh, khả năng tài chính của khách du lịch cao đã làm tăng tính đa dạng trong
hoạt động của kinh doanh khách sạn.
Ngoài hai hoạt động chính là hoạt động cung cấp các dịch vụ phục vụ nhu cầu
nghỉ ngơi và ăn uống cho du khách. Các dịch vụ bổ sung như: phục vụ các cuộc hội
họp, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ vận chuyển, ngân hàng, bưu chính viễn
thông, các dịch vụ giải trí thể thao…nhu cầu, quy mô và thị trường cũng ngày càng
tăng nhanh.
Trên phương diện chung nhất, có thể đưa ra định nghĩa về kinh doanh khách
sạn như sau: kinh doanh khách sạn là hoạt động kinh doanh trên cơ sở cung cấp các
dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung cho khách du lịch nhằm đáp ứng
các nhu cầu ăn, nghỉ và giải trí của khách tại các điểm du lịch nhằm mục đích có
lãi.
Trong khái niệm kinh doanh khách sạn ta thấy hoạt động kinh doanh khách
sạn có những phần dịch vụ sau:



1.1.1.1. Kinh doanh lưu trú
Là mảng hoạt động chính yếu nhất của bất kỳ khách sạn nào từ những khách
sạn có quy mô nhỏ, thứ hạng thấp đến những khách sạn có quy mô lớn, thứ hạng
cao. Hoạt động kinh doanh lưu trú được xem như một trục chính để toàn bộ các hoạt
động kinh doanh khác của khách sạn xoay xung quanh nó. Vai trò then chốt của
hoạt động kinh doanh lưu trú trong khách sạn xuất phát từ 3 lý do chính: lý do kinh
tế; vai trò quan trọng trong việc tham gia phục vụ trực tiếp khách và cung cấp dự
báo quan trọng cho khách sạn.
Hoạt động kinh doanh lưu trú đóng vai trò trụ cột là hoạt động chính của một
khách sạn, vì doanh thu từ hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh
thu của khách sạn (khoảng 60-70%).
Không có bộ phận nào trong khách sạn lại có quan hệ giao tiếp trực tiếp với
khách hàng nhiều như ở bộ phận kinh doanh lưu trú như: nhân viên bộ phận lễ tân
tiền sảnh, nhân viên đón tiếp, nhân viên bảo vệ, nhân viên vận chuyển hành lý, cũng
như toàn bộ nhân viên của khu vực phục vụ buồng đều đóng vai trò là nhân viên
phục vụ, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng trong thời gian khách lưu trú ở khách sạn.
Chính chất lượng của dịch vụ lưu trú và đặc biệt là tinh thần, thái độ phục vụ khách
cùng với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và khả năng giao tiếp, ứng xử của nhân
viên trong khu vực dịch vụ này là những nhân tố có tác động quyết định tới sự cảm
nhận về chất lượng dịch vụ chung của cả khách sạn, là bộ phận tạo ra những ấn
tượng đầu tiên và những ấn tượng cuối cùng quan trọng nhất đối với khách khi đến
ở khách sạn.
Trong khách sạn, tổng của tất cả các bộ phận thường phải chuẩn bị xây dựng
kế hoạch về công việc và lên lịch phân công bố trí nhân viên, cũng như có kế hoạch
khai thác, sử dụng các vật tư, hàng hóa và cơ sở vật, chất kỹ thuật một cách tối ưu
cho bộ phận mình quản lý trước khoảng ít nhất 2 tuần. Vì vậy những thông tin dự
báo về tình hình kinh doanh sắp đến của doanh nghiệp khách sạn là những số liệu sơ
cấp về số lượng buồng phòng đã được khách đăng ký trước, số lượng buồng dự kiến

sẽ có khách thuê, số lượng khách sẽ lưu trú tại khách sạn…Tất cả đều được phản
ánh và dự tính một cách khoa học trong bảng dự báo về tình hình sử dụng buồng do


bộ phận đặt buồng của khách sạn xây dựng. Từ dữ kiện trong bảng dự báo này sẽ là
cơ sở quan trọng giúp các bộ phận khác còn lại trong khách sạn xác định được khối
lượng công việc sắp tới.
Ngoài ra, đây là khu vực dịch vụ có tỷ trọng lao động sống cao nhất trong
khách sạn, chiếm khoảng trên 50% tổng số nhân lực của cả khách sạn.
Với những lý do trên có thể khẳng định hoạt động kinh doanh lưu trú đóng
vai trò quan trọng và quyết định tới sự tồn tại và phát triển của một khách sạn. Điều
đó đã lý giải tại sao các nhà quản lý khách sạn thường coi hoạt động kinh doanh lưu
trú là chìa khóa trong công việc, tạo ra bầu không khí tích cực với khách hàng, tác
động tới sự cảm nhận của khách và chất lượng dịch vụ chung của toàn khách sạn.
1.1.1.2. Kinh doanh ăn uống
Kinh doanh ăn uống là một mảng hoạt động không thể thiếu của các cơ sở
kinh doanh khách sạn (KDKS) hiện đại. Trong thời đại ngày nay, nhu cầu ăn uống ở
bên ngoài (ngoài ngôi nhà của mình) của con người đã ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong đời sống của họ. Nhà hàng, khách sạn chính là nơi nhiều người muốn
tìm đến để thỏa mãn nhu cầu đó. Ăn uống trong du lịch đòi hỏi phải có cơ sở vật
chất, kỹ thuật chế biến đặc biệt với mức độ trang thiết bị cao, tuyệt đối đảm bảo vệ
sinh, an toàn thực phẩm và đội ngũ nhân viên phục vụ cũng đòi hỏi có trình độ tay
nghề cao, thái độ phục vụ tốt để đảm bảo sự hài lòng, thỏa mãn đối với sự đa dạng,
nhu cầu của các loại khách đến ăn, nghỉ tại khách sạn.
Hoạt động kinh doanh ăn uống trong khách sạn là nhằm thỏa mãn nhu cầu ăn
uống tại thời điểm du lịch của khách du lịch và của số đông là khách địa phương. Vì
thế việc tổ chức hoạt động này trong các khách sạn đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao
cả về công tác quản lý lẫn công tác tổ chức thực hiện trong tất cả các khâu của quá
trình hoạt động. Đặc điểm kinh doanh ăn uống trong du lịch ngoài thức ăn, đồ uống,
cần có các điều kiện để giúp khách thưởng thức, giải trí tại nhà hàng ngày càng

được quan tâm, mở rộng mà thực chất đây là dịch vụ phục vụ nhu cầu bổ sung và
giải trí cho khách tại các nhà hàng. Và ở khách sạn nào tổ chức tốt việc kinh doanh
ăn uống thì không những làm tăng doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp, mà còn
tăng thu nhập, cải thiện đời sống người lao động.


