Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP VĂN HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.46 KB, 56 trang )

Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
BÁO CÁO NIÊN LUẬN tuthienbao.com
PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ
NGHIỆP VĂN HÓA. THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI TỈNH THỪA
THIÊN HUẾ
GVHD : LÊ THỊ THẢO
SVTH : LÊ VĂN TÚC
GVHD: Lê Thị Thảo 1
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
3.1. Mục đích tổng quát.
3.2. Mục đích cụ thể.
4. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu.
4.1. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp luận.
4.2.2. Phương pháp nghiên cứu.
5. Kết cấu đề tài.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
CHO SỰ NGHIỆP VĂN HÓA- DU LỊCH
1. Khái quát về chi Ngân sách Nhà nước.
GVHD: Lê Thị Thảo 2
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.2 Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước


1.3 Pháp luật Việt Nam về chi ngân sách nhà nước.
2. Pháp luật Việt Nam về chi ngân sách nhà nước cho Văn hóa – Du
lịch.
CHƯƠNG II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
1. Khái quát về điều kiện tự nhiên - kinh tế, xã hội tỉnh Thừa Thiên
Huế.
2. Thực tiễn chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Văn hóa – Nghệ
thuật tại Thừa Thiên Huế.
3. Đánh giá về thực tiễn áp dụng.
4. Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh
Thừa thiên Huế.
4.1 Vướng mắc về lý luận.
4.2 Những tồn tại và nguyên nhân của thực tiễn áp dụng tại Thừa
Thiên Huế.
5. Giải pháp nhằm hoàn thiện về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng.
GVHD: Lê Thị Thảo 3
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
5.1 Giải pháp về pháp luật.
5.2 Giải pháp về thực tiễn áp dụng.
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
GVHD: Lê Thị Thảo 4
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
A. Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong các chức năng quan trọng của nhà nước là chức năng tổ chức kinh
tế. Chức năng này trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay được thể hiện
bằng vai trò của nhà nước trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngân
sách nhà nước với các vai trò của nó được coi là một công cụ quan trọng

trong việc thực hiện chức năng nói trên của nhà nước. Trong đó chi ngân
sách nhà nước cho sự nghiệp văn hóa là một trong những khoản chi đặc biệt
quan trọng. Mục tiêu của các hoạt động văn hóa là nâng cao tri thức và thẩm
mỹ cho mọi tầng lớp dân cư nhằm xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, có nội dung nhân đạo, dân chủ và tiến bộ, phát triển đạo
đức xã hội và truyền thống dân tộc. Mục tiêu của các hoạt động này cho phép
mỗi công dân phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức và nâng cao
tri thức của mình. Vì tính chất quan trọng của các hoạt động văn hóa nên việc
thực hiện các mục tiêu của chúng gắn liền một khoản cấp phát từ ngân sách
nhà nước.
Hiện nay, Thừa Thiên Huế với vai trò là một trong những trung tâm Văn hóa
lớn nhất cả nước, việc đầu tư cho các hoạt động này là đặc biệt cần thiết,
trong đó, nguồn chi từ ngân sách nhà nước là quan trọng nhất. Trên cơ sở các
quy định pháp luật, hằng năm, Thừa Thiên Huế luôn chi một khoản ngân
sách nhà nước không nhỏ và ngày càng tăng lên cho sự nghiệp Văn hóa của
GVHD: Lê Thị Thảo 5
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
tỉnh. Với mức chi đó, sự nghiệp giữ gìn và phát huy các truyền thống văn hóa
mang đặc trưng riêng của Thừa Thiên Huế cũng như của nước ta đã và đang
gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, ngoài những thành tựu đã đạt
được, vì nhiều nguyên nhân về cả lý luận lẫn thực tiễn mà hoạt động chi
NSNN cho sự nghiệp văn hóa ở Thừa Thiên Huế nói riêng và trong cả nước
nói chung vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến kết quả của hoạt động này
chưa thật sự như mong đợi. Vì thế việc nghiên cứu các quy định pháp luật về
chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Văn hóa cũng như thực tiễn áp dụng
các quy định này trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế là rất cần thiết, từ đó em
chọn đề tài “ Pháp luật về chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Văn
hóa. Thức tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế ” để nghiên cứu về vấn
đề này góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp
dụng trên thực tế.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chi ngân sách, một công cụ của chính sách tài chính quốc gia có tác động rất
lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, vấn đề này nhận được rất
nhiều sự quan tâm của các chuyên gia, các nhà hoạch định chính sách, và đã
có những bài viết về vấn đề này được đăng trên các báo, tạp chí hay được bàn
luận tại các hội nghị…Tuy nhiên có thể thấy, hầu hết chúng đều đề cập ở một
khía cạnh nào đó, chưa bao quát được hết vấn đề, chủ yếu là nghiên cứu về
nhũng quy định chung trong Luật Ngân sách nhà nước, trong đó có rất ít
những bài nghiên cứu mảng pháp luật về chi NSNN cho sự nghiệp Văn hóa,
cũng như chưa có bài nghiên cứu tổng thể nào về thực tiễn áp dụng các quy
định pháp luật tại tỉnh Thừa Thiên Huế về chi NSNN cho sự nghiệp Văn hóa.
GVHD: Lê Thị Thảo 6
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
a. Mục đích tổng quát
Đề tài “ Pháp luật về chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Văn hóa. Thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế” Sẽ nghiên cứu một cách toàn diện các
quy định của pháp luật về chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp Văn hóa,
cũng như thực tiễn áp dụng những quy định đó tại tỉnh Thừa Thiên Huế,
nhằm tìm ra những ưu khuyết điểm trong các quy định của pháp luật, những
thành tựu hay những tồn tại vấp phải trong quá trình áp dụng các quy định
pháp luật vào thức tiễn của Tỉnh. Góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật
và nâng cao hiệu quả áp dụng tại Thừa Thiên Huế nói riêng và cả nước nói
chung.
b. Mục đích cụ thể
• Nghiên cứu tổng thể các quy định pháp luật về chi NSNN cho sự
nghiệp Văn hóa để thấy được ưu khuyết điểm trong những quy định của pháp
luật;
• Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tại Tỉnh Thừa
Thiên Huế để thấy được những thành tựu cũng như những tồn tại trong quá

