Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

de cuong on tap van 12-dung duoc day

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.51 KB, 44 trang )

Phần văn học Việt nam
Cõu 1:
1.Tiu s H Chớ Minh :
- Sinh năm 1890 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.
- Lúc nhỏ, học Hán học ở nhà. Lớn lên, theo cha vào kinh, học ở trường
Quốc học Huế. Một thời gian, Người dạy học ở trường Dục Thanh (Phan
Thiết)
- Năm 1911, Bác ra đi tìm đường cứu nước từ Bến Nhà Rồng
- 1941, sau 30 năm bơn ba tìm đường cứu nước, Người trở về Việt Nam
thành lập Mặt trận Việt Minh, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam
- 1942-1943, người bị bắt giam tại nhà tù Tưởng Giới Thạch khi sang đây
tranh thủ sự viện trợ của Trung Quốc. Sau 13 tháng, Người được trả tự do
- Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Người đọc Tuyên ngôn độc lập,
khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
- Năm 1946, Người được bầu làm Chủ tịch nước. Từ đây, Người đã lãnh đạo
nhân dân và CM Việt Nam giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ.
-2-9-1969, chỉ tịch Hồ Chí Minh qua đời
2. Quan điểm sáng tác văn học của Chủ tịch Hồ Chí Minh
-Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hạt động tinh thần phong phú và
phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng. Người đã xác định vị trí và
vai trị to lớn của nghệ sĩ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và
phát triển xà hội. Tinh thần đó đã được Người nói lên trong bài thơ Cảm
tưởng đọc Thiên gia thi:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Chất thép ở đây chính là xu hướng cách mạng và tiến bộ về tư tưởng là
cảm hứng đấu tranh xã hội tích cực của thơ ca. Quan điểm của Hồ Chí minh
là sự tiếp thụ, kế thừa quan điểm dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu
trong truyền thống dân tộc và được nâng cao trong thời đại cách mạng vô
sản. Trong bức thư gửi các họa sĩ trong dịp triển lãm hội hoạ toàn quốc


1951, một lần nữa, Bác khẳng định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là mọt mặt
trận, anh chị em cũng là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
- Hồ Chi Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận
văn chương. Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần
1


chúng là đối tượng phục vụ. Người nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động
báo trí và văn chương, mỗi người khi cầm bút cần xác định rõ: Viết cho ai?
(Đối tượng), Viết để làm gì? (Mục đích), Viết cái gì? (Nội dung) và Viết như
thế nào? (Hình thức). Như vậy, đối tượng và mục đích qui định nội dung và
hình thức của tác phẩm. Người viết có xử lý đúng các mối quan hệ giữa mục
đích và phương tiện, giữa phổ cập và nâng cao, giữa nội dung và hình thức
thì mới phát huy được hiệu quả của hoạt động văn học.
-Hồ Chí Minh ln quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân
thật. Tính chân thật cốn là cái gốc của văn chương xưa và nay. Người yêu
cầu văn nghệ sĩ phải “miêu tả cho hay, cho chân thật cho hùng hồn” những
đề tài phong phú của hiện thực cách mạng, phải chú ý nêu gương “ Người
tốt, viếc tốt”, uốn nắn và phê bình cái xấu. Nhà văn phải chú ý đến hình thức
biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề. Hình thức của tác phẩm phải
trong sáng, hấp dẫn, ngôn từ phải chọn lọc, bảo đảm sự trong sáng của tiếng
Việt. Theo Người, tác phẩm văn chương phải thể hiện được cái tinh thần của
dân tộc, của nhân dân và được nhân dân ưa thích.
Câu 2: Sự nghiệp văn học Hồ Chí Minh
1. Văn chính luận:
- Mục đích: được viết nhằm tấn cơng trực diện kẻ thù hoặc thực hiện
những nhiệm vụ cách mạng qua những chặng đường lịch sử.
- Tác phẩm tiêu biểu:
+ Các bài báo.
chiến.