1.1.1.3. Kinh doanh dịch vụ bổ sung
Kinh doanh dịch vụ bổ sung là các dịch vụ khác, ngoài 2 loại dịch vụ trên
nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng phong phú trong thời gian khách lưu tại khách
sạn. Ngày nay, các dịch vụ bổ sung ngày càng nhiều về số lượng, đa dạng về hình
thức và thường phù hợp với vị trí, thứ hạng, loại kiểu, qui mô và thị trường khách
hàng, mục tiêu của từng cơ sở kinh doanh khách sạn như: Dịch vụ ngân hàng, dịch
vụ bưu chính - viễn thông, Internet, dịch vụ vận chuyển, dịch vụ thư ký, dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp, bán hàng lưu niệm, dịch vụ thể thao giải trí…Các hoạt
động dịch vụ bổ sung này sẽ góp phần tăng lợi nhuận do suất chi phí đầu tư thấp
nhưng lợi nhuận cao và làm tăng giá trị thương hiệu hình ảnh của khách sạn.
1.1.2. Đặc điểm của kinh doanh khách sạn
1.1.2.1. Kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch có ảnh hưởng đến sự thành công, phát triển trong việc
kinh doanh của khách sạn, bởi lẽ tài nguyên du lịch là yếu tố thúc đẩy, thôi thúc con
người đi du lịch. Mặt khác, khả năng tiếp nhận của tài nguyên du lịch ở mỗi vùng,
mỗi điểm du lịch sẽ quyết định đến qui mô của khách sạn trong vùng, giá trị và sức
hấp dẫn của tài nguyên du lịch có tác dụng quyết định thứ hạng của khách sạn. Vì
vậy, khi đầu tư vào kinh doanh khách sạn đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ các thông số
của tài nguyên du lịch cũng như những nhóm khách hàng mục tiêu và khách hàng
tiềm năng bị hấp dẫn tới điểm du lịch mà xác định các chỉ số kỹ thuật của một công
trình khách sạn khi đầu tư xây dựng và thiết kế sao cho phù hợp giữa quy hoạch
kiến trúc với cảnh quan, môi trường trong vùng trung tâm du lịch. Hiện nay, Việt
Nam đã xây dựng hình thành phát triển các vùng trung tâm, điểm du lịch có lợi thế
tài nguyên du lịch thiên nhiên, di sản văn hóa như: Con đường di sản Miền Trung

gồm: Quảng Bình, Huế, Hội An, Mỹ Sơn; di sản thiên nhiên: Vịnh Hạ Long; Khu
du lịch sinh thái đảo biển: Nha Trang, Mũi Né (Bình Thuận), Hải Phòng, Vũng Tàu,
Phú Quốc, Hà Tiên, Cần Giờ, Sapa, Đà Lạt. Những trọng điểm du lịch này đã thu
hút nhiều nhà đầu tư xây dựng những khách sạn với qui mô lớn, từ 3-5 sao với
những kiến trúc đa dạng và hiện đại, thẩm mỹ như: khu du lịch Tuần Châu (Quảng
Ninh), khu du lịch Hòn Tre (Khánh Hòa), nhiều khách sạn cao cấp 4-5 sao ở Hội An


- Huế - Vũng Tàu- Đà Lạt-Quảng Ninh - Hải Phòng đã góp phần cho phát triển
ngành du lịch và làm tăng giá trị các tài nguyên du lịch nơi đó.
1.1.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật của khách sạn đòi hỏi chất lượng và tính
thẩm mỹ cao
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển kinh tế và đời
sống của con người ngày càng được nâng cao thì hoạt động du lịch, trong đó có hoạt
động kinh doanh khách sạn cũng không ngừng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu
nhằm đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Do đó, đòi hỏi
các thành phần của cơ sở vật chất, kỹ thuật của khách sạn phải có chất lượng cao
đáp ứng được những tiêu chuẩn được quy định nghiêm ngặt bởi đặc trưng của lĩnh
vực kinh doanh du lịch. Với đặc trưng đó, hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật khách
sạn phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
- Mức độ tiện nghi: do mục đích của các chuyến hành trình du lịch thường là
để tìm kiếm những ấn tượng, cảm giác mà khách mong muốn, nó khác với điều kiện
cuộc sống thường ngày. Do vậy, khách du lịch luôn muốn được sinh hoạt trong điều
kiện thoải mái với những tiện nghi hiện đại và thân thiện. Để đáp ứng được yêu cầu
đó, cơ sở vật chất, kỹ thuật khách sạn trước hết phải được trang bị đầy đủ về mặt
lượng, đồng thời đảm bảo về mặt chất, theo đó quá trình hiện đại hóa cũng phải liên
tục được thực hiện, có như vậy mới tạo ra được sự tiện lợi trong sử dụng của du
khách. Mặt khác, cảm nhận của du khách còn phụ thuộc rất lớn vào yếu tố phục vụ
của con người. Bởi vì, du khách đến khách sạn không chỉ để ngủ một vài đêm,mà họ
còn muốn được đón tiếp niềm nỡ, phục vụ tận tình,chu đáo, tìm sự thư giãn trong

một gian phòng sạch sẽ, ấm cúng, bài trí đẹp, nói chung họ muốn tận hưởng thời
gian nghỉ ngơi ở khách sạn một cách thoải mái.
- Mức độ thẩm mỹ: mức độ thẩm mỹ trước hết thể hiện ở khâu thiết kế, hình
thức bên ngoài, cách bố trí sắp đặt và màu sắc. Thiết kế rất quan trọng, vì nó sẽ tạo
một hình ảnh về khu, điểm du lịch in đậm trong du khách. Vì thế khi đầu tư hệ
thống cơ sở vật chất, kỹ thuật khách sạn phải quan tâm đến thiết kế đảm bảo hình
dáng bên ngoài cũng như thiết kế tiện nghi vừa hài hòa, hợp lý về màu sắc hình thể,
vừa đảm bảo tiện dụng, nhìn chung đều phải tuân thủ các vấn đề sau:


