Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

skkn Nguvan 12(xay dung he thong cau hoi...)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.24 KB, 31 trang )

XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI CHO BÀI SOẠN NGỮ VĂN 12
Trầm Thanh Tuấn
GV: Trường THPT Long Hiệp - Huyện Trà Cú - Tỉnh Trà Vinh
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chuẩn bị bài là một yêu cầu quan trọng trong việc dạy và học môn Ngữ văn (Lẽ dĩ nhiên đây là
yêu cầu chung cho tất cả các môn học, tuy nhiên đối với môn Ngữ văn đây lại là yêu cầu mang
tính đặc thù). Có chuẩn bị bài tốt thì học sinh (HS) mới có thể lĩnh hội tốt kiến thức trong quá
trình Đọc - hiểu văn bản. Tuy nhiên thực tế giảng dạy và học tập môn Ngữ văn hiện nay cho
thấy, HS chuẩn bị bài trên cơ sở câu hỏi Hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa (SGK) chỉ để
đối phó, chiếu lệ, hợp thức hóa. Có nhiều nguyên nhân cho thực trạng này trong đó có nguyên
nhân xuất phát từ chính hệ thống câu hỏi Hướng dẫn học bài trong SGK ([1]). Xuất phát từ thực
trạng ấy, chúng tôi đề xuất việc xây dựng một hệ thống câu hỏi giúp HS chuẩn bị bài ở nhà. Hệ
thống câu hỏi này được thiết kế trên cơ sở năng lực của HS đang được GV trực tiếp giảng dạy.
2. THỰC TRẠNG
Một thực tế có thể dễ dàng nhận thấy trong chương trình Ngữ văn 12 có nhiều văn bản có dung
lượng lớn nhưng thời lượng cho tiết dạy lại ít nên khá nhiều GV lúng túng, thường phải chạy theo
bài dạy nếu không muốn "cháy giáo án". Thế nên nhiều tiết dạy đã không đạt được yêu cầu như
mong muốn.
Những trăn trở trên thật đáng trân trọng bởi đối với GV Ngữ văn, chúng tôi thiết nghĩ, không có
một mục đích nào khác là mong muốn cho HS tiếp nhận tác phẩm một cách trọn vẹn. Và cũng
chính bởi sự tâm huyết ấy mà nhiều GV đã cố gắng cung cấp cho HS thật nhiều thông tin về tác
giả, tác phẩm và lẽ dĩ nhiên như thế thì đã trễ lại càng trễ.
Trong không khí của công cuộc đổi mới trong công tác giảng dạy hiện nay, một trong những điều
mà mọi người đang quan tâm đó là làm thế nào để khơi dậy tiềm lực nội tại trong mỗi HS trong
quá trình học tập. Tạo điều kiện để HS có thể tự học, tự tiếp cận tri thức. Đây là xu hướng giáo
dục tích cực đang được đặc biệt chú trọng. Vậy nên, trong quá trình giảng dạy, yêu cầu chuẩn bị
bài một cách nghiêm túc đã trở thành một công việc thật sự hữu ích cho quá trình học tập của
mỗi HS. Với môn Ngữ văn, yêu cầu này càng trở nên cấp thiết hơn bởi lẽ để tiếp cận một tác
phẩm văn học cần phải hội tụ nhiều kĩ năng, phải có sự tiếp cận bề mặt văn bản trên cơ sở đó
cảm nhận những giá trị thẫm mĩ ẩn chứa sau từng con chữ. Việc HS chuẩn bị tốt bài ở nhà là đã
làm tốt công việc tiếp cận bề mặt văn bản. Đây có thể nói là yếu tố "nền" để khi lên lớp kết hợp


với những tri thức của GV cung cấp, HS sẽ có một cái nhìn tương đối trọn vẹn về tác phẩm văn
học được học (ở mức độ phổ thông).
Nhưng thực tế cho thấy, hệ thống câu hỏi gợi ý ở một số bài trong SGK còn quá chung, thậm chí
ở một số văn bản hệ thống câu hỏi đã không đi theo sự lôgic của văn bản vì vậy HS gặp nhiều
khó khăn trong việc soạn bài tại nhà.
Sau đây là hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài cho bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu (tr
108, SGK Ngữ văn 12 – nâng cao)
1. Đọc lại phần Tiểu dẫn và cho biết bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh nào ? Tâm trạng bao
trùm trong đoạn trích bài thơ là gì ?
2. Nhận xét về cách kết cấu của bài thơ (chú ý cảnh chia tay, lời hỏi và lời đáp). Cách kết cấu ấy
có gì gần gũi với ca dao, dân ca và có tác dụng như thế nào đối với việc thể hiện tư tưởng, tình
cảm trong bài thơ ?
3. Nhận xét về cách sử dụng hai từ "mình" và "ta" trong bài thơ ("mình", "ta" là ai ?). Sự thống
nhất và chuyển hoá của hai "nhân vật" ấy. "Mình", "ta" trong bài Việt Bắc giống và khác như thế
nào với "mình", "ta" trong ca dao ?
4. Trong đoạn thơ từ dòng 25 đến dòng 52, những hình ảnh nào của thiên nhiên và con người
Việt Bắc đã được tái hiện ? Trong không gian và thời gian nào ? Giữa cảnh và người có sự gắn bó
như thế nào ? Nêu cảm nhận của anh (chị) về tình cảm của người cán bộ miền xuôi với Việt Bắc
qua những hình ảnh ấy. Nhận xét về bút pháp miêu tả và giọng điệu của đoạn thơ này.
5. Trong đoạn thơ từ dòng 53 đến dòng 88, khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến đã được tái
hiện qua những hình ảnh, sự việc nào ? Bút pháp và giọng điệu trong đoạn thơ này có gì khác
với đoạn thơ trước (từ dòng 25 đến dòng 52) ?
6. Phân tích tính dân tộc trong nội dung và nghệ thuật của đoạn trích bài thơ Việt Bắc (ở bức
tranh đời sống và nội dung tình cảm ; ở các hình thức nghệ thuật nổi bật như thể thơ, lối kết
cấu, hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu).
Rõ ràng hệ thống câu hỏi trên còn quá chung, chưa thể hiện được ý đồ tiếp cận tác phẩm theo
hệ thống. Trong khi ở câu 1, câu 2, câu 3 thì yêu cầu HS tiếp cận đoạn trích theo lối "bổ dọc"
đến câu 4, câu 5 thì lại tiếp cận theo lối "bổ ngang". Hơn thế nữa nhiều câu hỏi quá khó so với
trình độ của HS ở vùng sâu: "Nhận xét về cách kết cấu của bài thơ". Sau đó lại yêu cầu so sánh
với kết cấu của ca dao ([2]). Hoặc nhận xét về cách sử dụng hai từ "mình" và "ta" trong bài thơ

("mình", "ta" là ai ?). Sự thống nhất và chuyển hoá của hai "nhân vật" ấy. "Mình", "ta" trong bài
Việt Bắc giống và khác như thế nào với "mình", "ta" trong ca dao. Đây là một câu hỏi rất khó, HS
phải có một sự am hiểu rất sâu về đặc điểm sử dụng đại từ nhân xưng trong ca dao mới có thế
giải quyết được vấn đề này. Tuy nhiên qua khảo sát hệ thống văn bản ca dao mà HS được học
trong chương trình Ngữ văn 10 (nâng cao) chúng tôi nhận thấy không có văn bản nào có xuất
hiện hai từ "mình", "ta". Như vậy HS lấy kiến thức ở đâu để hoàn thành được câu hỏi này. Tình
hình này cũng không khác lắm ở sách giáo khoa Ngữ văn 12 (chương trình chuẩn).
Sau đây là hệ thống câu hỏi Hướng dẫn học bài cho bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao
sáng trong văn nghệ dân tộc của Phạm Văn Đồng (Ngữ văn 12, tr 53 – 54).
1. Tìm những luận điểm chính của bài viết. Anh chị thấy cách sắp xếp các luận điểm đó có gì
khác với trật tự thông thường?
2. Theo tác giả, vì sao văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng giống như: "những vì sao có ánh
sáng khác thường", "con mắt của chúng ta phải chăm chú nhì thì mới thấy"?
3. Tác giả đã giúp chúng ta nhận ra những "ánh sáng khác thường" nào của ngôi sao sáng
Nguyễn Đình Chiểu trên bầu trời văn nghệ Việt Nam, qua:
- Cuộc sống và quan niệm sáng tác của nhà thơ;
- Thơ văn mà ông sáng tác để phục vụ cuộc chiến đấu chống xâm lược bảo vệ Tổ quốc;
- Truyện Lục Vân Tiên
4. Vì sao tác giả cho rằng ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu đáng lẽ phải sáng hơn nữa không chỉ
trong thời ấy, mà cả trong thời đại hiện nay?
5. Có thể thấy bài văn nghị luận này không khô khan mà trái lại có sức hấp dẫn, lôi cuốn. Vì sao?
Bài viết là một áng văn nghị luận mẫu mực có cấu hết sức chặt chẽ theo ba phần với luận đề và
hệ thống luận điểm lôgic liên kết chặt chẽ. Như vậy hệ thống câu hỏi nên tiếp cận văn bản theo
hướng ấy. Thế nhưng ở đây, tác giả lại không khai thác theo hướng này. Bên cạnh đó, ngay ở
câu 1, SGK hỏi: Anh chị thấy cách sắp xếp các luận điểm đó có gì khác với trật tự thông thường?
Đây là yêu cầu HS rất khó trả lời vì HS chưa tiếp cận được một cách toàn diện kết cấu của văn
bản để nhận diện được mục đích của Phạm Văn Đồng khi triển khai trật tự các luận điểm trong
văn bản Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc
Tất cả những điều đã trình bày ở trên chính là nguyên nhân khiến HS soạn bài "đối phó" với GV
bằng loại sách "Học tốt" được bày bán trên thị trường. Điều này đã triệt tiêu khả năng tư duy

cũng như khả năng độc lập trong việc tiếp cận văn bản của HS từ đó đã làm giảm sự hứng thú
trong những giờ học Ngữ văn của các em.
Xuất phát từ thực tế ấy, chúng tôi thiết nghĩ trên nền tảng gợi ý của hệ thống câu hỏi trong SGK,
GV giảng dạy Ngữ văn có thể biên soạn một hệ thống câu hỏi khác cụ thể hơn, gắn liền với bài
giảng của GV hơn. Đây chính là điều kiện thuận lợi để HS có thể chuẩn bị bài tốt hơn và GV có
thể tiết kiệm được nhiều thời gian trên lớp. Như vậy nếu thực hiện tốt công việc này, chúng tôi
thiết nghĩ bài toán "cháy giáo án" trong giảng dạy Ngữ văn sẽ phần nào được giải. Đồng thời từ
hệ thống những câu hỏi ấy GV sẽ giúp học sinh nâng cao khả năng tự tiếp cận tác phẩm, thoát li
dần và không còn phụ thuộc một cách thụ động với những sách "học tốt". Vậy nên từ những
điều đã trình bày trên chúng tôi tiến hành Xây dựng hệ thống câu hỏi cho bài soạn Ngữ văn 12
(Cả hai chương trình Nâng cao và Chuẩn).
3. GIẢI PHÁP
3.1 Việc xây dựng hệ thống câu hỏi cho bài soạn ngữ văn 12
Chúng tôi sẽ tổ chức soạn thảo hệ thống câu hỏi dựa trên nền tảng gợi ý trong sách giáo khoa
(SGK) tuy nhiên chúng tôi chú trọng phương thức quy nạp khi xây dựng hệ thống câu hỏi đồng
thời cố gắng đi theo trình tự lôgíc của kết cấu văn bản. Hệ thống câu hỏi mới sẽ cụ thể hơn, chi
tiết hơn, mức độ gợi ý sẽ tuỳ thuộc vào năng lực chung của HS trong lớp học đang được GV trực
tiếp giảng dạy. Đồng thời GV có thể yêu câu Nhóm học tập có thể thảo luận trước một số câu hỏi
cần phải thảo luận nhóm.
3.2 Cách thức sử dụng Hệ thống câu hỏi cho bài soạn ngữ văn 12:
HS được GV cung cấp Hệ thống câu hỏi cho bài học mới sau mỗi tiết dạy. Cũng trong hệ thống
câu hỏi ấy GV giảng dạy cũng lưu ý với HS những câu hỏi nào sẽ được sử dụng cho hoạt động
thảo luận Nhóm để các Nhóm chuẩn bị trước. Trong quá trình tìm hiểu, nếu gặp khó khăn HS có
thể trình bày với cán sự học tập chuyên trách mãng Ngữ văn của lớp hoặc gặp trực tiếp GV giảng
dạy Ngữ văn.
Ví dụ sau đây là hệ thống câu hỏi cho một bài cụ thể, bài Tuyên ngôn độc lập của Hồ
Chí Minh.
Tuyên ngôn Độc lập
Hồ Chí Minh
1. Bản Tuyên ngôn Độc lập được sáng tác trong hoàn cảnh nào?