+ Bản án chế độ thực dân Pháp.
+ Di chúc.
+ Tuyên ngôn độc lập.
+ Lời kêu gọi tồn quốc kháng
- Đặc điểm: giàu chất trí tuệ và tính luận chiến, suốt ½ thế kỉ tấn cơng
trực diện kẻ thù bằng sức mạnh và ngòi bút. . Mạch văn sắc sảo,thuyết phục.
2. Truyện và kí:
- Tác phẩm tiêu biểu:
Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Đồng tâm nhất trí, Vi hành, Những trị lố
hay là Va ren và Phan Bội Châu, Con rùa, Giấc ngủ 10 năm, Nhật kí chìm
tàu…
- Mục đích: Dựa vào sự thật tai nghe mắt thấy và cả hư cấu nghệ thuật
để vạch trần tội ác, bản chất tàn bạo xảo trá của thực dân Pháp và tay sai,
đồn thời đề cao tấm gương đấu tranh yêu nước của nhân dân.
- Đặc điểm:
2


+ Nội dung cô đọng, cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo.
+ Mỗi tác đều có tư tưởng riêng, hấp dẫn, sáng tỏ, ý tưởng thâm thuý,kín
đáo, chất trí tuệ toả trong hình tượng và phong cách giàu tính hiện đại.
3. Thơ ca
- Là lĩnh vựcc nổi bật nhất trong sáng tạo văn chương Hồ Chí Minh
- Tác phẩm chính:
+ Nhật kí trong tù: 133 bài. Đây là tập thơ tiêu biểu nhất trong di
sản thơ ca HCM. , sáng tác khi người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt
giam 1942-1943. Nội dung : phê phán bộ mặt nhà tù Tưởng Giứoi Thạch và
xã hội Trung Quốc thời đó, là bức chân dung tự họa thể hiện rõ vẻ đẹp tâm
hồn HCM. Nghệ thuật : sắc thái cổ điển ( bút ppháp chấm phá ước lệ, thể thơ
thất ngôn tứ tuyệt Đường luật…), tinh thần thời đại ( hình tượng thơ ln có

sự vận động…)
+ Thơ Hồ Chí Minh: 86 bài.
+ Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh: 36 bài.
- Nội dung: + Thể hiện lòng yêu thương con người sâu nặng, khát vọng đấu
tranh cho độc lập dân tộc.
+ Ca ngợi thiên nhiên hùng vĩ, phản ánh thời kì hoạt động bí mật,
gian khổ nhưng cũng rất lạc quan, hào hùng.
Câu 3 : Giới thiệu về Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh
- Văn chính luận: Tư duy sắc sảo, giàu tri thức văn hố, gắn lí luận với
thực tiễn, vận dụng có hiệu quả nhiều phương thức biểu hiện. Những sáng tác
VH của Hồ Chí Minh đều có sự thống nhất giữa cổ điển và hiện đại, giữa
chính trị và nghệ thuật
- Truyện và kí: chủ động, sáng tạo, chân thực tạo khơng khí gần gũi.
Giọng điệu châm biếm, sắc sảo, thâm thuý tinh tế, hoà quyện giữa chất trí tuệ
và chất hiện đại.
- Thơ ca: Hàm súc, uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật,
vận dụng nhiều thể loại, phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.
Câu 4: Hoàn cảnh ra đời của “Tuyên ngôn Độc lập” (NAQ-HCM)
-Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc. Phát xít Nhật, kẻ đang chiếm đóng
nước ta lúc bấy giờ đã đầu hàng Đồng minh.
-Trên cả nước, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền  19-08-1945,
CMT8 thành cơng, chính quyền về tay nhân dân Hà Nội.
3


-26-08-1945, Chủ tịch HCM từ Việt Bắc về thủ đô HN tại căn nhà số 48
Hàng Ngang người đã soạn thảo “Tun ngơn Độc lập”
-2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Người thay mặt chính phủ lâm
thời đọc Tun ngơn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam DCCH.
-Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, là lời

tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ
và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên tồn thế giới, là mốc son lịch sử mở ra
kỉ nguyên Độc lập – Tự do trên đất nước ta.
-Tuyên ngôn là một tác phẩm chính luận đặc sắc có sự mạnh và tính
thuyết phục, thể hiện ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác
thực, ngơn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc.
Câu 5: Nêu đối tượng, mục đích hướng tới của bản “Tun ngơn Độc
lập”?
• Đối tượng:
-Đồng bào cả nước.
-Nhân dân thế giới.
-Đặc biệt là thực dân Pháp, Mĩ,.. bởi chúng có ý đinh cướp nước ta.
• Mục đích: (Khẳng bác thể)
-Khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam
-Bác bỏ những luận điệu xảo trá của Pháp và Mĩ trước dư luận Quốc tế
-Thể hiện ý chí gang thép của người Việt Nam, quyết tâm bảo vệ nền độc
lập dân tộc bằng mọi giá.
Câu 6: Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần luận điệu của thực dân Pháp như
thế nào qua Tuyên ngôn Độc lập
1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tun ngơn Độc lập
- Là khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền khơng ai có thể xâm
phạm được; người ta sinh ra phải ln ln được tự do và bình đẳng về quyền
lợi.
- Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và
Pháp, trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn,
cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra…” nhằm nêu cao một lý tưởng
về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các
dân tộc trên thế giới.
4



- Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng
thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các
dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự khẳng
định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình
đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.
+ Bác nêu chân lý phổ biến của mọi dân tộc chứ ko chỉ riêng của Pháp Mĩ 
tạo tính khách quan và cơ sở pháp lí cho lí lẽ của mình.
+Bác đã dùng một phương pháp luận rất hiệu quả “Gậy ông đập lưng ông”:
bác bỏ luận điệu của đối phương ko gì đích đáng hơn và thú vị hơn là dùng lời
lẽ của chính họ để phủ định họ.
+ Cách làm này còn thể hiện niềm tự hào dân tộc vì Bác đã đặt 3 bản tun
ngơn ngang hàng với nhau.
+ Phát triển quyền lợi con người trong 2 bản tun ngơn của P&M thành
quyền lợi dân tộc. Về lí lẽ, con người bao giờ cũng tồn tại trong một dân tộc
cụ thể nên vấn đề con người, xét đền cũng là vấn đề dân tộc. Về thực tế, dân
tộc VN đang bị đe dọa bởi các lực lượng thù địch nên vế đề dân tộc đang là
một vấn đề bức thiết đồi với người VN lúc ấy đồng thời cũng là mong mỏi lớn
nhất của cuộc đời bác.
- Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân
dân Việt Nam ta, mà cịn tun bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời
bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong phe
Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc
địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.
2.Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp.
- Với những dẫn chứng đã dạng phong phú vốn là những sự thật hiển nhiên,
Bác đã buộc tội kẻ thù rất hùng hồn, đanh thép qua những phương diện cơ
bản: KT, CT, VH, Ngoại giao… bằng phương pháp tương phản đầy sức

thuyết phục. Cái hay của pp tương phản là Bác ko cần nói ra mà bản chất xấu
xa của thực dân Pháp cứ lồ lộ hiện ra.
- Năm tội ác về chính trị:
1- tước đoạt tự do dân chủ,
2- luật pháp dã man, chia để trị,
3- chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta,
4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân,
5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện.
- Năm tội ác lớn về kinh tế:
5


1- bóc lột tước đoạt,
2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng,
3- sưu thuế nặng nề, vô lý đã bần cùng nhân dân ta,
4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân
ta,
5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói năm
1945.
- Chúng lên tiếng bảo hộ Việt Nam những thực tế trong vòng 5 năm (1940
– 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán nước ta 2 lần cho Nhật”.
- Chúng rêu rao tự do bình đẳng nhưng thực tế lại cướp nước ta, áp bức
đồng bào ta, dìm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu.Thẳng tay khủng bố
Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng cịn nhẫn tâm giết nốt số đơng
tù chính trị ở n Bái và Cao Bằng”.
- Chúng khoe cơng khai hóa VN nhưng thực tế lại đầu độc dân ta bằng chính
sách ngu dân, rượu cồn, thuốc phiện.
- Chúng tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng, nay phải trở về tay
chúng nhưng từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ
không phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền

khi Nhật hàng Đồng minh.  Như vậy. chúng ta đã lấy lại VN từ tay Nhật
chứ ko phải từ tay Pháp. Luận điểm này vô cùng quan trọng về mặt pháp lí
dẫn tới sự phủ nhận triệt đề mọi đặc quyền, đặc lợi của thực dân Pháp ở VN.
Hệ thống lí lẽ và dẫn chứng ở trên đã vạch ra một cách sâu sắc bản chất
của thực dân Pháp: giả dối, phản trắc, lọc lừa, có tội chứ ko có cơng với người
VN.
Rõ rang, cuộc xâm lược của thực dân Pháp vào VN sau mùa thu 1945 là hoàn
toàn phi nghĩa. TD Pháp đã cố to son trát phấn cho cuộc ct phi nghĩa để trở lại
xâm lc VN nhg đã bị Bác vạch trần ko thương tiếc bộ mặt xấu xa của chúng.
Câu 7: Lời tuyên bố độc lập trong bản “Tun ngơn Độc lập” có giá trị
như thế nào ?
• Đối với kẻ thù:
Thốt li hẳn với thực dân Pháp
Xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp kí với VN
Xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên VN
3 lời tuyên bố với mức độ tăng dần, từ ngữ hết sức chặt chẽ
• Đối với nhân dân Việt Nam:
Họ xứng đáng được hưởng độc lập, tự do
6


+ Dũng cảm chiến đầu và hy sinh biết bao xương máu chiến đấu cho nền độc
lập tự do. Sự khẳng định rất hùng hồn thể hiện niềm tự hào dân tộc bằng một
loạt phép điệp từ đầy tính hùng biện: “1 dân tộc đã gan góc” (điệp 2 lần), “dân
tộc đó phải được”(điệp 2 lần).
+ Đứng về phe đồng minh chống phát xít
+ Nêu cao lá cờ bác ái
Nền độc lập ấy được bảo vệ bằng ý chí lớn của người VN. Bác đã
khẳng định “Toàn thể dân tộc VN…nền tự do độc lập ấy”  bộc lộ sức mạnh
vơ địch của tình cảm n nước của người VN trong truyền thống giữ nước quý

báu mà Bác đã từng ca ngợi.
Bác cũng kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân thế giới
Khẳng định một lần nữa sự thật nước VN đã thành một nước tự do và
độc lập.
Câu 8*: Giá trị thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu được Phạm Văn Đồng
phản ảnh như thế nào qua văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngơi sao sáng
trong văn nghệ dân tộc”? (Liên hệ với hoàn cảnh lịch sử đất nước, hoàn
cảnh gia đình nhà thơ)
1. Nêu vấn đề
- Đánh giá so sánh Nguyễn Đình Chiểu là:
+ Ngơi sao có ánh sáng khác thường: ánh sáng đẹp nhưng chưa quen nhìn nên
khó thấy
+ Phải chăm chú nhìn mới thấy và càng nhìn càng thấy sáng: phải dày cơng
nghiên cứu thì mới thấy.
Luận đề: Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ yêu nước mà các tác phẩm của ông
là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta, một
tác giả cần được nghiên cứu đề cao hơn nữa.
Tác giả đã vào đề một cách trực tiếp, thẳng thắn, độc đáo: nêu vấn đề một
cách trực tiếp và lí giải nguyên nhân với cách so sánh cụ thể, giàu tính hình
tượng. Đó cũng là cách đặt vấn đề khoa học, sâu sắc vừa khẳng định được vị
trí của Nguyễn Đình Chiểu vừa định hướng tìm hiểu thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu .
2. Giải quyết vấn đề:
a. Luận điểm 1: Cuộc đời, con người và quan niệm sáng tác thơ văn
của Nguyễn Đình Chiểu.
- Hồn cảnh sống: nước mất nhà tan, mang thân phận đặc biệt: mù cả hai mắt.