trình áp dụng;
• Đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật;
• Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc chi NSNN cho hoạt
động Văn hóa tại Thừa Thiên Huế nói riêng, nước ta nói chung.
GVHD: Lê Thị Thảo 7
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
4. Đối tượng phạm vi và phương pháp nghiên cứu
a. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Quy định pháp luật về chi NSNN cho sự nghiệp Văn hóa:
- Luật ngân sách nhà nước năm 2002;
- Các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản dưới luật có liên quan.
• Thực tiễn áp dụng pháp luật về chi NSNN cho sự nghiệp Văn hóa nghệ
thuật tại Thừa Thiên Huế.
b. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp luận
Phương pháp luận của đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng về Nhà nước và pháp
luật, những thành tựu của khoa học kỹ thuật như: khoa học pháp lý, triết học,
logich học…
 Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp suy luận, phương pháp logich;
 Phương pháp thống kê, tổng hợp;
 Phương pháp so sánh, chứng minh;
GVHD: Lê Thị Thảo 8
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
 Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, tham khảo tài liệu, sách báo, tạp
chí…
Ngoài ra còn sử dụng những phương pháp cần thiết khác.
5. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung chính gồm có hai chương sau:
Chương I. Cơ sở pháp lý về chi NSNN cho sự nghiệp Văn hóa.
Chương II. Thực tiễn chi NSNN cho sự nghiệp Văn hóa tại Tỉnh Thừa Thiên
Huế.
GVHD: Lê Thị Thảo 9
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
CHO SỰ NGHIỆP VĂN HÓA
1. Khái quát về chi Ngân sách Nhà nước
1.1 Khái niệm chi NSNN
Ngân sách nhà nước được coi là một hiện tượng kinh tế- xã hội gắn liền với
nhà nước và mang tính lịch sử. Nói đến NSNN là nói đến hai loại hình hoạt
động tài chính cơ bản của nhà nước, đó là hoạt động thu NSNN và hoạt động
chi NSNN. Chi NSNN là một bộ phận trong NSNN. Theo Từ điển giải thích
thuật ngữ luật học thì chi NSNN là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền phân phối và sử dụng quỹ ngân sách. Mục đích của chi ngân sách nhà
nước là thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Chi NSNN là nội dung
của chấp hành ngân sách nhà nước nên thuộc trách nhiệm và quyền hạn của
hệ thống cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước các cấp. Nếu hoạt động
thu NSNN là hoạt động thu hút các nguồn vốn tiền tệ để hình thành quỹ ngân
sách nhà nước thì chi NSNN là quy trình phân phối và sử dụng nguồn vốn
tiền tệ từ đã được tập trung vào nguồn tiền tệ đó.
Luật NSNN năm 2002 cũng đã đưa ra khái niệm về chi NSNN nhưng chỉ ở
dạng liệt kê tại khoản 2 Điều 2. Theo đó, Chi ngân sách nhà nước bao gồm
các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo
GVHD: Lê Thị Thảo 10
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà nước; chi viện trợ
và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Khái niệm trên chỉ đưa