2. Đối tượng mà bản Tuyên ngôn hướng tới?
3. Hồ Chí Minh viết bản Tuyên ngôn nhằn những mục đích gì?
4. Phần 1: "Hỡi đồng bào cả nước…. có thể chối cải được", Nội dung khái quát của phần 1?
- Việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ (1776) và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và
dân quyền của Pháp (1791) nhằm mục đích gì?
- Tuy nhiên trong cuộc đối thoại này, tác giả đã "suy rộng ra": " Tất cả các dân tộc trên thế giới
sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tự do" điều đó đã chứng minh được tầm vóc tư tưởng của Bác. Điều mới mẻ được thể hiện trong
câu nói ấy là gì?
1. Phần 2 " Thế mà hơn 80 năm nay…dân tộc đó phải được độc lập" Nội dung khái quát của
phần 2? (Thảo luận nhóm)
- Pháp kể công "khai hoá" thì bản Tuyên ngôn đã
- Pháp kể công "bảo hộ", thì bản Tuyên ngôn đã
- Pháp khẳng định Đông Dương là thuộc địa của chúng thì bản tuyên ngôn đã
- Chúng nhân danh Đồng minh tuyên bố Đồng minh đã thắng Nhật, vậy chúng có quyền lấy lại
Đông Dương, thì bản Tuyên ngôn đã
Ø Tất cả những lí lẽ bằng chứng trên dẫn đến kết luận không ai có thể phủ nhận được:
2. Phần còn lại: Nội dung chính của Phần còn lại ?
3. Phong cách chính luận Hồ Chí Minh được thể hiện như thế nào trong bản Tuyên ngôn độc lập?
BÀI TẬP VỀ NHÀ
Nghệ thuật viết văn chính luận đặc sắc của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập
Trong hệ thống câu hỏi này chúng tôi đã cố gắng thể hiện kết cấu của bài học để HS có thể giải
quyết từ phần trên cơ sở các em đọc kĩ văn bản. Đồng thời ở Phần 2: Thế mà hơn 80 năm nay…
dân tộc đó phải được độc lập". nội dung chính của đoạn này là: Cuộc tranh luận ngầm với luận
điệu của thực dân Pháp. Đây là phần kiến thức có thể xây dựng bằng phương pháp Thảo luận
nhóm. Do vậy chúng tôi cũng ghi nhận trước để các em có thể chuẩn ngay từ ở nhà sau đó đến
lớp thảo luận trước với các bạn trong nhóm.
Bên cạnh đó chúng tôi có thiết kế thêm bài tập về nhà để các em có thể thực hành thêm nhằm
khắc sâu kiến thức. Ví dụ trong bài soạn trên chúng tôi xây dựng bài tập và yêu cầu các em làm
ở nhà sau khi đã học xong bài Tuyên ngôn độc lập:

Nghệ thuật viết văn chính luận đặc sắc của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập
3.2 Tác dụng của hệ thống câu hỏi trong Bài soạn Ngữ văn 12
v Đối với GV
- Tiết giảm được nhiều thời gian trên lớp, kể cả với những câu hỏi yêu cầu HS thảo luận nhóm. Vì
những kiến thức ấy đã có câu hỏi trước, HS có thể tự thảo luận trước ở nhà cùng các thành viên
trong nhóm.
- Trên cơ sở sự chuẩn bị của HS trên hệ thống câu hỏi, GV thuận lợi trong việc hệ thống hoá kiến
thức nhằm giúp HS khắc sâu hơn kiến thức thông qua việc điều chỉnh những cách tiếp cận chưa
hợp lí của HS đối với văn bản.
- Tăng cường được khả năng thực hành cho HS thông qua hệ thống bài tập được chuẩn bị trước
(đối với phân môn tiếng Việt và Làm văn).
v Đối với HS
- Có thể chuẩn bị tốt bài học trước khi lên lớp trên cơ sở hệ thống câu hỏi chi tiết, cụ thể.
- Có điều kiện thực hành, rèn luyện trên những ngữ liệu mới ngoài SGK.
- Hình thành dần khả năng tự học- một kĩ năng hết sức quan trọng trong việc thâm nhập cuộc
sống trong tương lai của mỗi HS
KẾT LUẬN
Với những điều đã trình bày trên chúng tôi những mong có thể đóng góp một phần nhỏ bé vào
việc nâng cao chất lượng giảng dạy Ngữ văn trong trường THPT Long Hiệp. Đặc biệt trong thời
gian này, những năm đầu của việc thực hiện đại trà chương trình SGK mới. Mặc dù rất cố gắng
nhưng ắt hẳn không thể tránh khỏi những sai sót, chúng tôi mong nhận được sự đóng góp của
quý thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn trong tương lai. Xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Hồng Nam, Tổ chức hợp tác trong dạy học Ngữ văn, Cần Thơ, 2006.
2. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Ngữ văn 12, NXB GD 2007
3. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Sách giáo viên Ngữ văn 12, NXB GD 2007
4. Phan Trọng Luận - Trần Đình Sử, Hướng dẫn thực hiện chương trình sách giáo khoa 12, môn
Ngữ văn, NXB GD 2007
5. Bùi Văn Sơn, Hướng dẫn cán bộ quản lí trường học và giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm,
NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên), Ngữ văn 12 (Nâng cao), NXB GD 2007
7. Trần Đình Sử (Tổng chủ biên), Sách giáo viên Ngữ văn 12 (Nâng cao), NXB GD 2007.
([1]) Nói điều này không phải chúng tôi phủ nhận kết quả biên soạn của tập thể các soạn giả. Sở
dĩ có tình trạng này là xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương (vùng sâu, đông đồng bào
dân tộc), năng lực học tập, năng lực ngôn ngữcủa HS còn nhiều hạn chế trong khi hệ thống câu
hỏi Hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa là là hệ thống chuẩn chung cho cả nước.
([2]) Trong khi khảo sát lại chương trình Ngữ văn 10 (Nâng cao) chúng tôi không thấy văn bản
ca dao nào HS được học thể hiện rõ kết cấu đối đáp.
THỨC THẢO LUẬN NHÓM VÀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI TRONG DẠY HỌC MÔN VĂN Ở TRƯỜNG THCS
CẤU TRÚC SKKN
A. Đặt vấn đề.
I. Cơ sở lí luận.
II. Cơ sở thực tiễn.
1. Đối với giáo viên.
2. Đối với học sinh.
B. Giải quyết vấn đề:
I. Các hình thức thảo luận nhóm,
sử dụng trò chơi trong dạy học môn văn.
1. Hình thức thảo luận nhóm.
1.1. Cách thức tổ chức.
1.2. Chuẩn bị của giáo viên.
1.3. Chuẩn bị của học sinh.
2. Hình thức sử dụng trò chơi.
2.1.Cách thức tổ chức.
2.2.Chuẩn bị của giáo viên.
2.3.Chuẩn bị của học sinh.
II.Phạm vi áp dụng.
III. Bài dạy thực nghiệm.
IV. Kết quả.
C. Kết luận và kiế

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận:
Trong những năm gần đây vấn đề đổi mới phương pháp dạy học luôn được bàn luận một cách
sôi nổi, đó là vấn đề quan trọng luôn được đề cập trong mỗi cuộc họp chuyên môn ở tất cả các
trường học trên cả nước.Với bộ môn văn cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó.
Nghị quyết hội nghị lần II BCH TW Đảng khóa VIII nêu rõ : “Đổi mới phương pháp giáo dục đào
tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học” ;
“phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động , sáng tạo của người học,
bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Trước kia phương pháp dạy – học văn cổ truyền chính là giảng văn và phân tích các nội dung
trong bài học, có lẽ đây là hình thức duy nhất để tiếp cận văn bản.Tuy có những thành công
nhất định thì vẫn là thầy phân tích –trò tiếp nhận.Dù có thành công nhưng vẫn là áp đặt cách
hiểu, cách cảm thụ cho học sinh và lâu dần sẽ dẫn tới sự nhàm chán không thích tìm tòi,sáng tạo
của các em. Chính điều đó đòi hỏi phải có những phương pháp cải tiến trong việc dạy –học văn
trong nhà trường,đây là nhu cầu thiết yếu đối với các nhà giáo dục và đội ngũ giáo viên giảng
dạy môn văn.Chúng ta biết rằng môn văn là môn cơ bản góp phần hình thành nhân cách học
sinh,đặc biệt đối tượng của môn văn là những tác phẩm văn thơ,mà văn thơ lại là nghệ thuật của
ngôn từ. Vì vậy với đối tượng học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà giáo viên chỉ phân
tích, diễn giảng thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Chính vì vậy để thực hiện một giờ học có
hiệu quả thì người giáo viên cần phải sử dụng nhiều phương pháp như: phân tích, diễn giảng,vấn
đáp,nêu vấn đề,gợi ý …và đặc biệt để tạo một giờ học phong phú, sinh động thì việc sử dụng
hình thức thảo luận nhóm sẽ giúp học sinh trao đổi ý với nhau, bổ sung cho nhau các kiến thức
còn thiếu, học sinh sẽ sôi nổi hơn trong học tập. Còn việc lồng ghép một số trò chơi trong quá
trình giảng dạy sẽ giúp học sinh cảm thấy hứng thú, tích cực, sôi nổi hơn đỡ nhàm chán trong
một tiết học văn.
Bất cứ một người giáo viên nào có tâm huyết với nghề đều tự đặt ra câu hỏi làm thế nào để dạy
và học tốt môn văn ?Từ xưa đến nay người ta vẫn nói :“Học văn thì dễ nhưng dạy văn thì rất
khó” và thực tế cũng chứng minh điều đó. Quả là việc dạy văn vô cùng khó bởi dạy văn không
chỉ là dạy đúng, đủ mà còn phải hay, phải lôi cuốn học sinh, làm cho học sinh hứng thú, say mê.
Môn ngữ văn là môn học kết tinh nhiều giá trị văn hóa truyền thống và nhân loại, là môn học có