+ Về hình thức bên ngoài: Phải đẹp, lịch sự phù hợp với nội dung bên trong.
Kết hợp được giữa tính dân tộc và hiện đại. Điều này thể hiện tính đa dạng, phong
phú của khách sạn ở mỗi vùng, miền.
+ Về bố trí bên trong: Phải đảm bảo thuận tiện cho cả người phục vụ trong
quá trình phục vụ và ngươì tiêu dùng trong quá trình tiêu dùng.
+ Về màu sắc: Phải hài hòa giữa các gam màu, phải xác định gam màu chỉ
đạo.
Những yêu cầu trên phải dựa vào điều kiện cụ thể về khí hậu, thời tiết, cảnh
quan xung quanh và thị hiếu của khách hàng. Hiện nay, nhiều khu du lịch được xây
dựng theo phong cách mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc nhưng đồng thời đảm bảo
tính tiện nghi hiện đại. Tính độc đáo mới lạ về kiến trúc, bố trí quy hoạch và đặc điểm
về cơ sở vật chất, kỹ thuật khách sạn cũng có tác động mạnh và ảnh hưởng tích cực đến
hoạt động kinh doanh của khách sạn.
Vệ sinh an toàn trong khách sạn là một yêu cầu bắt buộc, nó luôn được xác
định ở mức độ cao nhất. Ở trên thế giới cũng như ở nước ta, các yêu cầu về cơ sở
vật chất, kỹ thuật khách sạn được quy định rõ ràng, cụ thể trong các văn bản của nhà
nước thông qua việc xếp hạng từng cơ sở khách sạn. Theo điều 65 Luật Du lịch quy
định: “trong thời hạn 3 tháng kể từ khi bắt đầu hoạt động kinh doanh, chủ cơ sở lưu
trú du lịch phải gửi hồ sơ đăng ký hạng cơ sở lưu trú du lịch đến cơ quan nhà nước
về du lịch có thẩm quyền để tổ chức thẩm định, xếp hạng cho cơ sở lưu trú du lịch”

[11].
- Tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn ở Việt Nam theo Quyết định số
02/2001/QĐ-TCDL ngày 27/04/2001của Tổng cục Du lịch Việt Nam: được xây
dựng trên cơ sở tiêu chuẩn tối thiểu xếp hạng khách sạn tại phân vùng châu Á – Thái
Bình Dương ( PATA)- Pacific Asia Tourist Assosiation, của tổ chức du lịch thế giới
(WTO: World Tourist Orgnatration) kết hợp tham khảo nhiều quy định thể lệ, tiêu
chuẩn khách sạn của một số nước có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với Việt Nam.
Tiêu chuẩn này được sử dụng làm cơ sở để quản lý, xây dựng và kinh doanh
khách sạn du lịch trong cả nước.


Về xếp hạng, khách sạn du lịch được xếp theo 5 hạng: từ 1 sao đến 5 sao phải
đảm bảo yêu cầu tối thiểu về cơ sở vật chất, trang thiết bị, chất lượng phục vụ, đáp
ứng được nhu cầu đa dạng của khách du lịch về ăn, nghỉ, sinh hoạt, giải trí theo tiêu
chuẩn của từng hạng, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, được đánh giá thông qua các
chỉ tiêu.
1. Vị trí, kiến trúc
2. Trang thiết bị, tiện nghi phục vụ
3. Dịch vụ và mức độ phục vụ
4. Nhân viên phục vụ
5. Vệ sinh.
Khách sạn hạng càng cao yêu cầu chất lượng phục vụ trang thiết bị, tiện nghi,
số lượng các dịch vụ càng đầy đủ, hoàn hảo, đáp ứng được yêu cầu đa dạng của
khách.
Sự cần thiết và ý nghĩa quan trọng của tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn:
+ Được dùng làm cơ sở để xây dựng các tiêu chuẩn định mức cụ thể khác
như: tiêu chuẩn xây dựng thiết kế khách sạn, tiêu chuẩn trang thiết bị, tiện nghi
trong từng bộ phận của khách sạn, tiêu chuẩn cán bộ, công nhân viên phục vụ trong
khách sạn, tiêu chuẩn vệ sinh…
+ Thông qua tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn để chủ đầu tư xét duyệt luận

chứng kinh tế - kỹ thuật, cấp vốn đầu tư cho việc xây dựng khách sạn mới, cải tạo
hoặc nâng cấp các khách sạn hiện có.
+ Thông qua tiêu chuẩn này khách hàng của khách sạn có thể biết khả năng,
mức độ phục vụ của từng hạng khách sạn, giúp khách lựa chọn nơi ăn nghỉ theo thị
hiếu và khả năng thanh toán của mình, bản thân quyền lợi cho khách làm cơ sở để
quản lý và kiểm tra thường xuyên các khách sạn đảm bảo thực hiện các điều kiện,
yêu cầu. Theo Luật Du lịch Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1.1.2006 (Quy định Điều
64:a) đối với khách sạn, làng du lịch phải bảo đảm yêu cầu tối thiểu về xây dựng,
trang thiết bị, dịch vụ, trình độ chuyên môn, ngoại ngữ của người quản lý và nhân
viên theo tiêu chuẩn xếp hạng tương ứng đối với mỗi loại, hạng.


1.1.2.3. Lao động trong khách sạn có tính chuyên nghiệp cao và số lượng lớn
Sản phẩm khách sạn chủ yếu mang tính chất phục vụ và sự phục vụ này
không thể cơ giới hóa được, mà chỉ được thực hiện bởi những nhân viên phục vụ
trong khách sạn, do đó có thể khẳng định rằng, sự thành công và phát triển trong
kinh doanh khách sạn phụ thuộc rất lớn vào yếu tố con người.
Đối tượng phục vụ của lao động du lịch là con người – Con người ở đây
không chỉ trong phạm vi một vùng, một nước, mà còn là khách du lịch quốc tế.
Mỗi khách du lịch lại có nhu cầu khác nhau, trình độ khác nhau, sự hiểu biết khác
nhau, độ tuổi, sức khỏe khác nhau và ở các nền văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng khác
nhau đến du lịch tại nước sở tại. Nếu các doanh nghiệp khách sạn sử dụng lao
động giản đơn nhiều mà thiếu lực lượng lao động được đào tạo, thì chắc chắn chất
lượng phục vụ khách sẽ không đảm bảo, khách du lịch khó có thể thỏa mãn nhu
cầu chính đáng của mình. Để đáp ứng đòi hỏi này các doanh nghiệp khách sạn phải
có chiến lược xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp hợp lý trong từng
lĩnh vực, bộ phận cho kinh doanh khách sạn như nghiệp vụ lễ tân, nghiệp vụ nhà
hàng, nghề bàn, bếp trưởng, hướng dẫn viên du lịch, quản lý, điều hành khách sạn,
pha chế rượu, thức uống,…
Kinh doanh khách sạn sử dụng rất nhiều lao động thuộc các nghề khác nhau,