một cách khá đầy đủ những nội dung chi cơ bản, mang tính then chốt cho
việc đảm bảo các hoạt động của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt chức
năng, nhiệm cụ của nhà nước trong các lĩnh vực khác.
Như vậy, ta có thể hiểu chi NSNN là hệ thống những quan hệ phân phối lại
những khoản thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng có kế hoạch quỹ tiền
tệ tập trung của Nhà nước nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế, từng bước mở
mang các sự nghiệp văn hóa-xã hội, duy trì hoạt động quản lý của bộ máy
nhà nước và bảo đảm an ninh quốc phòng. Cụ thể hơn chi NSNN là phân
phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo dự toán ngân sách đã được các
chủ thể quyền lực nhà nước quyết định nhằm duy trì hoạt động của bộ máy
nhà nước và đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước.
1.2 Đặc điểm của chi ngân sách nhà nước
Dựa vào khái niệm của chi ngân sách nhà nước đã nêu ở trên, có thể thấy chi
NSNN có một số đặc điểm sau:
• Chi NSNN là hoạt động phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước,
hoạt động này chỉ hoạt động dựa trên cơ sở quy định pháp luật và dự toán
ngân sách nhà nước đã được cơ quan quyền lực nhà nước có thẩm quyền
quyết định. Nội dung chi NSNN phải nằm trong bản dự toán ngân sách hằng
năm do Quốc hội thông qua. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết
định tổng chi NSNN bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương, tổng số chi, mức chi…Chi NSNN là một nội dung quan trọng quyết
GVHD: Lê Thị Thảo 11
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
định đến hiệu quả quản lý nhà nước của bộ máy nhà nước, vì vậy nó phải
được thông qua trên nguyên tắc tập thể, tập trung trí tuệ tập thể và qua một
quy trình luật định nghiêm ngặt.
• Chi NSNN là hoạt động được tiến hành bởi những chủ thể quyền lực
gồm hai nhóm:
 Nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, cấp
phát, thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước. Đó là những cơ quan đại

diện cho Nhà nước thực thi quyền hạn có liên quan tới việc xuất quỹ NSNN
cho các mục tiêu đã được phê duyệt. Nhóm chủ thể này bao gồm Bộ Tài
chính, Sở tài chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng tài chính
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Sở kế hoạch và đầu tư, Kho bạc
nhà nước.
 Nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước. Đó là những chủ thể được
hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước để trang trải những chi phí trong quá
trình hoạt động của mình. Nhóm chủ thể này rất đa dạng nhưng có thể chia
thành ba loại chủ yếu sau:
- Các quan cơ quan nhà nước, kể cả cơ quan hành chính thực hiện khoán
biên chế và kinh phí quản lý hành chính.
- Các đơn vị, kể cả đơn vị sự nghiệp có thu.
- Các chủ dự án sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước.
GVHD: Lê Thị Thảo 12
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
• Mục tiêu cơ bản của chi NSNN là đáp ứng nhu cầu tài chính cho sự
hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo cho nhà nước thực hiện được chức
năng và nhiệm vụ của mình. Chi ngân sách nhà nước luôn gắn liền với bộ
máy nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động chi ngân sách để đảm bảo hoạt
động của mình trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng…
Ngoài ra, thông qua việc thể chế hóa bằng pháp luật đối với chi ngân sách,
nhà nước còn hướng đến những mục tiêu khác, trong đó bao gồm mục tiêu
quản lý hiệu quả việc sử dụng công quỹ và tăng cường kỉ luật ngân sách,
đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật nói
chung và pháp luật về chi ngân sách nói riêng, góp phần hạn chế tình trạng
tham nhũng, lãng phí tài sản nhà nước.
1.3 Phân loại chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách nhà nước gồm nhiều loại, bao gồm: chi phát triển kinh tế-xã
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đảm bảo các hoạt động của Nhà nước, chi
trả nợ của nhà nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của