ý nghĩa trong việc hình thành, phát triển, định hướng nhân cách cho học sinh và rèn luyện những
kỹ năng cơ bản cần thiết cho các em.Mặt khác đây lại là môn học nghệ thuật kích thích trí tưởng
tượng bay bổng,sáng tạo của học sinh .Chính điều này làm cho việc dạy văn càng khó hơn, đặc
biệt với đối tượng học sinh vùng dân tộc thiểu số như ở Cẩm Khê chúng ta .
Thực tế chúng ta thấy rằng ngày càng có ít học sinh đi thi học sinh giỏi môn văn hơn ,các em
cũng cảm thấy chán nản và không mấy hứng thú khi học giờ văn.Chính điều đó đòi hỏi phải có
những phương pháp cải tiến trong việc dạy – học văn trong nhà trường .Đây là nhu cầu cần thiết
đối với các nhà giáo dục và đội ngũ giáo viên giảng dạy môn văn .Với chức năng là một người
làm công tác giảng dạy trong nhà trường bản thân tôi cũng luôn trăn trở là làm thế nào để nâng
cao chất lượng dạy học văn.Trong 5 năm công tác giảng dạy tôi nghiệm thấy rằng,cái ước muốn
học văn sao cho giỏi,dạy văn sao cho hay ,viết văn sao cho tốt là ước muốn của rất nhiều giáo
viên và học sinh.Muốn thực hiện được ước mơ ấy thì chúng ta phải biết tìm tòi,sáng tạo và đưa
ra những cái mới hấp dẫn lôi cuốn học sinh,đặc biệt là người giáo viên chúng ta phải biết làm
mới bài giảng của mình để kích thích học sinh.
Phần nội dung thì không thể làm mới, không thể thay đổi nhưng chúng ta có thể thay đổi và làm
mới hình thức,phương pháp giảng dạy của mình. Điều này thì chúng ta đã và đang thực hiện lâu
nay nhưng cái quan trọng là sự đổi mới của từng người.Với riêng tôi chỉ một vài năm công tác
chưa được xem là nhiều nhưng tôi cũng đã tự rút ra cho mình một vài kinh nghiệm nhỏ,hy vọng
trao đổi cùng đồng nghiệp, mong góp một phần nhỏ kinh nghiệm của mình vào công tác dạy học
môn ngữ văn của huyện nhà. Đó chính là sử dụng “hình thức thảo luận nhóm,và tổ chức trò
chơi” trong dạy học môn văn ở trường THCS.
II. Cơ sở thực tiễn :
Chúng ta thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học đã đem lại nhiều kết quả khả quan, song
bên cạnh những thuận lợi thì chúng ta còn gặp vô vàn những khó khăn .Đặc biệt đối với những
giáo viên đang giảng dạy ở huyện Cẩm Khê. Những khó khăn đó một mặt ở học sinh nhưng cũng
một phần ở chính những người giáo viên chúng ta.Môn ngữ văn trong nhà trường có vị trí quan
trọng bởi nó giáo dục phẩm chất đạo đức, cung cấp kiến thức tự nhiên và xã hội cho các em nên
việc dạy học văn vừa thuận lợi cũng vừa khó khăn:
1. Đối với giáo viên:
Thực tế huyện Cẩm Khê chúng ta số lượng giáo viên dạy văn còn quá trẻ,nhiều người mới bước

vào nghề một hai năm nên kinh nghiệm giảng dạy còn ít Có một số giáo viên dạy chừng 5-7
năm có chút kinh nghiệm lại chuyển đi nơi khác, thành thử trên toàn trường chỉ còn lại giáo viên
trẻ dẫn tới khi giảng dạy các thao tác xử lý bài giảng còn hạn chế, truyền đạt nội dung, kiến thức
bài học còn chật vật khó khăn. Đây là một khó khăn và cũng là một thử thách không nhỏ đối với
đội ngũ giáo viên dạy văn huyện nhà. Ngay bản thân tôi dù đã công tác được 5 năm song tôi
cũng chỉ là một giáo viên trẻ cần học hỏi thêm rất nhiều ở đồng nghiệp đi trước .Nhưng rồi
quanh quẩn cũng chỉ vài giáo viên trong trường với nhau mà cũng toàn giáo viên trẻ với một hai
năm đứng lớp kinh nghiệm chưa nhiều dẫn tới việc trao đổi, góp ý chỉnh sửa những thiếu sót còn
hạn chế. Đặc biệt là không có những sáng kiến, kinh nghiệm phù hợp với đặc điểm học sinh để
chúng tôi có thể trao đổi học tập rút kinh nghiệm.
1.Đối với học sinh:
Tất cả chúng ta đều thấy rõ một điều, hiện nay học sinh bước chân lên bậc THCS còn rất nhiều
em chưa đọc thông viết thạo. Đây là một trở ngại quá lớn khi các em lại tiếp tục phải tìm hiểu,
khám phá những kiến thức cao hơn ,rộng lớn hơn ,trìu tượng hơn.
Do đặc điểm vùng miền mà học sinh của chúng ta khả năng tư duy còn rất hạn chế ,hầu như các
em chưa có tư duy sáng tạo, tư duy logic.Với các môn học khác các em cố gắng học thuộc, học
vẹt những điều đã có ở trong sách giáo khoa , còn bộ môn văn do tính đặc thù đó là một môn
học nghệ thuật kích thích trí tưởng tượng sáng tạo của mỗi người học sinh ,môn học mà chất liệu
là ngôn từ với những hàm nghĩa sâu xa. Và hiện nay do chương trình vẫn còn những bài dạy dài
so với thời lượng từ 45-90 phút nghiên cứu trên lớp nên học sinh lại càng khó tiếp thu hết kiến
thức .Chính điều này mà học sinh của chúng ta bị hạn chế rất nhiều trong việc tiếp thu và cảm
thụ tác phẩm văn chương .
Thứ hai do trình độ nhận thức của cha mẹ và ngay chính học sinh còn hạn chế. Thực tế còn có
nhiều bậc phụ huynh không biết chữ nên phó mặc chuyện học hành của con cái cho nhà
trường,ở nhà cha mẹ không hướng dẫn, chỉ bảo được cho con em mình mà chủ yếu là khoán
trắng cho các em tự lo. Có cha mẹ còn không muốn con đi học mà chỉ muốn con ở nhà đi làm
kiếm tiền.Cũng có cha mẹ đã nhận thức được việc học là quan trọng ,cũng đã có sự quan tâm
nhưng sự quan tâm đó cũng chỉ là ‘hãy cố gắng học đi con” rồi để các con tự lo, từ góc học tập
cũng chưa lo được cho con,đồ dùng học tập của con cũng không biết có đầy đủ hay không ?
hôm nay con có đến lớp đúng giờ hay không? …Chính vì vậy học sinh ngày càng lơ là hơn trong

việc học .
Đặc biệt chúng ta thấy rằng bộ môn văn là một bộ môn cần đầu tư nhiều thời gian nhất, nhưng
đối với học sinh thuộc địa bàn huyện Đam Rông chúng ta việc đầu tư cho môn văn là điều khó
khăn. Bởi học sinh của chúng ta ngoài thời gian học trên lớp ra, về đến nhà là buông sách vở lo
lao động ,lên nương, lên rẫy kiếm sống, nhiều em còn là lao động chính trong gia đình, ban ngày
lao động vất vả ban đêm các em không thể đầu tư cho học hành được nhiều.Đây là một trở ngại
lớn nhất trong quá trình dạy –học trên địa bàn huyện Cẩm Khê chúng ta.
Bên cạnh những vấn đề trên thì trên thực tế vẫn còn một số ít học sinh ham thích môn văn,các
em cũng mong muốn trở thành những học sinh giỏi môn văn bằng chứng là vẫn có những học
sinh tham dự kì thi học sinh giỏi văn cấp huyện .Tuy nhiên những học sinh này cũng như các học
sinh khác gia đình thì khó khăn thiếu tiền hỗ trợ để mua các phương tiện ,tài liệu học tập ,sách
tham khảo…Chính điều này dần dần làm các em ngại và không mấy đầu tư vào môn văn.
Với tất cả những khó khăn trên dẫn tới vấn đề chúng ta dạy học theo phương pháp trên học sinh
của chúng ta thực hiện các thao tác chưa được nhanh nhẹn, một số em còn ỷ lại trông chờ bạn
bên cạnh trả lời, tư duy ,sáng tạo của các em còn hạn chế nên quá trình thực hiện nội dung bài
học còn chậm chạp.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Các hình thức thảo luận nhóm,sử dụng trò chơi trong dạy học môn văn:
1.Hình thức thảo luận nhóm.
1.1.Cách thức tổ chức.
Với hình thức thảo luận nhóm thì chúng ta có thể sử dụng trong tất cả các tiết dạy ở tất cả các
bài. Còn hình thức tổ chức trò chơi thì chúng ta chỉ có thể áp dụng ở một số bài cho phù hợp
,chứ không phải bài nào cũng đem áp dụng. Tuy nhiên để sử dụng các trò chơi trong một tiết
dạy thì bắt buộc trong đó sẽ có hình thức thảo luận nhóm. Khi cho học sinh thảo luận nhóm có
rất nhiều cách để chúng ta thực hiện :
1.1.1. Viết sẵn câu hỏi ra giấy kẻ ngang rồi phát cho học sinh mỗi tổ 1tờ.
1.1.2. Ghi ra giấy rôki treo lên bảng hoặc bảng phụ,bảng mêka.
1.1.3. Chỉ cho học sinh câu hỏi trong sách và học sinh nhìn vào để thảo luận.
1.1.4.Từ một ý kiến của học sinh tổ chức cho các em thảo luận .
1.2.Chuẩn bị của giáo viên:

1.2.1.Chuẩn bị phương tiện:
1.2.1.1.Bảng phụ hoặc giấy rôki,bảng mêka viết bút phốt.
1.2.1.2.In hoặc viết sẵn câu hỏi ra giấy A4.
1.2.1.3.Câu hỏi phải được viết thẩm mĩ ,khoa học.
1.2.2.Chuẩn bị nội dung:
1.2.2.1.Câu hỏi thảo luận nên chia nhỏ,câu hỏi khó phải có câu hỏi gợi mở.
1.2.2.2. Nội dung câu hỏi phải rõ ràng ,phù hợp đối tượng học sinh .
1.2.2.3.Câu hỏi phải phát huy khả năng tư duy , kích thích khả năng sáng tạo cho học sinh.
1.2.2.4.Các câu hỏi chỉ tập trung xoay quanh nội dung chính của bài học.
1.2.2.5.Thời gian thảo luận không quá ngắn học sinh không kịp định hình,cũng không quá dài
ảnh hưởng tới thời gian tiết học.
1.2.2.6. Phân nhóm cho học sinh thảo luận không nên quá ít mà cũng không quá đông.
1.2.2.7.Học sinh thảo luận xong giáo viên gọi một hai nhóm trả lời còn lại thu bài về nhà chấm
và sửa hôm sau phát lại (tránh mất nhiều thời gian của tiết học).
1.2.2.8.Phân công một học sinh nhanh nhẹn làm trưởng nhóm, một học sinh ghi nhanh làm thư
kí .
1.2.2.9.Việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm thì có thể sắp xếp bất kì khoảng thời gian nào
trong tiết dạy.
1.3.Chuẩn bị của học sinh:
1.3.1.Phiếu học tập,
1.3.2. Đọc kĩ các câu hỏi trong phần bài học.
1.3.3. Ghi ý kiến của bản thân về các câu hỏi cho là khó.
*Ví dụ: Khi dạy văn bản: “Chuyện người con gái Nam Xương” để làm rõ hơn nhân cách cao đẹp
của nhân vật Vũ Nương chúng ta có thể dùng câu hỏi thảo luận như sau:
? Lời trăng trối của bà mẹ chồng giúp ta hiểu thêm điều gì về Vũ Nương.
* Hoặc khi dạy văn bản: “Đồng chí” của Chính Hữu để thấy rõ nghệ thuật của bài thơ cũng như
sự chuyển ý thơ chúng ta có thể đặt câu hỏi:
? Câu thơ thứ 7 trong bài có điều gì đặc biệt.
*Đối với bài: “ Bếp lửa” của Bằng Việt:
? Tại sao tác giả lại viết “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” sau đó dùng câu hỏi gợi: ( từ ấp iu thể

hiện hành động như thế nào? Bếp lửa luôn gắn với hình ảnh nào trong bài thơ? Bếp lửa có thể
hiện được sự ấp iu không ?
*Đối với bài: “Ánh trăng” của Nguyễn Duy :
? Tư thế, tâm trạng , cảm xúc của tác giả khi đột ngột gặp lại vầng trăng?
2.Hình thức sử dụng trò chơi trong dạy học văn.
2.1.Cách thức tổ chức.
Đối với việc sử dụng trò chơi thì chúng ta cũng cần chú ý lựa chọn trò chơi phù hợp với từng nội
dung bài dạy và thời gian của tiết học.Có thể sử dụng trò chơi “giải ô chữ” , “rung chuông vàng”,
“tiếp sức” …
Ví dụ :để dạy các văn bản ,những tác phẩm truyện chúng ta có thể tổ chức cho học sinh chơi trò
chơi : “giải ô chữ” bằng cách kẻ sẵn các ô chữ trên bảng phụ và đưa ra các câu hỏi gợi ý để tìm
ra nội dung
,nghệ thuật chính của truyện.Giáo viên cũng có thể tổ chức trò chơi “rung chuông vàng” ở cuối
tiết học bằng cách phân chia lớp thành nhiều nhóm và đưa ra những câu hỏi trắc nghiệm để học
sinh thảo luận ,nhóm nào trả lời đúng sẽ được điểm tối đa .Hoặc khi dạy các bài tiếng việt chúng
ta có thể tổ chức trò chơi “tiếp sức” ví dụ :học sinh này đưa ra ví dụ ,học sinh trong nhóm bổ
sung lẫn nhau đến khi rút ra được kết luận thì giáo viên ghi điểm cho nhóm đó.Tuy nhiên phải
chú ý một điều khi tổ chức các trò chơi giáo viên cần lưu ý nêu trước thể lệ trò chơi và quy định
thời gian cho học sinh biết để thực hiện.Và đặc biệt phải chú ý kết hợp các phương pháp khác để
có hiệu quả cao trong tiết dạy. Và khi đưa ra câu hỏi gợi ý trong trò chơi “giải ô chữ” giáo viên
phải chú ý sử dụng các câu hỏi gợi mở để học sinh nhanh chóng tìm ra ô chữ không để làm ảnh
hưởng đến tiết học và cuối cùng học sinh sẽ tìm ra được từ khóa chính là nội dung bài học ,hoặc
một phần của bài học ,ở mỗi một gợi ý tùy học sinh lựa chọn ô chữ để tăng thêm phần sôi nổi ,
hấp dẫn.học sinh trong nhóm trả lời không đúng giáo viên có thể gọi em khác tiếp sức thêm
tránh để thời gian chết.
2.2.Chuẩn bị của giáo viên.
2.2.1.Đọc ,tìm hiểu nội dung bài học.
2.2.2.Xác định nội dung quan trọng nhất cần sử dụng trò chơi.
2.2.3.Sắp xếp các ô chữ trong bảng phụ,nếu dạy ứng dụng công nghệ thông tin chỉ việc cài đặt
chế độ trong máy khi giảng dạy thực hiện từng bước với từng câu hỏi.