7



- Con người: nhà nho yêu nước, vì mù mắt nên hoạt động chủ yếu bằng thơ
văn; nêu cao tấm gương anh dũng, khí tiết, sáng chói về tinh thần yêu nước
và căm thù giặc sâu sắc.
- Quan niệm sáng tác: dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu, ca ngợi đạo
đức, chính nghĩa.
Quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn thống nhất với
quan niệm về lẽ làm người.
b. Luận điểm 2: Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu.
- Tái hiện một thời đau thương, khổ nhục mà vĩ đại của đất nước, nhân
dân.Thơ văn NĐC đã bám sát đời sống lịch sử đấu tranh của nhân dân Nam
Bộ, có hơi thở nóng bỏng của tình cảm u nước thuơng nịi. Đó cũng là cách
khẳng định NĐC xứng đáng là một ngôi sao sáng .
- Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người anh hùng
suốt đời tận trung với nước, than khóc cho những người đã trọn nghĩa với dân.
Luận chứng: Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc là một đóng góp lớn
+ Khúc ca của người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang
+ Lần đầu tiên, người nông dân di vào văn học viết, là hình tượng nghệ thuật
trung tâm.
- Thơ văn u nước của Nguyễn Đình Chiểu khơng chỉ có sức nặng đấu tranh
mà cịn đẹp ở hình thức, có những đóa hoa, hịn ngọc rất đẹp...
Văn chương NĐC tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của thời đại, có sức
cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc chiến đấu chống thực dân.
c. Luận điểm 3 :Truyện Lục Vân Tiên.
- Là “một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở
đời, ca ngợi những người trung nghĩa.
- Không phủ nhận những hạn chế của tác phẩm: giá trị luận lí mà NĐC ca
ngợi, ở thời đại chúng ta, theo quan điểm chúng ta thì có phần đã lỗi thời”,
hay văn chương của LVT “có những chỗ lời văn không hay lắm”.
- Khẳng định tư tưởng, thế giới nhân vật, về nghệ thuật trong truyện LVT có
những điểm mạnh và giá trị riêng: tư tưởng nhân-nghĩa-trí-dũng; nhân vật gần

gũi với nhân dân, từ nhân dân mà ra: dũng cảm, đấu tranh khơng khoan
nhượng cho chính nghĩa; nghệ thuật kể truyện nôm dễ hiểu dễ nhớ, dễ truyền
bá dân gian, thậm chí có cả những lời thơ hay.
Cách lập luận đòn bẩy, bắt đầu lập luận là một sự hạ xuống, nhưng đó là
sự hạ xuống để nâng lên; xem xét LVT trong mối quan hệ mật thiết với đời
sống của nhân dân.
3. Kết thúc vấn đề:
8


- Khẳng định vị trí của NĐC trong lịch sử VH, trong đời sống tâm hồn dân tộc
và trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
- Tỏ niềm tiếc thương thành kính.
Vừa có tác dụng khắc sâu, vừa có thể đi vào lòng người niềm xúc cảm thiết
tha.
Câu 9 : Ý nghĩa nhan đề bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
-Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực
lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa
bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các
tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hịa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào).
Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học
sinh, sinh viên chiến đấu trong những hồn cảnh rất gian khổ, vơ cùng thiếu
thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc
quan và chiến đấu rất dũng cảm. Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt
động ở Lào, trở về Hịa Bình thành lập trung đồn 52.
-Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị
cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây
Tiến.Tây Tiến có nghĩa là tiến về miền Tây, nơi đoàn quân đang dốc hết sức
mình bảo vệ tổ quốc và giúp sức cho đất nước bạn.

Câu 10: Con đường hành quân gian khổ của binh đoàn Tây tiến được
Quang Dũng miêu tả như thế nào? Phân tích kĩ những biện pháp nghệ
thuật đặc sắc.
Bức tranh thiên nhiên ở miền Tây lần lượt hiện ra qua khung cảnh, địa
bàn hoạt động. Đoàn binhTây Tiến phải trải qua một đoạn đường hiểm trở
trên một địa bàn rộng với các địa danh Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai
Châu
Dốc lên khúc khuỷu , dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Câu thơ diễn tả con đường gian khổ mang dáng nét tạo hình thơng qua 5
thanh trắc, hai từ “dốc”ngăn cách nhau bởi dấu phẩy gợi cảm tưởng cho người
đọc chưa vượt qua được dốc này lại đến dốc khác. Các từ láy “khúc khuỷu”,
“thăm thẳm”, các hình ảnh ”heo hút”, ”cồn mây”, ”súng ngửi trời” đã diến tả
sự hiểm trở, trùng điệp của núi đèo miền Tây. Để diễn tả độ cao vòi vọi của
con dốc chỉ cần ba chữ ”súng ngửi trời”. Đây là hình ảnh rất thực, lãng mạn,
9


vừa ngộ nghĩnh vừa mang tính chất tinh nghịch, táo bạo. Người lính nhuư
đang đi trong mây, mũi súng chạm mây trời.
Con đường đi lên đầy chông gai, nguy hiểm nhưng co đường đi xuống
cũng không dễ dàng:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Hình ảnh thơ đối xứng, câu thơ như được gấp lại, thanh điệu biến đổi, từ chỉ
số lượng “ngàn thước” đã diễn tả các dốc núi hút lên và đổ xuống gần như
thẳng đứng.
Ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ được vẽ bằng
những nét mềm mại, đằm thắm ( toàn thanh bằng )
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ diễn tả trận mưa đều đều không ngớt, rộng, xa với chân núi trắng trời,