pháp luật. Tuy nhiên nếu căn cứ vào mục đích kinh tế xã hội của các khoản
chi NSNN thì có thể chia các khoản chi NSNN thành các loại sau:
• Chi đầu tư phát triển: là khoản chi mà nhà nước sử dụng một bộ phận
của NSNN để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, phát triển sản
xuất nhằm mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế. Theo khoản 1 Điều 3
nghị định 60/2003/NĐ-CP thì các khoản chi đầu tư phát triển bao gồm: Đầu
tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng
thu hồi vốn; Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các
GVHD: Lê Thị Thảo 13
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định
của pháp luật; Chi bổ sung dự trữ nhà nước; Chi đầu tư phát triển thuộc các
Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án nhà nước; Các khoản chi đầu tư phát
triển khác theo quy định của pháp luật.
• Chi thường xuyên: là khoản chi nhằm thực hiện nhiệm vụ thường
xuyên của nhà nước về quản lý các mặt của đời sống xã hội. Đây là những
khoản chi mang tính ổn định, định kì, lặp đi lặp lại và các khoản chi mang
tính tiêu dùng, vì vậy nó không có tính tích lũy. Chi thường xuyên bao gồm:
Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin văn
học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, các sự nghiệp xã hội
khác; Các hoạt động sự nghiệp kinh tế; Quốc phòng, an ninh và trật tự an
toàn xã hội; Hoạt động của các cơ quan nhà nước; Hoạt động của Đảng Cộng
sản Việt Nam…Chi thường xuyên được bố trí kinh phí đều trong năm để chi.
Ngoài ra, có thể thấy có các loại chi ngân sách nhà nước khác như chi trả nợ
gốc và lãi các khoản do Chính phủ vay, chi viện trợ của ngân sách trung ương
cho chính phủ và các tổ chức nước ngoài, chi bổ sung ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới…
2. Pháp luật về chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp văn hóa
2.1 Khái niệm chi NSNN cho sự nghiệp văn hóa

Kết luận Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX)
khẳng định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
GVHD: Lê Thị Thảo 14
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
động lực thúc đẩy công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Đó là nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc mang
nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kế thừa truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Vậy văn hóa là gì? Hiện vẫn đang còn có nhiều quan điểm về khái niệm văn
hóa, theo nghĩa rộng thì Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do
lao động của người sáng tạo ra, được cộng đồng khẳng định tích lũy lại, tạo
ra bản sắc riêng của từng tộc người, từng xã hội. Trong Nghị quyết Trung
ương 5 ( Khóa VIII), Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể
những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng
tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và
tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện
mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt
Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Bởi lẽ văn hóa là sản phẩm do lao động của con người tạo ra mà hoạt động
lao động của con người rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như xây
dựng hệ thống các bảo tàng, nhà văn hóa, thư viện hay các tác phẩm văn hóa,
văn học nghệ thuật, các chương trình biểu diễn nghệ thuật…tạo nên những
món ăn tinh thần không thể thiếu đối với người dân cũng như góp phần vào
sự phát triển bền vững của đất nước. Với vai trò đặc biệt quan trọng như vậy,
các hoạt động văn hóa, nghệ thuật luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm
và đầu tư thích đáng. Hàng năm, nhà nước ta luôn chi một phần không nhỏ
Ngân sách nhà nước để đầu tư cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn
hóa, nghệ thuật của đất nước.
GVHD: Lê Thị Thảo 15
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc

Như vậy, chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp văn hóa là khoản chi tài
chính mà nhà nước ta đầu tư cho các hoạt động xây dựng và phát triển hệ
thống các nhà bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa, các công trình văn hóa xã hội
trọng điểm, các hoạt động sáng tác văn hóa nghệ thuật, biểu diễn nghệ
thuật… nhằm nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho người dân cũng như
đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước.
2.2 Pháp luật về chi NSNN cho sự nghiệp văn hóa
2.2.1 Nội dung chi NSNN cho sự nghiệp văn hóa
Chi NSNN cho hoạt động sự nghiệp văn hóa là một trong các khoản chi
thuộc nhiệm vụ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước với mục tiêu nâng
cao tri thức và thẩm mỹ cho mọi tầng lớp dân cư nhằm xây dựng một nền văn
hóa đậm đà bản sắc dân tộc, có nội dung nhân đạo, dân chủ và tiến bộ, phát
triển đạo đức xã hội và truyền thống dân tộc. Và để thực hiện có hiệu quả các
hoạt động văn hóa nghệ thuật, Nhà nước ta cần đầu tư một khoản ngân sách
rất lớn cho hoạt động này với các nội dung được quy định cụ thể như sau:
• Chi cho hệ thống bảo tồn, bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa; Trùng tu di
tích lịch sử đã được xếp hạng. Đây là những khoản chi rất quan trọng và
chiếm tỉ lệ rất lớn trong lĩnh vực này. Có thể nói các hoạt động này mang tính
nền tảng, tạo cơ sở cho sự phát triển của sự nghiệp văn hóa.
Các khoản chi này được sử dụng để chi cho các hoạt động như : xây dựng và
phát triển hệ thống các khu bảo tồn, bảo tàng văn hóa lịch sử, xây dựng và
mua sắm các trang thiết bị, tăng lượng đầu sách cho các thư viện hoặc nhà
GVHD: Lê Thị Thảo 16
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
văn hóa nhằm đưa tri thức đến gần với người dân hơn, góp phần xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiến bộ và đậm đà bản sắc dân tộc.
• Chi cho các hoạt động sáng tạo văn hóa nghệ thuật, cho các hoạt động
biểu diễn nghệ thuật và các hoạt động văn hóa khác. Nếu các hoạt động ở
trên là mang tính nền tảng thì đây được xem là nội dung chính, quan trọng
bậc nhất trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Cũng chính vì thế, việc chi

NSNN cho các hoạt động này là đặc biệt quan trọng.
Hằng năm, nhà nước ta tổ chức rất nhiều những sự kiện văn hóa, nghệ thuật
để chào mừng các ngày lễ lớn trong nước như lễ tết, ngày quốc khánh…các
hoạt động này cần rất nhiều chi phí và khoản chi từ Ngân sách nhà nước là
không thể thiếu. Có thể nói, các khoản chi từ NSNN cho các hoạt động nói
trên là chủ yếu và mang tính chủ đạo, góp phần tạo nên sự thành công cho
hoạt động văn hóa. Chưa kể, nhà nước còn phải chi một khoản chi lớn cho
các hoạt động sáng tác văn hóa, nghệ thuật như trả nhuận bút cho các ca
khúc, những kịch bản được nhà nước sử dụng trong các hoạt động do nhà
nước tổ chức nhằm trả công và động viên tinh thần cho giới văn nghệ sĩ để
càng ngày có thêm những tác phẩm có giá trị, nâng cao đời sống tinh thần
cho nhân dân.
• Chi cho hệ thống phát thanh, truyền hình và các hoạt động thông tin
khác. Đây cũng là một trong những hoạt động mang tầm quốc gia và việc đầu
tư một phần ngân sách cho nó là rất cần thiết. Các hoạt động trong lĩnh vực
văn hóa có đạt được hiệu quả hay không, có đến được với công chúng hay
không chính là nhờ ở những hoạt động này.
GVHD: Lê Thị Thảo 17
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
Chúng ta biết rằng ngày nay, khi mà xã hội càng hiện đại hơn thì nhu cầu về
truyền thông, thông tin cũng không ngừng tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu đó,
Nhà nước ta sẽ phải tiêu tốn một khoản ngân sách không nhỏ để mua sắm
cũng như hiện đại hóa các trang thiết bị truyền thông, truyền hình, mang đến
cho người dân những món ăn tinh thần bổ ích và thiết thực.
• Chi cho các chương trình quốc gia về Văn hóa. Chương trình mục tiêu
quốc gia là những mục tiêu lớn, mang tầm quốc gia và mang tính cấp thiết
phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định. Hiện nay, nước ta có đến
16 mục tiêu quốc gia phải thực hiện trong giai đoạn 2011-2012 trong đó có
mục tiêu quốc gia về văn hóa. Việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc
gia được Quốc hội quyết định, kèm với đó là một khoản chi lớn từ Ngân sách