2.2.4.Hướng dẫn thể lệ , cách thức thực hiện trò chơi.
*Ví dụ: Khi dạy bài “Ôn tập truyện trung đại” để cho giờ học sôi nổi hơn ,học sinh không cảm
thấy nhàm chán ,gò bó chúng ta có thể sử dụng trò chơi “Rung chuông vàng” .
Giáo viên chia lớp thành 4 đội sau đó nêu thể lệ cách thức,quy định của trò chơi.
Lần lượt nêu các câu hỏi về các tác giả,năm sinh ,quê quán ,nội dung , nghệ thuật của các văn
bản đã học.
Các nhóm trả lời, giáo viên lần lượt loại những học sinh trả lời sai.
Cuối cùng còn lại học sinh của nhóm nào trả lời đến câu hỏi cuối cùng thì nhóm đó được rung
chuông vàng.
*Hoặc khi dạy bài “Tổng kết về từ vựng” chúng ta có thể sử dụng trò chơi tiếp sức.
Chia nhóm và công bố thể lệ ,cách thức trò chơi.
Mỗi chuẩn bị một nội dung của bài học.
Lần lượt gọi học sinh trong nhóm trả lời .Nhóm nào trả lời tiếp sức đúng thì đạt điểm tối đa,
nhóm nào không tiếp sức được đổi cho nhóm khác và bị điểm trừ.
*Khi dạy tiết tập làm văn: “ Người kể chuyện trong văn bản tự sự” chúng ta có thể sử dụng trò
chơi giải ô chữ để tìm ra ngôi kể thứ nhất và vai trò của ngôi kể thư nhất.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ cụ thể về việc áp dụng các hình thức thảo luận và sử dụng trò chơi
trong dạy học văn. Trong chương trình ngữ văn THCS còn rất nhiều bài có thể áp dụng cả hai
hình thức trên.
II.Phạm vi áp dụng:
1.Các hình thức trên được áp dụng ở học sinh khối 9 trường THCS Cẩm Khê.
2.Phạm vi áp dụng các hình thức trên với phần văn bản đặc biệt một số văn bản tự sự 2.1.Văn
bản: “chuyện người con gái Nam Xương”.
2.2.Tác phẩm:“Truyện Kiều”.
2.3. Văn bản “Làng”.
2.4. Văn bản: “Lặng lẽ Sa Pa”.
2.5. Văn bản:“ Chiếc lược ngà”,(học kì I);
2.6.Văn bản: “Những ngôi sao xa xôi’.
2.7. Văn bản: “Bến quê”….
3.Tiếng việt :

3.1.“ Các phương châm hội thoại” ,
3.2.“Xưng hô trong hội thoại”, ….
4.Tập làm văn:
4.1. Bài: “Miêu tả trong văn tự sự”,
4.2. Bài: “Đối thoại ,độc thoại .độc thoại nội tâm”,
4.3. Bài: “Người kể chuyện trong văn tự sự”….
Bài dạy thực nghiệm : tiết 68 tập làm văn “người kể chuyện trong văn tự sự” –NV 9 (Học kì I).
III.Bài dạy thực nghiệm:
Tất cả những vấn đề đã nói ở trên chỉ là lý thuyết và để thấy được kết quả cụ thể thì bản thân
tôi đã tiến hành thực hiện cụ thể một tiết dạy tập làm văn có sử dụng hình thức thảo luận nhóm
và trò chơi như sau:
1.Về phía chuẩn bị của giáo viên:
1.1.Giáo viên thực hiện quy trình lên lớp với bài “người kể chuyện trong văn tự sự” như một tiết
dạy bình thường ,trong khi giảng dạy căn cứ từng câu hỏi cho học sinh thảo luận nhóm và chơi
các trò chơi.
1.2Giáo viên dặn dò học sinh chuẩn bị bài ở nhà .
1.3Lên lớp hướng dẫn cho học sinh biết về hình thức học tập,cách thức tiến hành trò chơi ,thảo
luận như thế nào để các em định hình được.
1.4.Nếu dạy bình thường thì giáo viên chuẩn bị một bảng phụ bằng mêca để sử dụng bút phốt
còn nếu dạy học ứng dụng công nghệ thông tin thì có sự thuận lợi hơn đó là khi đưa ra các ô
chữ chúng ta có thể cho xuất hiện lần lượt với các kiểu chữ khác nhau ,từ chìa khóa có thể được
bôi màu ẩn đi khi học sinh trả lời xong mới xuất hiện .khi học sinh trả lời đúng trên máy chúng ta
cài chế độ cổ vũ ,khen thưởng làm học sinh hứng thú hơn .
2.Về phía chuẩn bị của học sinh:
2.1.Cần đọc các ví dụ thật kỹ nghiên cứu các câu hỏi trong SGK
2.2.Có thể chuẩn bị sẵn phiếu học tập và giấy nháp.
3.Tiến trình bài học:
-Ổn định tổ chức
-Kiểm tra bài cũ: bằng hình thức vấn đáp hoặc trắc nghiệm.
-Bài mới:

*Hoạt động 1:Giới thiệu bài (dẫn vào bài).
*Hoạt động 2: Học sinh đọc đoạn trích SGK trả lời các câu hỏi nhỏ(a,b,c) riêng câu d để kích
thích khả năng tư duy của học sinh giáo viên tổ chức phát phiếu học tập trong đó có các câu hỏi
gợi ý để học sinh thảo luận trả lời.
*Hoạt động 3: giáo viên đọc đoạn trích qua một lần chia lớp thành 4 nhóm và tổ chức trò chơi
“giải ô chữ” để học sinh xác định được nội dung đọan trích ,ngôi kể,vai trò của ngôi kể.
*Hoạt động 4: Giáo viên dùng hình thức vấn đáp để học sinh so sánh vai trò của hai ngôi kể
( ngôi thứ 3 và ngôi thứ nhất ).
Tuần 14
Tiết 68
Tập làm văn: NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ
A.Mục đích yêu cầu:
- KT:giúp học sinh hiểu và nhận diện được thế nào là người kể chuyện , vai trò và mối quan hệ
giữa người kể với ngôi kể trong văn tự sự.
-KN:Rèn luyện kỹ năng nhận diện ngôi kể và chuyển đổi ngôi kể trong văn tự sự
-TĐ: Nhập vai phù hợp khi kể chuyện , sử dụng ngôi kể thích hợp không lẫn lộn khi viết văn,khi
kể chuyện.
-Tích hợp: văn bản “lặng lẽ Sa Pa” tiết luyện nói của tuần 13 .
B.Phương pháp: Đàm thoại ,vấn đáp,gợi mở, thảo luận ,sử dụng trò chơi.
C.Chuẩn bị : -GV: bài soạn , tìm hiểu các đoạn văn có các ngôi kể khác nhau, phiếu học tập
,bảng phụ có ô chữ, bút phốt.
-HS: tìm hiểu các đoạn văn trong SGK ,phiếu học tập.
D.Tiến trình bài dạy:
1.ổn định tổ chức: kiểm tra sĩ số lớp,vệ sinh lớp học.
2.Kiểm tra bài cũ: dùng hình thức vấn đáp:
-GV: Khi kể chuyện người kể thường sử dụng các ngôi kể nào?
Khi người kể xưng “tôi’ trong văn bản thì ngôi kể đó thuộc ngôi kể nào?
-HS: Khi kể chuyện người kể thường sử dụng các ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba để kể chuyện.
Khi người kể xưng “tôi” thì ngôi kể đó thuộc ngôi kể thứ nhất.
3.Bài mới: giới thiệu bài :

ở các lớp 6,7,8 các em đã được học về ngôi kể và chuyển đổi ngôi kể .Trong chương trình ngữ
văn lớp 9 ,các em tiếp tục được học nâng cao hơn một bước về người kể chuyện và ngôi kể
trong văn bản tự sự ,cụ thể như thế nào chúng ta cùng tìm hiểu giờ học hôm nay.
*Tiến trình bài học:
*Hoạt động 1: ngữ liệu và phân tích ngữ liệu:
-HS: đọc đoạn trích SGK/192
-GV nêu vấn đề: đoạn trích trên được trích từ văn bản nào ,của tác giả nào?
?Đoạn trích trên kể về ai ? kể về sự việc gì?
?Ai là người kể về các nhân vật và sự việc trên.
? Những dấu hiệu nào cho biết ở đây không phải là các nhân vật trong đoạn trích kể chuyện?
( gợi: người kể có xưng tôi hoặc tên của một trong ba nhân vật không?).
-HS: trả lời
-GV: chốt ý.
? Những câu “giọng cười ….tiếc rẻ”, “những người ….như vậy” là nhận xét của người nào ,về ai?
-HS: trả lời
-GV:=> đó là lời của người kể chuyện về anh thanh niên và suy nghĩ của anh ta.
HS: Thảo luận câu d* SGK (3phút)
-GV: gợi ý : căn cứ vào chủ thể kể câu chuyện ,đối tượng được miêu tả, ngôi kể, điểm nhìn của
người kể và lời văn.
-GV: phát phiếu học tập->HS: Thực hiện
-GV ùng bảng phụ đã ghi sẵn nội dung và phân tích
? Đoạn trích trên được kể theo ngôi thứ mấy ? người kể chuyện có vai trò gì ?
- HS: Thực hiện ghi nhớ Sgk/193.
*Hoạt động 2:
-phân tích ngữ liệu 2
-HS: Đọc đoạn trích 2phút:
-GV:chia lớp thành 4 nhóm và tổ chức trò chơi “giải ô chữ” trong thời gian 5phút
Nêu thể lệ ,cách thức tiến hành trò chơi
+ trò chơi có các ô chữ gồm 8 hàng ngang
Mỗi một hàng ngang có một gợi ý để trả lời