mỗi lao động trong đó đòi hỏi phải có quy trình công nghệ phục vụ khác nhau, trình
độ chuyên nghiệp và tỷ mỷ, nhiều nghề đòi hỏi lao động phải đạt tới nghệ thuật
phục vụ. Vì vậy, muốn có được những kỹ năng nghề nghiệp đòi hỏi người lao động
phải được đào tạo có hệ thống, có bài bản và được cập nhật kiến thức thường xuyên
và liên tục.
Mặt khác, lao động trong khách sạn có tính chuyên môn hóa khá cao. Thời
gian lao động lại phục thuộc vào thời gian tiêu dùng của khách, thường kéo dài
24/24 giờ mỗi ngày. Do vậy, cần phải sử dụng một số lượng lớn lao động làm việc
theo ca phục vụ trực tiếp trong khách sạn. Với đặc điểm này, các nhà quản lý khách
sạn luôn phải đối mặt với những khó khăn về chi phí lao động trực tiếp tương đối
cao. Trong điều kiện kinh doanh theo mùa vụ, số lượng lao động trực tiếp ngày càng
đòi hỏi lớn. Vì vậy, việc tuyển mộ, lựa chọn và sắp xếp, bố trí nguồn nhân lực trong


khách sạn một cách hợp lý, tiết kiệm mà không làm ảnh hưởng xấu tới chất lượng
dịch vụ khách sạn là công việc phải hết sức quan tâm, phải quản lý thật khoa học,
chặt chẽ nhằm đạt hiệu quả cao trong tổ chức lao động ở doanh nghiệp khách sạn.
1.1.2.4. Kinh doanh khách sạn phụ thuộc vào tình hình kinh tế - chính trị
của quốc gia và thế giới
Tình hình chính trị ổn định là tiền đề cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
của một đất nước. Một quốc gia mặc dù có nhiều tài nguyên về du lịch nhưng không
thể phát triển được kinh tế du lịch nếu như ở đó luôn xảy ra những sự kiện chính trị bất
ổn làm xấu đi môi trường hòa bình, trật tự trị an….Nếu một vùng có chiến tranh hoặc
hay xảy ra các cuộc xung đột, nhân dân ở các vùng của nước đó khó có điều kiện ra
nước ngoài du lịch và ngược lại khách du lịch trên thế giới cũng khó có điều kiện đến
các vùng của nước đó để du lịch như vùng Trung Cận Đông: Iran, Irắc, Palestin,
Apganistan…vùng Bắc Phi: Xu đăng, Etiopia sự phát triển của du lịch sẽ bị hạn chế.
Không khí chính trị, hòa bình, ổn định trên thế giới: đó là điều kiện đảm bảo
cho việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế - chính trị - văn hóa, khoa học - kỹ
thuật…giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các mối quan hệ đó, sự giao lưu về du

lịch giữa các nước trong khu vực, trên toàn cầu không ngừng phát triển.
Khả năng và xu hướng phát triển du lịch của một đất nước phụ thuộc ở mức
độ lớn vào tình hình và xu hướng phát triển kinh tế ở nước đó, mới có đủ khả năng
nguồn lực để xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật du lịch và cùng với sự phát
triển các ngành khác của cả nền kinh tế quốc dân tham gia vào việc khai thác tiềm
năng du lịch như: phương tiện vận chuyển nhất là hàng không, hệ thống cầu đường,
bưu chính viễn thông, điện, nước được huy động hỗ trợ vào hoạt động du lịch.
Mặt khác, mức sống về vật chất và trình độ dân trí cao có tác động ảnh hưởng
mạnh đến phát triển kinh doanh du lịch – khách sạn.
Thu nhập của nhân dân là một chỉ tiêu quan trọng và là điều kiện vật chất để
họ có thể tham gia đi du lịch, đó là điều kiện cần thiết để thực hiện nhu cầu đi du
lịch nói chung thành nhu cầu có khả năng thanh toán, và khi đi du lịch, ngoài các
khoản tiền chi dùng cho các nhu cầu giống như các nhu cầu thường ngày, họ còn
phải trả thêm các khoản khác như tiền tàu xe, tiền thuê khách sạn, thăm quan… Và
xu hướng tiêu dùng của con người khi đi du lịch là chi phí rộng rãi hơn, nhất là cho


việc mua sắm các quà lưu niệm, chụp ảnh, ăn những món ăn đặc sản… Theo xu
hướng chung mỗi khi thu nhập của nhân dân tăng lên thì sự tiêu dùng du lịch cũng
tăng theo, thu nhập của nhân dân luôn phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế,
và thu nhập quốc dân của đất nước đó. Vì nguyên nhân đó, những nước có nền kinh
tế phát triển, đời sống nhân dân có mức sống cao thì có khả năng phát triển du lịch
trong nước và mặt khác có thể đi du lịch ra nước ngoài như: Mỹ, Canada,
Pháp,Thụy Sĩ, Anh, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore cũng là những nước có
vị trí quan trọng trong phát triển du lịch thế giới.
Khi trình độ văn hóa chung của một dân tộc cao thì động cơ đi du lịch của
nhân dân ở đó tăng lên rõ rệt, lòng hiểu biết và mong muốn làm quen với các nước
trên thế giới cũng tăng và trong nhân dân, thói quen đi du lịch sẽ hình thành ngày
càng rõ rệt. Mặt khác, trình độ văn hóa chung của một đất nước cao thì đất nước đó
khi phát triển du lịch sẽ dễ đảm bảo phục vụ khách du lịch một cách văn minh và

làm hài lòng khách đi du lịch đến đó.
Ngoài những yếu tố chính trị, kinh tế nói trên, việc đảm bảo an ninh, an toàn
trong kinh doanh du lịch-khách sạn là rất quan trọng. Du khách sẽ an tâm, hài lòng
khi ăn ngủ ở những khách sạn mà điều kiện an ninh, trật tự được bảo đảm tốt.
1.2. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ VAI TRÒ CỦA DU LỊCH VÀ DỊCH VỤ
KHÁCH SẠN
1.2.1. Xu hướng phát triển
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta và các nước trên thế giới ngày càng phát
triển, khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão, xu hướng hội nhập, quốc
tế hóa đời sống kinh tế - xã hội ngày càng tăng thì nhu cầu du lịch ngày càng cao
càng đa dạng và phong phú. Từ đầu thế kỷ XX đến nay là thời kỳ mới mở ra bước
ngoặt phát triển thuận lợi cho hoạt động dịch vụ kinh doanh khách sạn của các quốc
gia trên thế giới.
Những xu hướng cơ bản trong sự phát triển kinh doanh khách sạn:
- Xu hướng đa dạng hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật dịch vụ khách sạn.
Xu hướng phát triển này xuất phát từ sự phát triển đa dạng, phong phú của
nhu cầu khách du lịch thuộc nhiều quốc gia khác nhau, độ tuổi và giới tính khác