nhà nước được quyết định trong các Đạo luật NSNN năm.
2.2.2 Nguồn vốn
Chi NSNN cho sự nghiệp văn hóa là hoạt động chi thường xuyên của ngân
sách nhà nước. Mỗi một năm ngân sách, Nhà nước lại trích một phần ngân
sách rất lớn cho hoạt động này trong khi không tính đến khả năng thu hồi lại
vốn mà hướng đến sự phát triển của toàn xã hội trong tương lai. Do đó, để
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Nhà nước ta huy động
nhiều nguồn vốn khác nhau tham gia đầu tư xây dựng và phát triển các sự
nghiệp mang tính quốc gia này. Mỗi nguồn vốn có nội dung, đối tượng sử
dụng khác nhau phù hợp với quá trình phát triển trong từng giai đoạn lịch sử.
Trên góc độ quản lý kinh tế, tài chính vốn đầu tư cho sự nghiệp văn hóa được
phân loại theo đối tượng sử dụng vốn như sau:
GVHD: Lê Thị Thảo 18
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
• Vốn Ngân sách nhà nước bao gồm cả ngân sách Trung ương và ngân
sách địa phương được hình thành từ tích luỹ của nền kinh tế quốc dân, vốn
khấu hao cơ bản và một phần vốn ngân sách cho các sự nghiệp trong đó có
văn hóa, y tế giáo dục, nghiên cứu khoa học, các công trình quản lý nhà
nước, công trình an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường sinh thái mà không
có khả năng thu hồi vốn, những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, trồng
rừng đầu nguồn, rừng quốc gia, rừng phòng hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, các
trạm, trại, động thực vật, nghiên cứu giống mới, cải tạo vốn…
• Vốn tín dụng đầu tư nhà nước được hình thành do chuyển từ ngân sách
nhà nước sang Cục văn hóa cơ sở để vay theo hình thức tín dụng ưu đãi, vốn
do nhà nước vay viện trợ của nước ngoài qua hệ thống ngân sách nhà nước
được chuyển sang cho tổng cục văn hóa du lịch, vốn thu nợ các dự án vay ưu
đãi đối với các dự án đã đến hạn trả nợ. Nguồn vốn này được dùng để vay ưu
đãi đối với các dự án, các trương trình mục tiêu quốc gia do nhà nước chỉ
định.
• Nguồn vốn tự cân đối dành cho đầu tư của các đơn vị sự nghiệp được

hình thành từ lợi nhuận khấu hao cơ bản, tiền thanh lý tài sản và các nguồn
vốn theo quy định của nhà nước. Nguồn vốn này được dùng để đầu tư xây
dựng, cải tạo mở rộng, đổi mới kỹ thuật và công nghệ của các đơn vị sự
nghiệp.
• Vốn huy động của nhân dân được đầu tư vào các công trình dự án trực
tiếp đem lại lợi ích cho người góp vốn như các công trình văn hóa, bảo tàng,
thư viện…
GVHD: Lê Thị Thảo 19
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
2.2.3 Việc lập dự toán cho chi NSNN cho sự nghiệp văn hóa
Với nguyên tắc tất cả các khoản chi NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát
trước khi cấp phát thanh toán. Các khoản chi phải có trong Dự toán NSNN
được giao, đúng chế độ, tiêu chuẩn…thì việc lập dự toán ngân sách nhà nước
là đặc biệt quan trọng, nhằm đảm bảo cho các khoản chi NSNN, trong đó có
chi cho sự nghiệp văn hóa đạt được hiệu quả cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi
cho các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa hoàn thành nhiệm vụ
của mình. Theo quy định tại Thông tư 59/2003/TT-BTC, việc lập dự toán
ngân sách nhà nước nói chung, dự toán ngân sách nhà nước cho lĩnh vực văn
hóa nói riêng phải tuân theo những quy trình, thủ tục chặt chẽ của pháp luật.
Trước hết căn cứ vào chỉ thị của Thủ tướng Chính Phủ về việc xây dựng kế
hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán nhà nước năm sau, Bộ Tài chính sẽ
ban hành thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời hạn lập dự toán ngân
sách nhà nước và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách nhà nước cho
các Bộ, cơ quan ngang Bộ. cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan trung ương
khác và UBND cấp Tỉnh, trong đó có Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch. Tiếp
đó, Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính
phủ và thông tư hướng dẫn, số kiểm tra của Bộ Tài chính và căn cứ vào yêu
cầu, nhiệm vụ cụ thể của đơn vị mình, thông báo số kiểm tra về dự toán ngân
sách cho các đơn vị trực thuộc. Tuy nhiên, thời gian qui định lập dự toán,
tổng hợp dự toán từng cấp đơn vị cơ sở, Bộ ngành, địa phương chưa phù hợp