Lần lượt các tổ được gọi và lựa chọn hàng ngang
-Hàng ngang số1: gồm 10 chữ cái :Bút danh của tác giả đoạn trích trên là gì?
-Hàng ngang thứ 2: gồm 11 chữ cái: tên của văn bản trên ?
-Hàng ngang thứ 3:gồm 6 chữ cái :nhân vật chính đoạn trích trên là ai?
-Hàng ngang thứ 4:gồm 3 chữ cái : câu nói đầu tiên khi mẹ chú bé gặp chú bé là gì?
-Hàng ngang thứ 5: gồm 3 chữ cái : người kể chuyện trong đoạn trích xưng hô như thế nào?
-Hàng ngang thứ 6:gồm 7 chữ cái: khi đuổi theo mẹ chú bé đã thở như thế nào?
-Hàng ngang thứ 7:gồm 11 chữ cái :mẹ chú bé đã lấy vạt áo làm gì ?
-Hàng ngang thứ 8:gồm 1 chữ cái: số đầu tiên trong dãy số tự nhiên?
-Từ chìa khóa: hàng dọc gồm 8 chữ cái bắt đầu bằng chữ N là ngôi kể của đoạn trích?
? So sánh vai trò của 2 ngôi kể ?( gợi :ngôi kể thứ 3 có ưu ,nhược gì ,ngôi kể thứ nhất có ưu
nhược gì ?)
-GV: Phân tích qua và củng cố lại nội dung của bài.
*Hoạt động 3:
-GV:Tổ chức cho học sinh chuyển đổi ngôi kể .
-HS :Thực hiện.
-GV:Nhận xét
I.Vai trò của người kể chuyện trong văn bản tự sự :
1.Đoạn trích SGK/192:
-kể về phút chia tay giữa người họa sĩ già ,cô kỹ sư và anh thanh niên.
-người kể không xuất hiện trong câu chuyện (vô nhân xưng )
-người kể ở ngôi thứ ba (tác giả là người kể câu chuyện.
Ngôi kể này người kể chuyện dường như biết hết ,thấy hết mọi việc
=> Trong văn bản tự sự kể theo ngôi thứ 3 người kể dấu mình đi nhưng lại có mặt khắp nơi
trong văn bản nên miêu tả bao quát các đối tượng ,tạo ra cái nhìn nhiều chiều .Người kể có vai
trò dẫn dắt người đọc vào câu chuy
* Ghi nhớ SGK /193:
2.Đoạn trích SGK/ 193:
N G U Y Ê N H Ô N G
T R O N G L O N G M E

B E H Ô N G
C O N N I N Đ I
T Ô I
H Ô N G H Ô C
T H Â M N Ư Ơ C M Ă T
I
*.Kết luận:
- Đoạn trích kể về cuộc gặp gỡ cảm động giữa chú bé Hồng với mẹ .
-Cách kể ở đọan trích này xưng “tôi” là bé Hồng .
-Người kể chuyện xưng “tôi” thuộc ngôi thứ nhất
=> người kể đi sâu miêu tả nội tâm với những diễn biến tinh vi ,phức tạp đang diễn ra trong tâm
hồn mình.Tuy nhiên lại không bao quát được các đối tượng
II.Luyện tập:
-Chuyển đổi ngôi kể ở đoạn trích 1 thành ngôi kể thứ nhất với người kể chuyện là anh thanh
niên.
*Hoạt động 4: Củng cố -dặn dò:
- GV: hệ thống lại vai trò người kể chuyện ở hai ngôi kể trên
- Về nhà các em chuyển đổi ngôi kể ở hai đoạn trích trên theo các ngôi
-Soạn bài “ Chiếc Lược Ngà”
………………………………………… ………�� �
KẾT QUẢ
Trên đây là một vài nhận biết và việc làm cụ thể của bản thân tôi trong việc thực hiện theo tinh
thần đổi mới phương pháp dạy – học giúp học sinh hứng thú hơn trong giờ học môn ngữ văn ở
trường trung học cơ sở. Qua tiết dạy có vận dụng hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi
trong dạy học môn ngữ văn ở trường trung học sở Phượng Vĩ tôi đã thu được một số kết quả
sau:
-Tiết học tập làm văn khi xưa trầm lắng ,tẻ nhạt ,chỉ có thầy hỏi trò trả lời thì bây giờ các em
cảm thấy thoải mái hơn ,sôi nổi thảo luận với nhau và đưa ra các ý kiến của bản thân.
-Giờ học không còn là thầy hỏi rồi tự trả lời mà đã có học trò tham gia đối thoại ,tranh luận
-Các em cảm thấy hứng thú hơn không uể oải trong giờ học .

-Các em rất thích thú với việc tổ chức trò chơi ,hầu như tất cả học sinh đều muốn tham gia vào
cuộc chơi đó
-Và đặc biệt có những em học yếu cũng tích cực tham gia trò chơi .Khi học sinh đã tích cực tham
gia sôi nổi thì sẽ tránh được hiện tượng không chú ý khi thầy cô giảng
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Với hình thức thảo luận nhóm và sử dụng trò chơi trong dạy học môn ngữ văn ở trường trung
học cơ sở đã một phần gây hứng thú hơn trong tiết học ,học sinh đã có sự chuyển biến hơn tích
cực giao lưu với thầy cô giáo hơn ,trong mỗi giờ học tất cả học sinh đều tham gia và muốn tham
gia vào quy trình dạy –học,các em không còn thụ động ngồi nghe giáo viên giảng bài mà cảm
thấy hứng thú hơn ,hăng say phát biểu bài hơn.Tuy nhiên đây chưa phải là phương pháp tối ưu
nhất bởi vì cũng không phải tiết dạy văn nào chúng ta cũng áp dụng được các trò chơi một cách
hiệu quả .Chính vì vậy khi dạy bất kì một tiết học nào chúng ta cũng cần kết hợp rất nhiều các
phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả cao trong quá trình giảng dạy của mình.
Hình thức thảo luận nhóm thì chúng ta đã áp dụng từ rất lâu và ít nhiều đã đạt kết quả cao trong
dạy học,còn hình thức sử dụng trò chơi khi giảng dạy môn ngữ văn chắc chắn đây là hình thức
đang còn khá mới mẻ đối với mỗi giáo viên văn .Mặc dù trong quá trình giảng dạy bản thân tôi
cũng nhận thấy còn một số thiếu sót ,hạn chế khi áp dụng các hình thức trên .Bởi kinh nghiệm
trên chỉ là kinh nghiệm chủ quan của cá nhân tôi và những
kinh nghiệm đó bản thân tôi cũng chỉ mới áp dụng ở một số tiết ở lớp 9 trong những tháng gần
đây.Tuy nhiên tôi cũng xin được chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp mong góp một chút sức mình
vào công tác đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường .Trong quá trình thể nghiệm và
viết lý thuyết những kinh nghiệm này không tránh khỏi thiếu sót rất mong được sự góp ý ,chỉnh
sửa của lãnh đạo nhà trường cũng như của các đồng nghiệp.
Qua việc chia sẻ một chút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy của mình bản thân, tôi cũng rất
mong được sự quan tâm,giúp đỡ của các cấp lãnh đạo:
*Về phía nhà trường:
Cần đầu tư thêm tài liệu tham khảo về môn văn,sắp xếp để các em học sinh có điều kiện tham
khảo,nghiên cứu.Có thể mua thêm máy chiếu để việc giảng dạy thuận lợi hơn.
*Về phía lãnh đạo phòng giáo dục:
Nên tăng cường mở các hội nghị ,chuyên đề trao đổi về phương pháp dạy học phù hợp với đối

tượng học sinh.
1. Bình giảng tác phẩm Những đứa con trong gia đình
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH
ĐỖ KIM HỒI
Đã có một lần nào, tôi thử điểm lại trong trí nhớ của mình tên những tác phẩm chính của Nguyễn
Thi: Người mẹ cầm súng, Mẹ vắng nhà, Những đứa con trong gia đình, Những sự tích ở đất thép,
Ước mơ của đất, Chuyện xóm tôi, Ở xã Trung Nghĩa… Để rồi sực nghĩ ra rằng: hình như làm nên
một Nguyễn Thi trong nền văn học của chúng ta không phải là cảm hứng về những gì lạ lẫm, xa
vời, bay bổng, mà là Mẹ, là Đất, là Quê hương, làng xóm, những cái gắn bó ruột rà, thân thiết
với đời sống thuần hậu và còn rất nhiều cực khổ của con người. Đọc Nguyễn Thi, thấy tác phẩm
của ông nồng nàn hơi thở thô phác, ấm áp và mạnh mẽ của đất đai, những nhân vật của ông
cắm chắc vào đời sống, luôn luôn lăn lộn trong gian nguy vất vả, da dẻ cứ đỏ au lên vì nắng gió,
khẩu súng lúc nào cũng ấm tay người và áo quần dường như vẫn đẫm chất mồ hôi mặn mòi,
khét cháy.
Có thể bởi vậy mà khi nghĩ đến Nguyễn Thi, trong óc tôi thường cứ hay hiện về một ý thơ của
Nadim Hikmet:
Làm đám mây rất thích
Làm con chim lại càng thích hơn.
Nhưng tôi vui sướng được làm con người,
Và cái yêu thích nhất của tôi là đất,
… Hễ cứ rời xa mặt đất là một nỗi buồn xâm chiếm lấy tôi …
Nguyễn Thi hay viết về người anh hùng. Phẩm chất anh hùng, có thể nói, luôn có mặt ở các mức
độ khác nhau trong hầu như tất cả các nhân vật chính diện trong tác phẩm của ông. Nhưng đó là
kiểu người anh hùng – con đẻ của đất cày và sông nước; ở đó, cái anh hùng hòa lẫn với cái bình
dị, sự cao cả hiện ra dưới vẻ thân thuộc, gần gũi, chất phác tự nhiên, và rất lắm khi chất anh
hùng lại bộc lộ ra qua những biểu hiện đến là thơ ngây, ngộ nghĩnh.
Có cảm giác như, khi tìm cách lí giải, cắt nghĩa phẩm chất anh hùng của con người, Nguyễn Thi
đã rất tâm đắc với ý tưởng nghệ thuật này: người anh hùng đó là sản phẩm sinh ra từ thời đại.
Nhưng người anh hùng lại không chỉ là sản phẩm của thời đại mà thôi. Đọc Nguyễn Thi, ta thấy
rõ: phẩm chất anh hùng của họ còn phải được hiểu như sự tiếp nối một nguồn cội, một nếp nhà,

còn phải được xem như là truyền thống, là di sản, một di sản thiêng liêng mà các thế hệ cha anh
đã truyền lại, đã bàn giao lại cho lớp cháu con. Tôi thấy Nguyễn Thi hình như không muốn chia
sẻ với loại cảm hứng thiên về khai thác những xung đột lí tưởng giữa những con người trong một
gia đình hay dòng họ. Hứng thú nghệ thuật của ông dồn cả cho kiểu gia đình như gia đình chị Út
trong Người mẹ cầm súng và nhất là trong Mẹ vắng nhà, ở đó, người mẹ đã đem lại cho đứa con
không chỉ một hình hài mà còn là một tấm gương về cách sống.
Nhưng ở vị trí trung tâm của Mẹ vắng nhà đang là những đứa trẻ còn rất nhỏ và còn chưa rời
khởi mái nhà của cha mẹ. Vấn đề sẽ có ý nghĩa nhiều hơn trong một truyện ngắn khác, cái
truyện ngắn mà giờ đây ta bàn tới, truyện Những đứa con của gia đình.
Nhân vật chính trong thiên truyện là những thanh niên đã bước sang lứa tuổi mười tám đôi
mươi, đã trở thành những chiến sĩ xông pha trận mạc, và đã lập chiến công. Hai chị em Chiến,
Việt – tên những thanh niên ấy – đã từng bắn giặc trên sông Định Thủy. Riêng Việt, cậu em trai,
còn “diệt được một xe đầy Mĩ với sáu thằng Mĩ lẻ” trong một trận đọ lê đẫm máu. Vậy mà trong
tác phẩm, Nguyễn Thi vẫn thể hiện họ trong tư cách những đứa con. Họ quả có được miêu tả
trong quan hệ với anh em đồng đội: anh Tánh, anh Công… Thế nhưng họ vẫn được miêu tả
nhiều hơn trong quan hệ với gia đình.
Còn một điểm khác nữa giữa truyện ngắn này với truyện Mẹ vắng nhà mà ta vừa nhắc đến: ở
đây, được nói tới như những đứa con trong gia đình lại là Chiến, Việt, những người mà gia đình
thực đã không còn nữa: cha mẹ đều đã hi sinh, ngôi nhà cũ đã nhường để làm trường học, bàn
thờ má phải gửi sang nhà khác, và bản thân thì đang chiến đấu ở nơi xa… Nhưng ngay cả với
những người như thế, hình ảnh của gia đình, những kí ức về gia đình, những tình cảm với gia
đình và những truyền thống mà họ là lớp người kế tục… tất cả vẫn sống như là một thực thể,
một nguồn sinh lực nuôi dưỡng tinh thần, một nguồn sáng soi đường cho con người cảm xúc,
nghĩ suy, hành động.
*
* *
Những đứa con trong gia đình có một lối tự sự mang khá nhiều nét riêng. Câu chuyện được
thuật lại không hoàn toàn theo trật tự thời gian mà chủ yếu là nhịp theo dòng hồi tưởng miên
man đứt nối của Việt, vào lúc người chiến sĩ trẻ ấy bị thương sau cuộc đọ lê, cứ liên tục ngất đi
rồi tỉnh lại trong hoàn cảnh chỉ có mình với mình giữa một chiến trường mênh mông đầy bóng tối