nhau nên họ có đặc điểm tâm lý, sở thích khác nhau, khả năng thanh toán khác
nhau… do vậy dịch vụ khách sạn cung cấp cho họ là không giống nhau. Chính vì
vậy, cơ sở vật chất, kỹ thuật, tiện nghi, sản phẩm dịch vụ phải đa dạng, phong phú.
- Xu hướng hiện đại cơ sở vật chất kỹ thuật dịch vụ khách sạn.
Xu hướng phát triển này xuất phát từ nhu cầu du lịch của con người ngày
càng đòi hỏi chất lượng dịch vụ cao hơn, tiện nghi hơn, mặt khác ngày càng có
nhiều doanh nghiệp khách sạn áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật và công
nghệ để cải tạo, hoàn thiện và hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật để tăng khả
năng cạnh trên thị trường, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Một số công đoạn trong quy
trình công nghệ phục vụ của khách sạn được tự động hóa như: đưa công nghệ
tin học vào việc quản lý, quảng bá tiếp thị, đăng ký buồng, phòng. Do đó, đã

góp phần tăng năng suất lao động, tiết kiệm nhân lực, tăng tốc độ phục vụ, nâng
cao được chất lượng dịch vụ và hiệu quả của công tác quản lý các hoạt động
kinh doanh của khách sạn.
Xu hướng hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật dịch vụ khách sạn là một xu
hướng tất yếu, khách quan phù hợp với sự phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế
quốc tế, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của du khách.
- Xu hướng xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật khách sạn kết hợp giữa hiện đại
và truyền thống.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của du lịch thì chất lượng dịch vụ
khách sạn đòi hỏi phải đáp ứng nhu cầu của du khách không chỉ trong nước mà cả
nhu cầu của du khách quốc tế. Điều này đòi hỏi yếu tố cơ sở vật chất, kỹ thuật du
lịch phải đạt trình độ tiêu chuẩn quốc tế. Mặt khác, nhu cầu của du khách trong quá
trình du lịch là cảm nhận các nền văn hóa khác nhau ở các vùng khác nhau, các
quốc gia khác nhau. Chính vì vậy, yếu tố truyền thống, yếu tố văn hóa dân tộc trong
việc cung cấp sản phẩm du lịch và xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật khách sạn là
cực kỳ quan trọng, chính sự kết hợp này làm cho sản phẩm du lịch đa dạng hơn, hấp
dẫn hơn, thu hút khách du lịch đến nhiều hơn như: khu du lịch Nha Trang, con
đường di sản Miền Trung, con đường xanh Tây Nguyên, Sa Pa Xu hướng phát


triển cơ sở vật chất, kỹ thuật du lịch không chỉ nâng cao hiệu quả kinh doanh du
lịch, mà còn góp phần tích cực vào việc giữ gìn nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản
sắc dân tộc.
- Xu hướng tăng số lượng các khách sạn có thứ hạng cao: khách sạn có thứ
hạng thấp có chiều hướng giảm, trong khi đó số lượng các khách sạn từ 2- 3 sao trở
lên tăng mạnh, chủ yếu hướng vào phục vụ khách du lịch nghỉ dưỡng, thư giãn,
tham quan với các sản phẩm dịch vụ đa dạng, phong phú, đồng thời thỏa mãn nhu
cầu du khách khi mà mức sống của con người ngày càng được nâng cao.
Mặt khác, sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước có truyền thống kinh doanh

các dịch vụ khách sạn lâu đời với các nước mới phát triển hoạt động kinh doanh loại
hình khách sạn này. Vì vậy, các doanh nghiệp khách sạn ở các nước mới phát triển
phải không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ cung cấp cho khách, đa dạng,
phong phú các sản phẩm dịch vụ cung cấp trong khách sạn, thực hiện chuyên môn
hóa cao trong tổ chức hoạt động kinh doanh khách sạn… Làm sao giảm được chi
phí hợp lý, tăng chất lượng dịch vụ và hiệu quả kinh doanh, từ đó nâng cao khả năng
cạnh tranh của khách sạn trên thị trường khi mà các tập đoàn kinh doanh khách sạn
lớn trên thế giới đã vào Việt Nam kinh doanh: Accor, Hilton, Sheraton, Melia….
Đồng thời tăng cường xu hướng liên kết ngang. Các khách sạn lớn hoặc các
khách sạn thuộc các tập đoàn khách sạn lớn trên thế giới bao giờ cũng có nhiều ưu
thế hơn trong việc tạo ra các điều kiện thuận lợi phục vụ du khách, cùng với sản
phẩm dịch vụ chất lượng cao, trong việc quảng cáo rộng rãi, thu hút khách trên
phạm vi toàn cầu cũng như công tác tổ chức quản lý chuyên nghiệp với bề dày kinh
nghiệm và năng lực đầu tư mạnh. Để có thể cạnh tranh hiệu quả, các khách sạn
trong nước phải liên kết trong việc trao đổi, cung ứng sản phẩm dịch vụ, quảng cáo
cũng như trong việc tổ chức các kênh với nhau trên thị trường, xây dựng thương
hiệu để tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.