mưa nhẹ trong không gian lớn, mịt mùng, thấp thống những mái nhà như
đang trơi bồng bềnh. Vẻ dữ dội, hoang dại cịn được miêu tả khơng chỉ theo
hướng khơng gian mà cịn theo chiều thời gian.
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người”
Không gian rừng núi hoan vu hiểm trở, luôn là mối de dọa của con người,
làm cho con người trở nên ốm yếu, da xanh, tóc rụng…
Câu 11: Hình tượng người lính trong binh đồn Tây tiến được xây dựng
mang những nét hào hoa, lãng mạn nhưng cũng rất chân thực sinh động.
Hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đây là hình tượng tập thể của người lính Tây Tiến. Quang Dũng đã chọn
lọc những nết tiêu biểu của từng người lính để tạc nên bức tượng đài tập thể
mang tinh thần chung của đoàn quân.
+ Vẻ đẹp hào hoa
- Nếu người lính trong Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ (Hồng Nguyên)Cá nước,
Tố Hữu; Đồng chí, Chính Hữu mang dáng dấp của những người nông dân ra
trận, chất phác, hồn nhiên , ra đi từ mái tranh gốc rạ, bến nước cây đa (...), thì
người lính của binh đồn Tây Tiến hầu hết là các chàng trai Hà thành thuở ấy.
Họ là những thanh niên trí thức mang trong mình sự sơi nổi, lãng mạn và một
bầu nhiệt huyết đối với quê hương đất nước. Họ khao khát được khẳng định
mình trong môi trường khốc liệt của chiến tranh (thực chất đây là một sự ý
thức sâu sắc về mình...).
- Sự khác biệt ấy còn xuất phát từ chất tâm hồn của chính Quang Dũng. Cái
chơi vơi, thăm thẳm, xa khơi, oai linh thác gầm thét, oai hùm,... của cảnh và
10


người trong Tây Tiến cũng là những giai điệu, những sắc màu của thế giới
tâm hồn Quang Dũng. Chính vì thế, nhà thơ đặc biệt đồng điệu đồng cảm với
chất lính Tây Tiến hào hoa, phóng khống, nên thơ.

+ Vẻ đẹp giản dị mà kiêu hùng
- Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, lẫm liệt - có bóng
dáng của các tráng sĩ xưa - coi cái chết nhẹ nhàng, thanh thản: Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh/áo bào thay chiếu anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc
hành...nhưng cũng rất thời đại, rất mới mẻ.
-Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên một cách chân thực, gần gũi trong nét
hồn nhiên , tinh nghịch (Người lính trong Đồng chí của Chính Hữu khơng có
dáng dấp tráng sĩ mà gần với Văn tế NSCG ). Họ là những người chiến sĩ của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bước vào cuộc chiến khốc liệt với tư thế
ngang tàng, bất chấp hiện thực nghiệt ngã: "Heo hút cồn mây súng ngửi
trời"... "Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc - Quân xanh mâu lá dữ oai hùm";
"Chiến trường đi chằng tiếc đời xanh". Nhưng điều làm nên sức mạnh thực sự
của người lính Tây Tiến là nguồn lực tinh thần. Ý chí chiến đấu qn mình,
tình u mãnh liệt với quê hương đất nước mà biểu hiện cụ thể trong bài thơ là
tình yêu với thiên nhiên miền Tây, với núi rừng, làng bản. Tình yêu cuộc sống
làm bừng sáng vẻ đẹp của cuộc đời chiến đấu gian khổ: "nhớ ôi Tây Tiến
cơm lên khói - Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" "Doanh trại bừng lên hội
đuốc hoa - Kìa em xiêm áo tự bao giờ"....
- Viết về người lính trong những năm thăng kháng chiến gian khổ, Quang
Dũng không né tránh sự mất mát, đau thương. Vẻ đẹp của người lính khơng
tách rời nỗi đau của chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh của những người lính đã
được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương, nhưng khơng bi luỵ. Cái chết
đồng hành với mỗi bước chân trên con đường chiến trận. Người lính có thể
gục xuống, ngã xuống vì bom đạn vì sốt rét, vì đói khổ, nhưng đó khơng phải
là sự gục ngã: Trong cái bi (nỗi đau mất mát, chiến tranh tàn khốc) vẫn tiềm
tàng một sức mạnh bất khuất: "Anh bạn dãi dầu không bưởi nữa - Gục lên
súng mũ bỏ quên đời"...; "Rải rác biên cương mỏ viễn xứ - Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc
độc hành"
+ Tâm hồn lạc quan, lãng mạn