(chỉ khoảng 35-40 ngày). Các cơ quan tham gia thẩm định không có điều
kiện nghiên cứu tài liệu để tham gia ý kiến. Điều này làm hạn chế sự tham gia
GVHD: Lê Thị Thảo 20
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
của các cơ quan hữu quan vào dự toán Ngân sách nhà nước, kể cả việc thẩm
định và có ý kiến vào dự toán ngân sách nhà nước của Kiểm toán nhà nước.
Về yêu cầu của việc lập dự toán ngân sách nhà nước đối với chi ngân sách
nhà nước cho sự nghiệp văn hóa phải tuân thủ một số yêu cầu quy định tại
Điểm 2 phần III Thông tư 59/2003/TT-BTC như sau:
• Việc lập dự toán phải tổng hợp theo từng lĩnh vực và phải thể hiện
được cơ cấu giữa chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ.
• Dự toán Ngân sách của các đơn vị dự toán phải thep đúng yêu cầu, nội
dung, biểu mẫu và thời hạn quy định tại các Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài
chính.
• Dự toán ngân sách phải kèm theo báo cáo thuyết minh rõ cơ sở, căn cứ
dự toán.
• Phải đảm bảo các nguyên tắc do pháp luật quy định về việc lập dự toán
NSNN.
Về căn cứ lập dự toán ngân sách, để lập dự toán ngân sách đối với chi NSNN
cho sự nghiệp văn hóa phải dựa trên những căn cứ quy định tại Điểm 3 phần
III Thông tư 59/2003/TT-BTC:
• Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh – quốc phòng,
nhiệm vụ cụ thể của năm kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô nhiệm
vụ, điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng.
GVHD: Lê Thị Thảo 21
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
• Các luật, pháp lệnh, các chính sách, chế độ tiêu chuẩn, định mức do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Dựa trên những quy định của pháp luật về lập dự toán NSNN, vào nhiệm vụ
cụ thể của đơn vị mình, các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa các cấp sẽ

phối hợp với cơ quan tài chính và cơ quan kế hoạch và đầu tư cùng cấp lập
dự toán chi ngân sách nhà nước của cấp mình theo quy định tại khoản 5 Điều
10 của nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2003 của Chính
phủ.
2.2.4 Phân bổ và giao dự toán chi ngân sách
Sau khi Đạo luật ngân sách nhà nước năm được Quốc hội quyết định và được
Chính phủ giao dự toán ngân sách, Bộ Văn hóa thể thao và du lịch sẽ chịu
trách nhiệm phân bổ và giao dự toán chi ngân sách cho các đơn vị sử dụng
trực thuộc theo các nguyên tắc quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 44 của
Nghị định 60/2003/NĐ-CP của Chính phủ. Trong trường hợp chưa có điều
kiện phân bổ và giao dự toán trực tiếp đến các đơn vị sử dụng ngân sách thì
có thể phân bổ, giao dự toán cho đơn vị dự toán cấp II và ủy quyền cho đơn
vị này phân bổ, giao dự toán cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc.
Bên cạnh đó, chi NSNN cho sự nghiệp văn hóa thuộc vào chi thường xuyên
của NSNN do đó, theo quy định tại Điểm 1.1.2 phần IV Thông tư
59/2003/TT-BTC thì dự toán chi NSNN giao cho đơn vị sử dụng ngân sách
loại này sẽ được phân bổ theo từng loại của Mục lục Ngân sách nhà nước,
theo các nhóm mục sau:
GVHD: Lê Thị Thảo 22
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
• Chi thanh toán cá nhân;
• Chi nghiệp vụ chuyên môn;
• Chi mua sắm, sửa chữa;
• Các khoản chi khác.
Đối với các nhiệm vụ chi về chương trình mục tiêu quốc gia; chi mua sắm,
sửa chữa lớn… dự toán năm giao cho đơn vị sử dụng ngân sách còn được
phân theo tiến độ thực hiện từng quý.
Khi phân bổ dự toán ngân sách được giao, Bộ văn hóa, thể thao và du lịch
cũng như các cơ quan đơn vị quản lý nhà nước về văn hóa phải bảo đảm bố
trí vốn, kinh phí cho các dự án, nhiệm vụ đã được chi ứng trước dự án, đồng