1.2.2. Vai trò của du lịch và dịch vụ khách sạn
1.2.2.1. Đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân góp phần giải quyết việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động
Kinh doanh khách sạn là một trong những họat động chính của ngành du lịch
và thực hiện những nhiệm vụ quan trọng của ngành. Mối liên hệ giữa kinh doanh
khách sạn và ngành du lịch của một quốc gia không phải là quan hệ một chiều mà
ngược lại kinh doanh khách sạn cũng tác động đến sự phát triển của ngành du lịch
và đến đời sống kinh tế, xã hội nói chung của một quốc gia.
Thông qua kinh doanh lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ sung khác của các
khách sạn một phần trong quỹ tiêu dùng của người dân được sử dụng vào việc tiêu
dùng các dịch vụ hàng hóa của các doanh nghiệp khách sạn tại các điểm du lịch. Kết

quả dẫn đến sự phân phối lại quỹ tiêu dùng cá nhân giữa các vùng trong nước. Hay
nói cách khác du lịch tác động tích cực vào việc làm cân đối cấu trúc của thu nhập
và chỉ tiêu của nhân dân theo các vùng.
Các khách sạn là bạn hàng lớn của nhiều ngành khác trong nền kinh tế, vì
hàng ngày các khách sạn tiêu thụ một khối lượng lớn các sản phẩm của nhiều ngành
như: nông nghiệp (lương thực, chế biến thực phẩm), bưu chính viễn thông, ngân
hàng và đặc biệt ngành thủ công mỹ nghệ sản xuất đồ lưu niệm….Vì vậy, phát triển
ngành kinh doanh khách sạn cũng đồng thời khuyến khích các ngành khác phát triển
theo. Trong đó bao gồm cả việc khuyến khích phát triển kết cấu hạ tầng cho các
điểm khách sạn vùng du lịch, tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc
dân, làm tăng tổng sản phẩm xã hội.
Du lịch là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao.
Tính hiệu quả trong kinh doanh du lịch khách sạn thể hiện trước nhất ở chỗ
du lịch khách sạn là một ngành “xuất khẩu tại chỗ” những hàng hóa công nghiệp,
hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, nông lâm sản…được mua bán thông qua con
đường du lịch, các hàng hóa được xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào thuế quan
mậu dịch quốc tế.
Du lịch không chỉ là ngành “ xuất khẩu tại chỗ “ mà còn là ngành “xuất khẩu
vô hình” hàng hóa dịch vụ. Đó là các cảnh quan thiên nhiên, khí hậu và ánh nắng


mặt trời vùng nhiệt đới, những giá trị của những di tích văn hóa - lịch sử, tính độc
đáo trong truyền thống, phong tục, tập quán …mà không bị mất đi qua mỗi lần bán,
thậm chí giá trị và uy tín của nó còn tăng lên nếu như chất lượng phục vụ du lịch
khách sạn cao.
Với hình thức xuất khẩu trên cho thấy, hàng hóa dịch vụ bán thông qua du
lịch khách sạn đem lại lợi nhuận kinh tế cao hơn, do tiết kiệm được đáng kể các chi
phí đóng gói bao bì, bảo quản và thuế xuất nhập khẩu, thu hồi vốn nhanh và lợi
nhuận cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp có khả năng thanh toán.
Du lịch và khách sạn phát triển góp phần tăng cường thu hút vốn đầu tư trong

và ngoài nước. Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thế giới hiện nay là giá trị dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã
hội. Do vậy, các nhà kinh doanh đi tìm hiệu quả của đồng vốn, thì kinh doanh khách
sạn là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác, nên từ khi
có chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta đến nay đã thu hút được một lượng
vốn đầu tư lớn trong và ngoài nước vào ngành này.
Kinh doanh khách sạn luôn đòi hỏi dung lượng lao động trực tiếp tương đối
cao cho nên phát triển kinh doanh khách sạn sẽ góp phần giải quyết một khối lượng
lớn công ăn việc làm cho người lao động. Một phòng khách sạn từ hai đến ba sao
trên thế giới hiện nay thu hút bình quân khoảng 1,3 lao động trong các dịch vụ chính
và khoảng 5 lao động trong các dịch vụ lao động bổ sung, số lao động cần thiết
trong dịch vụ bổ sung có thể tăng lên nhiều lần nếu các dịch vụ này được nâng cao
về chất lượng và phong phú về chủng loại. Theo dự báo của tổ chức du lịch quốc tế
(WTO), đến năm 2010 ngành du lịch sẽ tạo thêm khoảng 150 triệu việc làm, chủ
yếu tập trung ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Mặt khác, do tác động dây chuyền về sự phát triển giữa kinh doanh khách sạn
và các ngành khác (là bạn hàng của khách sạn) như đã nói ở trên, khi kinh doanh
khách sạn phát triển còn tạo ra sự phát triển về việc làm gián tiếp trong các ngành có
liên quan. Điều này còn làm cho kinh doanh khách sạn có ý nghĩa kinh tế to lớn đối
với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn phát triển kinh tế ở Thái Lan,
Malaysia, Singapore, Trung Quốc….đã chọn du lịch là một hướng mở cửa nền kinh


tế. Chính vì vậy, du lịch có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội
của các quốc gia.Ngành công nghiệp không khói này đã góp phần vào tăng trưởng
nền kinh tế quốc dân giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động.
1.2.2.2. Khai thác tiềm năng, thế mạnh du lịch của từng vùng, từng địa phương
Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn của Việt Nam phong phú, đa dạng về
cảnh quan và cấu trúc địa hình: biển và hải đảo, đồng bằng, đồi núi, cao nguyên của
Việt Nam và các hệ sinh thái có giá trị cho phát triển nhiều loại hình du lịch, đặc

biệt là các hệ sinh thái biển đảo, hệ sinh thái sông hồ, hệ sinh thái rừng, hang động,
các di sản văn hóa thế giới đuợc UNESCO công nhận như: Vịnh Hạ Long, động
Phong Nha, Huế, Hội An, Mỹ Sơn các di sản văn hóa thế giới phi vật thể như: múa
cung đình ở Huế, không gian kồng chiêng ở Tây Nguyên.
Tài nguyên du lịch nhân văn của Việt Nam phong phú với lịch sử ngàn năm
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta nhất là địa danh lịch sử qua hai cuộc kháng
chiến giữ nước: Điện Biên Phủ, địa đạo Củ Chi, thành cổ Quảng Trị… đã được
nhiều du khách quốc tế quan tâm.
Ngoài các di tích, lịch sử văn hóa, cách mạng, nhiều nghề thủ công truyền
thống với kỹ xảo độc đáo, nhiều lễ hội gắn liền với các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ
dân gian đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam cùng với những nét riêng,
tinh tế của nghệ thuật ẩm thực được hòa quyện, đan xen đã tạo điều kiện cho du lịch
Việt Nam có nhiều điều kiện khai thác, phát triển các tiềm năng du lịch của mình.
Nhìn chung, tài nguyên du lịch Việt Nam vừa phân bố đều trong toàn quốc,
vừa tập trung thành từng cụm gồm các đô thị lớn, các trục giao thông quan trọng
thuận tiện cho việc tổ chức khai thác, hình thành các tuyến du lịch bổ sung cho nhau
giữa các vùng, có giá trị cho sự phát triển du lịch và khách sạn có sức hấp dẫn khách
du lịch cao như: Hà Nội, Sapa, Hải Phòng, Quảng Ninh, Phong Nha, Quảng Trị,
Huế, Đà Nẵng, Hội An, Tây Nguyên, Nha Trang, Phan Thiết, Bà Rịa-Vũng Tàu,
Phú Quốc, thành phố Hồ Chí Minh…
Do vậy, việc khai thác các thế mạnh tiềm năng những tài nguyên du lịch này
của các địa phương có ý nghĩa to lớn trong việc góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế, xã
hội ở những vùng, địa phương đó. Khi du lịch khách sạn phát triển tác động tích cực