– bóng tối của màn đêm và bóng tối do mắt Việt bị thương nên không thể nhìn thấy gì ở bên
ngoài.
Khi chọn kiểu kể chuyện này không rõ tác giả có nghĩ đến và có chịu ảnh hưởng gì của lối viết
theo “dòng ý thức” của tác giả bộ Đi tìm thời gian đã mất hay không. Nhưng lối thuật chuyện mà
Nguyễn Thi đã chọn quả có giúp tác giả dễ dàng cất bỏ những tấm vách ngăn giữa quá khứ và
hiện tại, giữa cái đang ở trước mặt và cái đã thành kỉ niệm xa xưa, giữa những chi tiết thoáng
đến thoáng đi, tưởng chứng như bâng quơ, như ngẫu nhiên, với những tư tưởng tình cảm lớn
lao, trọng đại.
Hãy dõi theo một đoạn văn nào đó, chẳng hạn như cái đoạn bắt đầu từ câu: “Việt tỉnh dậy lần
thứ hai lúc trời lất phất mưa”. Tiếng máy bay, tiếng động duy nhất mà Việt nghe thấy trên một
bãi chiến trường đã trở nên vắng lặng từ lần tỉnh đầu tiên, bây giờ đã tắt hẳn rồi. Chỉ còn tiếng
“ếch nhái kêu dậy lên”. Âm thanh ấy dẫn Việt trở lại những ngày còn chưa đi bộ đội, những đêm
trời vừa dứt mưa, hai chị em lóp ngóp ra đồng soi đèn bắt ếch. “Cười từ lúc đi cho đến lúc về”.
Mạch liên tưởng miên man tràn đến chú Năm, vì “khi để ếch vào thùng, chú Năm thế nào cũng
sang”. Rồi ý nghĩ lại đi từ “Việt thương chú Năm…” lần lần chuyển qua cuốn sổ gia đình mà chú
vẫn ghi đều đặn, và những gì cuốn sổ ấy gợi lên. Đến đây, dòng ý nghĩ chợt đứt, vì Việt lại ngất
đi. Đoạn văn tiếp liền sau cũng thế. Nó mở đầu đột ngột với câu: “Việt choàng dậy”. Ta sẽ không
còn gặp ở đây tiếng ếch kêu đêm. Chỉ có, trong buổi ban ngày, tiếng chim cu rừng gù gù đâu đó.
Tiếng chim gợi nhớ chiếc ná thun. Và chiếc ná thun, đến lượt nó, thật không ngờ mà cũng thật
tất nhiên, đưa Việt về với những kỉ niệm về người mẹ, thoạt đầu là khi mẹ mất, rồi mới ngược
dần về những ngày mẹ còn sống với đàn con, về đôi mắt mẹ “sắc ánh lên nhìn bọn lính, đôi mắt
của người đã từng vượt sông, vượt biển”. Đến đúng khúc thiêng liêng ấy, mạch văn đột nhiên bị
ngắt giữa chừng, vì Việt lại bị ngất đi lần nữa.
Cứ thế, dòng tâm tư trong truyện chảy trôi, khi đến gần bờ hiện tại, khi lại lượn xa tắp về quá
vãng, nhịp trôi khi chậm khi nhanh, khi liền khi đứt. Tâm trạng con người hiện lên chân thật, tự
nhiên, bởi nó vốn dĩ vẫn như thế trong đời sống. Nhưng chính nhờ qua cái tổ chức lại, cải tạo lại,
những khoảng thời gian rất xa nhau bây giờ đồng hiện bên nhau, những khối không gian rất
cách biệt nhau bây giờ tồn tại cạnh nhau; đời sống như được soi chiếu dưới một thứ ánh sáng
khác, nó hiện lên trong nhiều màu vẻ phong phú, bất ngờ.
Nhưng ưu điểm của lối thuật chuyện theo dòng kí ức vừa liên tục vừa gián đoạn như đã nói ở

trên không chỉ thể hiện ở chỗ nó làm cho kết cấu của truyện ngắn thêm linh hoạt, thêm sống
động, thêm những ngã rẽ, những khúc quanh người đọc không dễ dự kiến ra. Không chỉ có thế.
Bởi không nên quên rằng nhà văn đã để cho nhân vật Việt của mình hồi tưởng trong hoàn cảnh
hoàn toàn đơn độc giữa một trận địa vắng lặng đến ghê sợ, và giữa sự rình rập của hiểm nguy
và của cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào. Hãy đọc lại truyện để xem Nguyễn Thi đã viết hay
đến thế nào về “cái cảm giác một mình bật lên” thật rõ ràng, giữa một cái mênh mông đầy đe
dọa trong một chàng tân binh trơ trọi, hai mắt không còn nhìn thấy gì, tay đau không thể quẹo
ra sau mà lấy bình nước trong khi người đã khô khốc đi vì đói khát, mười ngón tay không còn
ngón nào kéo nổi cơ bẩm súng, lết người đi được một đoạn cũng là cả một kì công. Và nếu cái
“bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt” trong cánh rừng cao su vừa trải qua trận đọ
lê dữ dội kia thỉnh thoảng có bị phá vỡ thì cái phá vỡ nó lại là “tiếng trực thăng phàng phạch bay
từng bầy trên đầu”, tiếng “pháo bầy nổ càng gần hơn”, “tiếng xe bọc thép ào ào chạy qua hướng
trước mặt”.
Vào một lúc như thế, người ta có thể nghĩ gì? Chắc chắn người ta sẽ nhớ lại, và cũng sẽ chỉ nhớ
lại những gì gắn bó thân thiết nhất, những gì đã thực sự làm nên đời sống của bản thân mình. Vì
thế, với việc để nhân vật Việt trong thế đối mặt với cái chết và đối diện với bản thân, chỉ nghĩ
nhiều nhất, lâu nhất đến những người trong gia đình (chị Chiến, má, chú Năm…), tác giả đã tìm
được một cách thức nghệ thuật hữu hiệu để chứng tỏ rằng: gia đình, đó là phần nguồn cội thấm
sâu nhất của con người ấy, và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng vì nó đã hiện lên
trong một thời khắc thiêng liêng.
Như thế, kiểu kết cấu theo dòng chảy của một quá trình hồi tưởng là một công phu sáng tạo về
hình thức. Nhưng ý nghĩa nghệ thuật của sự sáng tạo hình thức ấy lại ở chỗ nó góp phần đắc lực
nhất trong việc biểu hiện những khám phá về mặt nội dung.
*
* *
Nếu phải chọn trong truyện ngắn này của Nguyễn Thi một câu văn nào cô đúc được tư tưởng cơ
bản của toàn thiên truyện thì tôi sẽ xin được dẫn ra câu nói của chú Năm: “… Chuyện gia đình ta
nó cũng dài như sông, để rồi chú sẽ chia cho mỗi người một khúc mà ghi vào đó”. Tôi muốn hiểu
câu nói này trên hai ý nghĩa. Thứ nhất, chỉ được coi là con của gia đình những ai đã ghi vào
được, ai đã làm nên được khúc của mình trong dòng sông truyền thống. Con, đó là sự tiếp nối,

nhưng không chỉ là sự tiếp nối một huyết thống, mà còn là sự tiếp nối một truyền thống. Nhưng
còn một ý nghĩa thứ hai: không thể hiểu khúc sau của một dòng sông, nếu không hiểu ngọn
nguồn đã sinh ra nó. Cũng tương tự vậy, ta chỉ có thể hiểu về những đứa con của một truyền
thống gia đình khi, và chỉ khi ta hiểu ít nhiều về chính cái truyền thống gia đình đã sinh thành ra
những đứa con.
Trong truyện, cái truyền thống ấy không kết tinh ở nơi đâu đấy đủ hơn là trong hình tượng Chú
Năm. Đọc truyện, tôi thấy thích ông già này trước hết vì thứ ngôn ngữ đầy cá tính của ông. Một
thứ ngôn ngữ chỉ cần nghe thoáng qua đã nhận ra ngay cái chất Nam Bộ không thể nào trộn lẫn.
Nhưng có lẽ phải đợi tới khi qua miệng của chú Năm thì những từ Nam Bộ như trọng trọng, thỏn
mỏn mới được dịp trở nên cực thú. Truyện kể rằng chú Năm là người “đi đây đi đó nhiều” và
cũng “ham sông ham bến”. Nhưng đọc Những đứa con trong gia đình, ta thấy nhân vật này
không chỉ ham sông bến mà còn ham đạo nghĩa. Trong con người sống giữa thời chống Mĩ này,
vẫn thấy phảng phất cái tinh thần Nguyễn Đình Chiểu thuở xa xưa. Và điều đó được nhận ra vẫn
chủ yếu là qua lời nói: “Chú Năm nói mầy với ta đi kì nầy là ra chân trời mặt biển…” – đấy là
Chiến nhắc lại lời của chú Năm. Còn đây là lời nói trực tiếp của ông già ấy: “Việc nhà nó thu được
gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Những câu nói như thế
này đặc sắc bởi đâu, nếu không phải bởi trong chúng ta nghe thấy âm vang của sóng nước và
của đạo lí nghìn xưa.
Nguyễn Thi đã trao cho tính cách thú vị này vai trò của một thứ gia phả sống. Đọc truyện, ta sẽ
thấy rõ rằng nhân vật này luôn hướng về truyền thống, sống với truyền thống, đại diện cho
truyền thống và lưu giữ truyền thống trong câu hò và cuốn sổ. Trong toàn truyện chỉ có chú Năm
là người duy nhất hay hò. “Chú hay kể sự tích của gia đình và cuối câu chuyện thế nào chú cũng
hò lên mấy câu… những câu nói về cuộc đời cơ cực của chú và những chiến công của đất này”.
Nhưng nhà văn muốn loại trừ ngay trong ta mọi vấn vương, dù nhỏ, của cách hiểu rằng cái
người hay hò này ít nhiều cũng là một tài năng nghệ thuật. Trong chú Năm, không hề có chút
bóng dáng nào của Trương Chi. “Chú già rồi, giọng hò đã đục và tức như gà gáy”. Nhưng hãy
xem con người có cái giọng “đục và tức” nọ hò mới thật hết mình, thật trang nghiêm, tha thiết
làm sao! “Gân cổ chú nổi đỏ lên, tay chú đặt lên vai Việt, đôi mắt chú mở to, đọng nước, nhìn
thẳng vào mắt Việt, đầu chú lắc lư, nhắc nhủ, làm như Việt chính là nơi cụ thể chú gửi gắm
những câu hò…”. Thì ra, những tấm áo vá quàng, con sông dài cá lội, người nghĩa quân Trương