thời phải phân bổ hết dự toán ngân sách được giao theo đúng phương án phân
bổ ngân sách đã được phê duyệt.
2.2.5 Chi trả, thanh toán các khoản chi của NSNN cho sự nghiệp văn hóa
 Nguyên tắc chi trả
Theo quy định tại Điểm 5 phần IV Thông tư 59/2003/TT-BTC của Chính
phủ, khi chi trả, thanh toán các khoản chi NSNN nói chung, chi cho sự
nghiệp văn hóa nói riêng cần phải căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước
năm được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chi của đơn vị theo đúng chế
độ, tiêu chuẩn, định mức, cơ quann tài chính và Kho bạc nhà nước thực hiện
GVHD: Lê Thị Thảo 23
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
chi trả, thanh toán các khoản chi theo nguyên tắc thanh toán trục tiếp từ Kho
bạc nhà nước.
 Phương thức và quy trình chi trả, thanh toán
Phương thức chi ngân sách nhà nước có thể hiểu là cách thức Nhà nước sử
dụng để chuyển giao nguồn ngân sách nhà nước cho các chủ thể thụ hưởng
ngân sách nhà nước. Ở nước ta, quá trình cấp phát tài chính từ ngân sách nhà
nước có thể thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau, phụ thuộc vào tính
chất, mục đích chi tiền, trong đó pháp luật hiện hành quy định hai phương
thức đó là chi theo dự toán kinh phí (chi theo hạn mức) và chi theo lệnh chi
tiền. Như đã trình bày ở các phần trên, chi NSNN cho sự nghiệp văn hóa là
khoản chi thường xuyên trong dự toán do đó các khoản chi này sẽ được chi
theo phương thức chi trả, thanh toán theo dự toán từ Kho bạc Nhà nước.
Phương thức chi theo dự toán kinh phí là phương thức áp dụng với các khoản
chi mà cơ quan tài chính không cấp phát trực tiếp. Đối tượng cấp phát theo
phương thức này là các đối tượng sử dụng thường xuyên kinh phí từ NSNN
để thực hiện các nhiệm vụ được giao, là đối tượng có quan hệ thường xuyên
với ngân sách nhà nước. Quy trình áp dụng phương thức này như sau:
Bước 1. Căn cứ vào phương án điều hành ngân sách quý do cơ quan tài chính
thông báo, nhu cầu thanh toán, chi trả hang quý của các đơn vị sử dụng Ngân

sách, ở đây là các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật, Kho bạc
Nhà nước chủ động lập kế hoạch nguồn vốn; kế hoạch chi trả, thanh toán; kế
hoạch tiền mặt, đảm bảo đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu chi của đơn vị sử
dụng ngân sách.
GVHD: Lê Thị Thảo 24
Báo cáo Niên luận – Lê Văn Túc
Bước 2. Căn cứ vào nhu cầu chi quý đã gủi Kho bạc Nhà nước và theo yêu
cầu nhiệm vụ chi, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách lập giấy rút dự toán
ngân sách, kèm theo hồ sơ thanh toán gửi Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch.
Bước 3. Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch sẽ kiểm tra hồ sơ thanh toán, các
điều kiện chi và giấy rút dự toán ngân sách. Nếu các điều kiện chi này thỏa
mãn 3 điều kiện chi thì Kho bạc Nhà nước tiến hành chi trả.
Đối với các trường hợp chưa có đủ điều kiện thực hiện thanh toán trực tiếp
qua kho bạc nhà nước ở tất cả các khoản chi thì được phép cấp tạm ứng đối
với một số khoản chi theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Sau khi
hoàn thành công việc và có đủ chứng từ thanh toán thì chuyển từ tạm ứng
sang thực chi. (Điểm 6 phần IV Thông tư 59/2003/TT-BTC)
Khi áp dụng phương thức chi này sẽ tạo điều kiện cho Kho bạc Nhà nước dễ
dàng, chủ động trong quá trình chi cũng như kiểm soát chi. Tuy nhiên, cũng
có thể dẫn đến tình trạng các đơn vị sử dụng ngân sách không chủ động được
trong qua trình sử dụng kinh phí, từ đó làm cho hiệu quả sử dụng ngân sách
cũng như quá trình thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị quản lý nhà nước về
văn hóa không cao.
 Mở tài khoản để nhận kinh phí ngân sách nhà nước cấp
Theo quy đinh tại Điểm 14 phần IV Thông tư 59/2003/TT-BTC thì các đơn
vị dự toán ngân sách về lĩnh vực văn hóa phải mở tài khoản tại Kho bạc Nhà
nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính để được nhận kinh phí cấp phát và
GVHD: Lê Thị Thảo 25

×