vào quá trình tạo nên thu nhập cho nhân dân ở địa phương vùng đó như: tiêu thụ
hàng hóa, lượng thực, thực phẩm, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ thành hàng hóa
lưu niệm… phát triển kết cấu hạ tầng tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế
và cơ cấu kinh tế cho địa phương. Chính nhờ phát triển du lịch – khách sạn mà bộ
mặt kinh tế - xã hội của nhiều vùng thêm khởi sắc, đặc biệt biến những nơi, những

vùng nghèo khó, hoang vắng thành những điểm du lịch nổi tiếng, hấp dẫn đối với
khách du lịch trong và ngoài nước.
1.2.2.3. Mở rộng giao lưu với các vùng trong nước, các nước trong khu vực
và quốc tế
Kinh doanh du lịch khách sạn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự gặp gỡ, giao
lưu của mọi người từ khắp mọi nơi, từ các quốc gia, các châu lục trên thế giới tới
Việt Nam. Điều đó làm tăng sự hiểu biết lẫn nhau vì mục đích hòa bình, hữu
nghị…góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước: Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới.
Các khách sạn lớn, hiện đại là nơi tiến hành các cuộc họp, các hội nghị cấp cao hoặc
các hội nghị theo các chuyên đề, các đại hội, các cuộc gặp gỡ công vụ về kinh tế,
chính trị, văn hóa Là nơi chứng kiến những sự kiện: chính trị, kinh tế quan trọng
trong nước và trên thế giới. Tại các khách sạn cũng thường được tổ chức nhiều hoạt
động văn hóa… Như vậy kinh doanh khách sạn đóng góp tích cực cho sự phát triển,
giao lưu giữa các quốc gia và các dân tộc trên thế giới trên nhiều phương diện khác
nhau. Làm tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau về phong tục, tập quán, truyền thống văn
hóa tín ngưỡng…Cũng như củng cố, tăng thêm tình đoàn kết hữu nghị, mối quan hệ
hiểu biết của nhân dân giữa các vùng và các quốc gia với nhau.
Là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu hiệu cho các sản phẩm hàng hóa
nội địa, các tiềm năng, thế mạnh cần phát triển kinh tế cho địa phương, cho nước
chủ nhà thông qua các du khách; nhiều khi chính bằng con đường này địa phương,
đất nước đó có điều kiện tiếp cận, phát triển nhiều mặt về kinh tế, xã hội tốt hơn. Do
đó, xét về phương diện du lịch đúng với nghĩa của từ này thì du lịch không những
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của con người mà còn mở rộng giao lưu với
các vùng trong nước, trong khu vực và trên thế giới. Thông qua những chuyến đi du


lịch mà con người càng hiểu biết nhau hơn, thân thiện nhau hơn, cùng nhau xây
dựng lòng tin và giữ gìn môi trường bền vững.
1.3. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT

TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH VÀ CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP - PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ
NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHÁCH SẠN, NHÀ NGHỈ
1.3.1. Coi phát triển kinh tế du lịch là một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn của nền kinh quốc dân
Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra
định hướng: “Phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự
nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước
và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch các khu vực.
Xây dựng và nâng cấp các cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm,
đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước” [3, tr.178]. Đến Đại hội đại biểu lần thứ X
của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định sự phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp
ứng yêu cầu và phù hợp với tiềm năng rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển
chung của thế giới, tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát
triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn
tốc độ tăng GDP, phấn đấu đạt 7,7- 8,2 %/ năm.
Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao.
Tiếp tục mở rộng và nâng cao các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương
mại, du lịch… khuyến khích đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động du lịch, đa dạng hóa sản phẩm và các loại hình du lịch [4, tr.201- 202].
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng nhằm phát triển nhanh và bền vững làm
cho du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, Chính phủ và Tổng cục
Du lịch Việt Nam đã xây dựng chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn
2001- 2010 với mục tiêu tổng quát: "là đẩy mạnh xúc tiến du lịch, tập trung đầu tư
có chọn lọc một số khu, tuyến, điểm du lịch trọng điểm có ý nghĩa quốc gia và quốc
tế, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật du lịch hiện đại và phát triển nhanh nguồn nhân
lực, tạo sản phẩm du lịch đa dạng, chất lượng cao, giàu bản sắc dân tộc, có sức cạnh



tranh. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu
vực, phấn đấu sau 2010 đưa du lịch Việt Nam vào những nước có ngành du lịch
phát triển hàng đầu trong khu vực" [1].
Trên cơ sở chiến lược đó, ngành du lịch Việt Nam đã xây dựng những chương
trình và đã thực hiện trong thời gian qua như sau:
+ Ưu tiên đầu tư đối với các địa bàn trọng điểm là Hà Nội và vùng phụ cận
Hải Phòng, Quảng Ninh, Huế- Đà Nẵng- Quảng Nam (con đường di sản văn hóa thế
giới) Văn Phong- Nha Trang, Ninh Chữ, Đà Lạt, Mũi Né, Vũng Tàu- Côn Đảo.
Thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ cận Rạch Giá- Phú Quốc với một số dự án cụ
thể cho 4 khu du lịch tổng hợp và 16 khu du lịch chuyên đề. Chỉnh trang, nâng cấp
các đô thị du lịch: Hạ Long- Huế, Nha Trang, Vũng Tàu, Sapa, Sầm Sơn, Hội An,
Phan Thiết…
+ Công tác phối hợp liên ngành đạt được một số kết quả khả quan, tạo điều
kiện cho du lịch phát triển. Việt Nam hiện có quy chế miễn thị thực cho công dân
các nước: Nhật Bản, Hàn Quốc cùng một số nước Bắc Âu. Việc cấp thị thực cho du
khách được đa dạng hóa như cấp trực tiếp tại Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài,
cấp tại cửa khẩu quốc tế cho khách vào không quá 15 ngày. Đây là một trong những
yếu tố góp phần quan trọng cho quá trình tăng truởng du khách đến nước ta thời
gian qua.
+ Ngành du lịch chú trọng xây dựng nhiều tuyến du lịch đường bộ, đường
sông, đường biển nối các điểm du lịch, khu du lịch ở các vùng, miền nhằm khai thác
thế mạnh, tiềm năng mang tính liên vùng, liên ngành và hình thành các loại hình du
lịch mới như: lặn biển, thám hiểm hang động, du lịch xuyên Việt bằng xe đạp, môtô,
ôtô, du lịch văn hóa, sinh thái kết hợp thể thao…Ngành du lịch còn cùng các Bộ,
ngành chủ quản tiến hành khảo sát tuyến du lịch đường bộ tại các tỉnh miền Trung
và tuyến, điểm du lịch của các nước bạn: Lào, Thái Lan, Campuchia… đây là cơ sở
thuận lợi để phát triển du lịch đường bộ giữa Việt Nam và các nước láng giềng.
Trong những năm gần đây, nước ta là điểm đến lôi cuốn du khách đường biển với
các chuyến tàu du lịch biển chở theo hàng nghìn du khách liên tục cập cảng Hạ
Long, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh và Phú Quốc. Cùng