Định, ngọn đèn biển Gò Công… Không chỉ đơn thuần là những câu ca réo rắt mà là ngọn nguồn,
là hồn thiêng của cha ông đang nhập vào chú Năm – người ca công thành kính – để truyền đến
đời đời con cháu.
Song tôi vẫn nhớ cho là trong toàn bộ phần viết về chú Năm thì đoạn văn nói về cuốn sổ gia đình
vẫn hay hơn, tài hơn tất cả. Gọi là cuốn sổ, nhưng nó thực là một thứ biên niên ấy được viết ra
từ một ngòi bút thực sự bình dân, “chữ viết lòng còng”, lời văn mộc mạc. Một cuốn sử hay một
cuốn gia phả “chính thống” chắc sẽ không có những chi tiết “thỏn mỏn” kiểu như: thím Năm bị
bắn bể xuồng khi đi rọc lá chuối, “chết còn mặc cái quần mới, trong túi còn hai đồng bạc”; ông
nội ra nắm giàm bò bị lính tổng Phòng bắn vào giữa bụng… Lại càng không có cuốn gia phả nào
ghi kĩ càng đến ngày bọn lính chửi bác Hai một câu, ngày bà nội bị chúng đánh (thậm chí còn
cặn kẽ đến mức: đánh ba roi!). Lời lẽ trong cuốn sổ của chú Năm có vẻ đúng là những sự kể lể
dài dòng và cứ như không thèm biết thế nào là thanh nhã và trau chuốt. Nhưng xin hãy thử tẩn
mẩn và dông dài như thế xem nó khó hơn hành văn gọn gàng đẽo gọt gấp mấy lần? Và hãy thử
bỏ những câu chữ mà ta vẫn nông nổi tưởng như thừa, tưởng như không đáng kể, đáng viết
xem, cuốn sổ ấy sẽ còn gì? Mất cái chất vụng về, thô mộc đó, chắc chắn những gì chú Năm viết
ra sẽ không còn giá trị của những bằng chứng nóng hổi về nợ máu của kẻ thù và về sự dũng
cảm, kiên cường của dòng họ trong chiến đấu.
Hình tượng người mẹ cũng là một hiện thân cho truyền thống. Đây là một hình tượng mang
những dấu ấn riêng của phong cách Nguyễn Thi. Thiết nghĩ rằng, dù thích hay là không thích
mặc lòng, chúng ta vẫn không thể không nhận rằng Nguyễn Thi đã tạo được cho những người
phụ nữ, người mẹ trong tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng biệt, không giống ai và cũng chưa
ai giống nổi. Đừng mong chờ tìm thấy ở Nguyễn Thi một người mẹ đẹp một vẻ đẹp mảnh mai
yếu đuối. Ngược lại, họ chắc khỏe về mặt thể chất và mạnh mẽ về mặt tinh thần. Người mẹ của
Việt trong truyện ngắn này cũng thế. Chị được sinh ra không để hưởng sự chiều chuộng, vuốt
ve, mà để chống chọi với gian nguy, khó nhọc. Cái gáy đo đỏ, đôi vai lực lưỡng, chiếc nón rách,
tấm áo bà ba đẫm mồ hôi đã đen lại không còn thấy bạc, dư sức một mình rinh thúng lúa từ
dưới thuyền đặt lên giường ngủ – đó là vài nét họa trong bức chân dung người mẹ trong truyện
ngắn này. Tuy nhiên, đấy vẫn là một con người rất phụ nữ. Phụ nữ ở sự tảo tần, xốc vác: sáng
sáng, câu dặn dò con vừa hối hả buông khỏi miệng thì chân đã vội đẩy xuồng ra tít giữa sông.
Chiều về, cái nón rách có dễ chưa kịp quạt cho khuôn mặt bớt đi một hai phần đỏ rực, lại đã bơi

đi, canh hai mới trở lại nhà, người sực mùi lúa gạo và mồ hôi, thứ mùi của đồng áng, của cần cù
sương nắng.
Nhưng ấn tượng đậm đà và có sức gây cảm động lòng người nhiều hơn ở cả con người ấy là khả
năng cắn răng ghìm nén đau thương để sống và duy trì sự sống, để chở che cho đàn con và
tranh đấu. Tôi cho đó mới là phẩm chất đích thực cao quý của người mẹ, chí ít thì cũng là của
người mẹ của một đất nước như đất nước mình, và của một thời như thời chống Mĩ. Là người
mẹ, tức là trở thành một sức mạnh mà không một tàn bạo, đau thương nào hòng khuất phục.
Người mẹ của chị em Chiến, Việt chính là như thế. Chồng bị giặc chặt đầu, nỗi đau ấy khác gì
dao cứa ngang tim, nhưng chị cố không để rơi nước mắt. “Chiều hôm đó, về tới nhà má mới
khóc… Bao nhiêu năm sau đó cũng vậy, lúc nào nói đến chuyện trên má cũng không khóc”. Và
nếu lệ cứ ứa ra, thì “má chỉ nằm khóc chứ không kể gì hết”. Đau thương ấy, người mẹ một mình
nuốt sâu vào đáy lòng, để lặng lẽ một mình chịu đựng sức thiêu đốt của một nỗi đau âm ỉ cháy.
Đấy mới đúng là người mẹ Việt Nam, con người vì tình yêu, sẵn sàng một mình chịu đau, một
mình chịu ướt.
Người mẹ nông dân bình dị đó, cũng như mọi người mẹ, đúng là hiện thân của yêu thương.
Nhưng cảm hứng của Nguyễn Thi về tình yêu người mẹ thường vẫn là cảm hứng về một tình
cảm có sức khiến con người không biết sợ, không biết chùn bước. Không thể không cảm động
khi đọc lời chị kể hồn nhiên: “Tao dạn là nhờ ba mày. Ba mày bị Tây nó chặt đầu, tao cứ đi theo
cái thằng xách đầu mà đòi. Đi từ ấp trong tới ấp ngòai, nó qua sông tao cũng qua, nó về quận
tao cũng tới. Một tay tao bồng em mày, một tay tao cắp rổ”. Ai ngờ truyền thống “yêu nhau tam
tứ núi cũng trèo…” có ngày lại hiện ra dưới hình thức đau đớn, dữ dội, bạo liệt thế này? Một
người vợ bồng con cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, một người mẹ hiên ngang đối đáp
với kẻ thù mà “hai bàn tay to bản” vẫn “phủ lên đầu đàn con đứng nép dưới chân”…, những hình
ảnh ấy đáng được coi như biểu tượng về người mẹ ở một xứ sở mà cuộc sống quá nhiều khốc
liệt nhưng rất đỗi kiên cường, hết sức đau thương nhưng vô cùng cao cả.
Kiên cường, cao cả vì dưới một núi khổ đau, người mẹ ấy vẫn là sự sống: đôi mắt mở to, đôi bắp
chân tròn vo dính đầy sinh đất lội hết đồng này sang bưng khác, “con mắt tìm việc, bàn chân dò
đường”, vừa làm công cấy công gặt vừa dò tình thế bọn lính làng.
*
* *

Một hình ảnh, một truyền thống như thế, tác giả muốn phải là bất tử, cho dù con người cụ thể có
phải hi sinh. Người mẹ ngã xuống, nhưng trái đạn mà chị nhặt vào rổ bưng về để tiếp sức cho
cuộc đấu tranh thì vẫn nóng nguyên. Người mẹ ngã xuống, nhưng dòng sông truyền thống kia
vẫn chảy. Và hình ảnh chị lại hiện về trước hết trong Chiến, một trong những đứa con của gia
đình.
Người con gái trẻ ấy mang vóc dáng của mẹ mình: “hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy
nắng…, thân người to và chắc nịch”. Vẫn cái vẻ đẹp phụ nữ mà Nguyễn Thi ưa thích đang tồn tại
trong đứa con mà người mẹ ấy đã sinh thành – vẻ đẹp của những con người sinh ra ở đời để
gánh vác, để chống chọi, để chịu đựng và để chiến thắng. Nhưng nói đến giống mẹ thì chưa bao
giờ Chiến giống mẹ hơn cái đêm sắp xa nhà đi bộ đội. Phải đến đêm ấy, người ta mới thấy một
cô Chiến biết lo liệu, toan tính việc nhà thật trọn vẹn trước sau, từ em út, nhà cửa, giường ván,
ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má. Chiến liệu việc y hệt má, “nói nghe in như má vậy”. Hình
ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng Út em trên giường ở trong buồng
nói với ra đến lối hứ một cái “cóc” rồi trở mình. Đến nỗi chỉ trong một khoảng thời gian ngắn
ngủi trong đêm, Việt đã không dưới ba lần thấy chị mình giống in người mẹ, có sai khác thì cũng
chỉ ở chỗ chị “không bẻ tay rồi đập vào bắp vế chân mỏi” mà thôi. Chính Chiến cũng thấy mình
trong đêm ấy đang hòa vào trong mẹ: “Tao cũng lựa ý nếu má còn sống chắc má tính vậy, nên
tao cũng tính vậy”. Nguyễn Thi muốn cho ta hiểu: trong cái thời điểm thiêng liêng ấy, người mẹ
sống hơn bao giờ hết trong những đứa con. “Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng
đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa
mà cầm nón quạt? Đêm nay, dễ gì má vắng mặt…”. “Thác là thể phách…”, người mẹ ấy chỉ thác
trong thể phách.
Ta hãy trở về với Chiến. Hơn em chỉ chừng hơn một tuổi nhưng Chiến người lớn hơn hẳn so với
Việt. Mà cũng gắn bó với lớp người đi trước hơn. Chiến có thể bỏ ăn để gánh vần cuốn sổ gia
đình. Chiến không chỉ “nói in như má” mà còn học được cách nói “trọng trọng” của chú Năm.
Nhưng so với thế hệ mẹ thì người con gái ấy là khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ cũng chảy
được xa hơn khúc sông trước đó. Cho nên cũng dễ tìm ra những nét khiến cho Chiến khác mẹ
mình. Cái khác ấy không chỉ ở chiếc gương trong túi mà Việt tưởng tượng có thể theo Chiến ra
tận ngoài mặt trận, cũng không chỉ ở cái dáng trẻ trung “kẹp một nhúm tóc mai vào miệng” hay
là tính hay cười. Người mẹ, trước nỗi đau mất chồng, đã không có dịp nào cầm súng. Còn Chiến,

Chiến đi bộ đội để trả thù nhà, với quyết tâm như dao chém đá: “Tao đã thưa với chú Năm rồi.
Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”. “Đã làm thân
con gái…”, ra ở đời này không chỉ có “chí làm trai”.
Ở trên, ta đã nhiều lần nhắc đến nhân vật Việt, hình tượng xuất hiện nhiều nhất trên những
trang văn. Việt được bạn đọc yêu thích trước nhất là ở cái vẻ lộc ngộc, vô tư của một câu con
trai đang tuổi ăn tuổi lớn. Chiến nhường nhịn em bao nhiêu thì Việt hay tranh giành với chị bấy
nhiêu. Đêm trước ngày ra đi, Chiến nói với em những lời nghiêm trang thì Việt lúc “lăn kềnh ra
ván cười khì khì”, lúc lại rình “chụp một con đom đóm úp trong lòng tay”. Vào bộ đội, Chiến đem
theo tấm gương soi – cái vật tùy thân của một cô gái lớn – còn Việt, anh chàng đem đi… một
chiếc súng cao su! Tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần đoạn đối thoại dài nhất và xuất sắc nhất trong
toàn thiên truyện, và càng đọc càng thấy chịu tài tác giả. Sao mà ông có thể tái hiện lại sống đến
thế lời ăn tiếng nói của một anh chàng tồ tồ, vô lo vô nghĩ. Những lời đối thoại ấy không câu nào
giống câu nào mà sao câu nào cũng trúng phóc cái thần hồn thần tính của anh chàng Việt.
Nhưng sự vô tư không ngăn cản Việt trở nên một anh hùng. Ngược lại, nó cho cái chất anh hùng
của Việt thêm đẹp, thêm độc đáo. Đọc truyện, ta cảm thấy hình như chưa lúc nào Việt hết thơ
ngây của một con người không biết thế nào là khuất phục. Nên từ lúc còn bé tí, Việt đã dám
xông vào đá cái thằng đã giết cha mình. Và vẫn dòng máy đỏ chảy trong anh tân binh Việt chỉ
khi một mình, với đôi mắt không còn nhìn thấy gì, với hai bàn tay đau đớn vẫn quyết tâm ăn
thua sống mái với quân thù: “Trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao.
Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Cứ vậy, người trai giản dị ấy thấy việc đi đánh giặc
nó cũng tự nhiên như đi bắt ếch hay bắn ná thun, việc đánh giặc cho kỳ đến lúc trả xong thù nhà
nợ nước nó là chuyện dĩ nhiên như thế, có gì đâu để mà bàn, để mà nghĩ ngợi…? Ấy thế mà xem
ra Việt lại là người đi xa hơn cả trong dòng sông truyền thống. Không chỉ vì Việt là người lập
chiến công lớn nhất. Mà còn vì thế hệ cha chú Việt đánh giặc đấy, nhưng vẫn lo tránh giặc. Còn
Việt, ngay khi chỉ có một tấm thân trơ trọi và đầy thương tích, Việt vẫn là người đi tìm giặc. “Mày
chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”. Hồi bấy giờ, người ta thường nói
đến khí thế tiến công cách mạng của thời đại. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến công.
Tôi sẽ không nói nhiều về đoạn văn vẫn được nhiều người cho là hay nhất truyện: đoạn tả chị
em Chiến, Việt khiêng bàn thờ mẹ, sang nhà chú. Chỗ hay nhất của đoạn văn hay nhất ấy có lẽ
là cái không khí thiêng liêng nó hoán cải cả cảnh vật lẫn con người. Con đường quen thuộc bỗng