với việc khuyến khích, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, trực tiếp xây dựng các


chương trình du lịch mới, ngành du lịch và các địa phuơng còn tổ chức thành công
nhiều sự kiện du lịch hằng năm như các chương trình: Năm du lịch Hạ Long, Điện
Biên Phủ, Nghệ An và năm 2006 là năm du lịch Quảng Nam “Một điểm đến 2 di
sản thế giới” cùng các lễ hội, liên hoan ở khắp các miền đất nước. Các sự kiện,
chương trình này góp phần định hướng đầu tư phát triển sản phẩm và loại hình du
lịch, quảng bá hình ảnh Việt Nam với thế giới, thúc đẩy du lịch phát triển theo
hướng đa dạng, chất lượng và hiệu quả.
+ Xây dựng hệ thống các trường đào tạo nghề du lịch, trường đại học du lịch
và tăng cường đội ngũ cán bộ nghiên cứu giảng dạy… nhằm xây dựng đội ngũ cán
bộ, nhân viên du lịch có trình độ và kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu phát triển
của ngành trong tiến trình hội nhập du lịch khu vực và quốc tế. Phát triển khoa học,
công nghệ du lịch Việt Nam đạt trình độ khu vực, góp phần nâng cao hiệu lực quản
lý và hiệu quả kinh doanh du lịch.
Tăng cường chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế, nâng cao hình ảnh, vị thế
của du lịch Việt Nam ở khu vực và thế giới. Đa dạng hóa, đa phương hóa, hợp tác
phát triển du lịch với các nước, các cá nhân và các tổ chức quốc tế nhằm tranh thủ
nguồn lực bên ngoài, tăng nguồn khách, vốn đầu tư và kinh nghiệm quản lý, phát
triển cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa đảm bảo đạt hiệu quả cao về kinh tế, chính
trị và xã hội, lấy phát triển du lịch quốc tế là hướng chiến lược.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Du lịch các nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC) lần thứ 14 tại thị xã Hội An Quảng Nam, phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm
đã khẳng định quyết tâm Việt Nam và ngành du lịch Việt Nam đã và đang tích cực
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, Chính phủ Việt Nam luôn coi du lịch là ngành
kinh tế mũi nhọn và cam kết tiếp tục hợp tác tích cực với các thành viên APEC
trong sự nghiệp phát triển du lịch.
1.3.2. Nâng cao hiệu quả kinh doanh dịch vụ khách sạn nhằm sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn đầu tư của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn Việt Nam
NHNo&PTNT Việt Nam được thành lập theo Nghị định số: 53/HĐBT ngày
26 tháng 03 năm 1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) được tổ


chức hoạt động theo mô hình Tổng công ty, là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt
và là một trong số các ngân hàng thương mại hàng đầu của Việt Nam.
Tính đến thời điểm 31 tháng 12 năm 2005, NHNo&PTNT Việt Nam có lực
lượng cán bộ, công nhân, viên chức, lao động là: 29.412 người, đông nhất so với các
ngân hàng thương mại. Cơ sở khách hàng lớn nhất: 1.850 doanh nghiệp nhà nước,
11.881 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hàng ngàn hợp tác xã, hàng chục triệu
khách hàng cá nhân, hộ gia đình; có 1.968 chi nhánh phủ kín trên các địa bàn các
quận, huyện, thị, tỉnh thành trên cả nước.
NHNo&PTNT Việt Nam có vốn điều lệ: 6.410 tỷ đồng. Tổng nguồn vốn:
190.000 tỷ, tổng dư nợ cho vay và đầu tư vốn: 180.000 tỷ đồng, có quan hệ đại lý
với 892 Ngân hàng nước ngoài, tổ chức tài chính tại 121 quốc gia, vùng lãnh thổ. Là
thành viên Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp Nông thôn châu Á-Thái Bình Dương
(APRACA). Hiệp hội Tín dụng Nông nghiệp quốc tế (CICA) và Hiệp hội Ngân
hàng châu Á (ABA).
Với vị thế là ngân hàng thương mại hàng đầu lớn mạnh ở Việt Nam,
NHNo&PTNT Việt Nam đã nỗ lực hết mình, đạt được nhiều thành tựu đáng khích
lệ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp công
nghiệp hóa-hiện đại hóa vào phát triển kinh tế của đất nước; góp phần tích cực vào
công cuộc xói đói, giảm nghèo, giữ vai trò chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài
chính nông thôn.
Sau 18 năm xây dựng và trưởng thành, từ một ngân hàng với số vốn nhỏ bé, đầy
khó khăn NHNo&PTNT đã trở thành một ngân hàng thương mại lớn mạnh hàng đầu ở
Việt Nam, có vị thế trong khu vực và uy tín thế giới. Ghi nhận những thành tích trên,
Đảng và Nhà nước đã phong tặng NHNo&PTNT Việt Nam danh hiệu Anh hùng lao
động trong thời kỳ đổi mới vào năm 2003.

Song song với hoạt động kinh doanh, Ban lãnh đạo và Công đoàn
NHNo&PTNT Việt Nam luôn quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của người
lao động, thông qua nhiều cơ chế, chính sách về tiền lương, thi đua khen thưởng, tổ
chức xây dựng thành công nhiều phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có nội
dung thiết thực, bổ ích góp phần xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Công nhân viên
chức, lao động còn được quan tâm chăm sóc về sức khỏe, nghỉ dưỡng, thăm quan hằng

×