thấy có thêm mùi hoa cam thoảng lại tự chân vườn. Còn Việt, cái không khí ấy biến anh thành
con người khôn lớn. Lần đầu tiên Việt hiểu rõ lòng mình để thấy “thương chị lạ” và để thấy “mối
thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Nhưng tôi muốn được để ý
thêm đến chi tiết: chị em Chiến, dáng vóc khỏe, to, giang cả thân người lên nhấc bổng bàn thờ.
Nghĩa là thế hệ sau đã cứng cáp, trưởng thành. Những đứa con trong gia đình đã đủ sức để bay
xa, xa hơn cha mẹ.
*
* *
Nhân vật chú Năm trong truyện sau khi ví chuyện gia đình dài như dòng sông, còn nói tiếp:
“Trăm sông đổ về một biển, con sông của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm…,
rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”.
Điều đó có nghĩa là Nguyễn Thi, ở truyện ngắn này, chỉ nói về một con sông, nhưng chúng ta
không thể chỉ thấy có một dòng sông. Nhà văn muốn ta phải nghĩ đến biển cả, đến đại dương
của nhân dân, và nhân loại. Nhà văn muốn ta phải nghĩ đến không chỉ một gia đình, mà cả một
Tổ quốc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ nỗi thương đau.
Chỉ có điều ở Nguyễn Thi, sự khái quát lớn lao trên sẽ không bay bổng trên đôi cánh của cảm
hứng thi ca. Nhà văn muốn đứng trên hai bàn chân bấm chắc vào đất, vào hiện thực. Từ bỏ mọi
sự khoa trương, nhà văn hết sức cố gắng để chi tiết, hình ảnh, ngôn từ… tất cả phải giống như
nó vốn có ở đời, dẫu cho sự thực ở đời lắm khi tàn nhẫn. Bởi vậy, tôi sẽ không hùa theo ai đó
trách Nguyễn Thi đã dựng lên những chi tiết ghê khiếp quá, như cảnh đòi đầu, với hình ảnh
thằng bé Việt để “đầu ba dưới đất không lượm, cứ nhè cái thằng vừa liệng đầu mà đá”. Một hình
ảnh như thế quả đáng để cho ta suy nghĩ, nhưng tuyệt nhiên không phải vì nó dữ dội, kinh
khủng nếu đấy đúng là thực tại? Chỉ có là hình ảnh ấy hình như gợi lên một cái gì bất nhẫn.
Nhưng đó lại là câu chuyện khác rồi…
In trong Giảng văn văn học Việt Nam
Vài đề xuất khi dạy tác phẩm văn chương
(02.11.2008, 09:19 pm GMT+7)
Phương pháp giảng dạy chỉ được thực hiện trong thời gian trên lớp, tức
là thời gian diễn ra tiến trình dạy và học. Ở phương pháp giảng dạy mới
(dĩ nhiên là tôi không trình bày ra đây, vì tất cả giáo viên Ngữ văn đều đã

được trang bị), về mặt nội dung bài dạy tôi xin không bàn, vì mỗi bài
khác nhau, có nội dung khác nhau, giáo viên phải biết cách lựa chọn và
phối hợp nhiều phương pháp sau cho phù hợp như các phương pháp
đọc – hiểu, diễn giảng, đàm thoại, nêu vấn đề, gợi mở, trực quan, thảo
luận nhóm…đó là sự vận dụng sáng tạo của giáo viên.
Tạo trang in
Tôi chỉ muốn trao đổi, về cái “rìa” trong tiến
trình thực hiện phương pháp mới, đôi khi
người ta không chú ý, không đầu tư cho nó
nhiều, những phần này thường được chuẩn
bị sơ sài, đại khái…nhưng tác dụng của nó
đối với sự cảm thụ văn chương của học
sinh thì không thấp chút nào. Đó là những
vấn đề tôi sẽ bàn dưới đây:
1. Kiểm tra bài cũ, vở bài soạn
Như một thói quen “truyền thống”, bất cứ
giờ dạy nào, trước khi học bài mới giáo
viên đều tiến hành kiểm tra bài cũ, môn văn
cũng không ngoại lệ.
Kiểm tra bài cũ, đây là phần làm mất thời
gian một cách vô ích, đôi khi còn làm cho
tiết dạy trở nên kém chất lượng đi. Thời
gian dành cho phần kiểm tra bài cũ thường
mất từ 5 -7 phút, có khi còn hơn cả chục
phút nữa. Học sinh lên trả bài mà thuộc thì
còn mau, còn tiết kiệm được thời gian, còn
hứng khởi mà dạy. Học sinh mà không
thuộc bài hoặc thuộc lấp vấp, cứ cập cà,
ậm ừ,…thì thôi rồi vừa mất thời gian mà
giáo viên lại dễ “nổi nóng” khiến không khí

lớp học chùn xuống, học sinh học trong
trạng thái không thoải mái, giáo viên cũng
không mấy hứng khởi dạy.Kết quả là tiết
dạy không có chất lượng. Người dạy không
sẵn sàng truyền thụ kiến thức, người học
không sẵn sàng tiếp thu thì thử hỏi làm sao
tìm được điểm đến cho tiết dạy,…và cuối
cùng là “mục tiêu cần đạt” sẽ không đạt.
Đây là tình trạng thường xuyên diễn ra ở
các môn chứ không riêng gì môn Ngữ văn.
Vấn đề đặt ra là giáo viên vẫn không mạnh
dạn bỏ hẳn đi phần kiểm tra bài cũ. Nếu bỏ
kiểm tra bài cũ, thì cột điểm miệng sẽ lấy ở
đâu?. Xin thưa rằng, để có cột điểm miệng
không nhất thiết phải cứ máy móc trả bài.
Trong thời gian học bài mới, giáo viên có
thể đặt câu hỏi yêu cầu học sinh trả lời và
cho điểm lấy cột điểm miệng. Dĩ nhiên
những câu hỏi nào khó, thì mới lấy hẳn cột
điểm miệng luôn, những câu hỏi dễ hơn
một chút thì nên cho điểm cộng (và quy
định 3 điểm cộng sẽ làm tròn điểm 8 lấy cột
điểm miệng, tùy giáo viên thống nhất với
lớp như thế nào mà thôi). Đây là cách làm
đở mất thời gian mà lại làm cho học sinh
tích cực tham gia phát biểu hơn nữa (tâm lý
học sinh phổ thông mà, nếu có cho điểm là
các em thích), tiết dạy sẽ thêm phần sinh
động, sôi nổi, chẳng phải cũng phù hợp với
phương pháp giảng dạy mới đó hay sao:lấy

học sinh làm trung tâm. Tôi chưa nói tới
việc, khi cho học sinh làm bài tập nhóm,
hoặc là các hoạt động ngoại khóa,…rất
nhiều cách để cho điểm các em, tùy thuộc
giáo viên có linh hoạt hay không mà thôi.
Cũng nên nhớ rằng cho điểm là nhằm kích
thích tinh thần học tập của cá nhân học
sinh, của nhóm hoặc của cả tập thể lớp chứ
đừng bao giờ cho điểm đi ngược lại mục
đích đó, đã có nhiều bài học kinh nghiệm từ
vấn đề này. Đừng bao giờ “tiết kiệm” điểm
với những em học sinh có tinh thần làm
việc nghiêm túc.
Soạn bài trước khi đến lớp đó là nhiệm vụ
của học sinh. Nhưng giáo viên cũng đừng
bao giờ kiểm tra vở bài soạn của từng em
một ngay trên lớp, rất mất thời gian. Làm
như thế nào thì hợp lý, vấn đề này tôi sẽ
trình bày ở phần dưới.
2. Lời vào bài
Đây là phần mà giáo viên ít đầu tư hoặc giả có
thì cũng chỉ qua loa mà thôi. Trong phương
pháp giảng dạy mới vấn đề này cũng không
được đề cập tới. Tôi thấy cần phải xem xét lại
và có cái nhìn đúng đắn về vấn đề này. Không
thể nào chấp nhận được những cách vào bài như
thế này “tiết trước chúng ta đã học bài…của tác
giả…., hôm chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp tác giả …
với bài…”,chúng ta đã làm quen với tác giả Tản
Đà với bài “Muốn làm thằng cuội” ở chương

trình THCS, hôm nay chúng ta tiếp tục tìm hiểu
tiếp bài “Thề non nước” của Tản Đà”…Hoặc có
nhiều giáo viên không giới thiệu gì hết, cứ ghi
ngay tên bài dạy lên bảng và tiến hành học bài
mới… hoặc “
Lời vào bài phải giới thiệu đựợc đôi nét về
tác giả, tác phẩm cũng như văn phong của
nhà văn, nếu dạy thơ thì phải giới thiệu cho
các em những bài thơ, hoặc những câu thơ
tiêu biểu của tác giả đó. Đồng thời phải đặt
bài dạy trong mối liên hệ với các bài trước
đó, hoặc đặt trong hoàn cảnh lịch sử ra đời
của tác phẩm đó…Nói chung là làm sao gợi
được sự tò mò, thích thú ban đầu của các
em đối với tác phẩm, truyền đạt được
những thông tin cần thiết về tác giả, tác
phẩm…Đôi khi không nhất thiết cứ là lời
giới thiệu của giáo viên, cũng có thể tạo
nên những tình huống có vấn đề, kích thích
học sinh phải giải quyết vấn đề …Như khi
dạy tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao.
Giáo viên thay lời vào bài bằng cách cho
học sinh xem bức tranh vẽ cảnh Chí Phèo
say rượu, trên mình đầy thẹo, vết với dòng
chữ lớn “Ai cho tao lương thiện ?” rồi giảng
“lương thiện vốn là bản tính của con người,
không ai lấy được, cũng không ai cho, tại
sao tên say rượu này lại đòi lương thiện?
Vì sao hắn đánh mất lương thiện hay là ai
đã lấy mất lương thiện của hắn? Để trả lời

các câu hỏi đó, thầy trò ta sẽ tìm hiểu tác
phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao…”Hoặc khi
dạy bài “Kính gởi cụ Nguyễn Du” của Tố
Hữu, nhất thiết phải phác họa lại hoàn cảnh
lịch sử trong giai đoạn đó, là những năm
mà “Bình –Trị -Thiên khói lữa” và tại sao
trong giai đoạn chiến tranh ác liệt như thế,
đất nước ta lại tiến hành kỉ niệm 200 năm
ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du ? Tại sao
Tố Hữu lại chọn thời gian đó để làm bài thơ
“Kính gởi cụ Nguyễn Du”phải chăng tác giả
có dụng ý gì? Đặt ra nhiều câu hỏi có vấn
đề, gợi sự tò mò cho học sinh trước khi học
bài mới, làm cho hứng thú học tập của học
sinh sẽ tăng lên.
Khi dạy những bài văn học nước ngoài, do
sự hiểu biết của các em về tác giả cũng
như các tác phẩm của tác giả đó rất hạn
chế, nếu không nói là đôi khi không biết gì
nữa là khác, nên nhất thiết phải giới thiệu
rõ ràng về tác giả cũng như tác phẩm một
cách thu hút trong phần lời vào bài. Như khi
dạy bài “Thư gởi mẹ” của Êxinin thì lời vào
bài có thể giới thiệu như sau:
“Êxênin (1895 -1925) là nhà thơ trữ tình nổi
tiếng của nước Nga đầu thế kỉ XX. Cuộc
đời ngắn ngủi, bất hạnh nhưng ông đã để
lại cho đời một tài sản thơ vô giá. Thơ ông
phản ánh một tình yêu đằm thắm, sâu nặng
với quê hương, đất nước. Êxênin sinh

trưởng ở nông thôn, lớn lên giữa ruộng
đồng thảo nguyên, từ nhỏ đã tấm mình
trong suối nguồn dân ca. Bởi vậy những
vần thơ trữ tình đẹp nhất của ông đều dành
cho làng quê phảng phất nổi buồn:
“…Ôi nước Nga cánh đồng màu thắm đỏ

×