- Tâm hồn lạc quan, lãng mạn vốn là phẩm chất tinh thần nổi bật của người
lính. Nhiều tác giả đã viết về điều đó , song ở Tây Tiến, tâm hồn lạc quan, mơ
mộng của những chàng trai Hà Nội không giống với cái hồn nhiên chân chất
của những người lính xuất thân từ từ gốc rạ bờ tre, từ cây đa, giếng nước.
11


( Giếng nước gốc đa...Đằng nớ vợ chưa đằng nớ...Lũ chúng tơi...). Đã có một
thời người ta phê phán câu thơ Đêm mơ Hà Nộ dáng Kiều thơm- cho rằng
QD mộng mơ quá, nhưng suy cho cùng, điều đó lại rất cần thiết. Đặc biệt, đối
với những người lính phải chiến đấu trong một hồn cảnh khắc nghiệt , nếu
khơng có niềm lạc quan, mộng mơ thì họ sẽ chết vì nỗi buồn trước khi chết vì
bom đạn của kẻ thù (nhất lại là đối với những chàng trai HN...). Từng là một
người lính nên QD hiểu rõ điều đó.
-Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến được bộc lộ khơng phải chỉ ở dáng
vẻ oai hùm, phóng túng, mà luôn thăng hoa trong chất tâm hồn, trong từng
giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh. Cái nhìn
của nhà thơ cũng là cái nhìn từ đơi mắt mộng mơ của người lính. Đơi mắt ấy
đã cảm nhận được về đẹp đầy chất thơ của thiên nhiên, con người, cuộc sống
miền Tây Tổ quốc: "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy - Có thấy hồn lau
nẻo bến bờ - Có nhớ dáng người trên độc mộc - Trơi dịng nước lũ hoa đong
đưa". Cũng từ cái nhìn ấy, thế giới của cái đẹp, của thi ca, nhạc hoạ, của tình
u và tình người ln hiện hữu, bất chấp thực tại đầy gian nan, khắc nghiệt,
bất chấp cái chết luôn đồng hành: "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa - Kìa em
xiêm áo tự bao giờ - Khèn lên man điệu nàng e ấp - Nhạc về Viên Chăn xây
hồn thơ"; "Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm".... Cũng bằng cảm quan đầy chất lãng mạn, lí tưởng hố, sự hi sinh của
những người lính vơ danh đã được biểu hiện bằng hình tượng thơ mang vẻ
đẹp thiêng liêng, kì vĩ: "Áo bào thay chiếu anh về đất -Sông Mã gầm lên khúc
độc hành".

Câu 12: 1. Tiểu sử Tố Hữu:
- Sinh năm 1920 - Là đứa con của “Huế đẹp và thơ”, như ơng viết:
“Hương Giang ơi, dịng sơng êm,
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”
(Bài ca quê hương)
- 19 tuổi đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản, tiếp tục hoạt động bí mật
chống Pháp - Nhật.
- Sau Cách mạng, ông phụ trách công tác Văn nghệ, là cán bộ cao cấp của
Đảng và Nhà nước.
- Tố Hữu là nhà thơ lớn của đất nước ta. Hơn nửa thế kỷ làm thơ, năm 70
tuổi ông viết:
“Bạc phơ mái tóc, mây đưa mộng

12


Thanh bạch hồn thơ, nắng nở hoa”.
(“Bảy mươi” – 10/1990)
Tác phẩm thơ
1“Từ ấy”, (1937 – 1946)
5. “Máu và hoa” (1977)
2. “Việt Bắc” (1954)
6. “Một tiếng đờn” (1979 –
3. “Gió lộng” (1961)
1992)
4. “Ra trận” (1972)
2. Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu
- Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị thể hiện nồng nhiệt tự hào lý tưởng
cách mạng, đời sống cách mạng của nhân dân ta.
- Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Khuynh

hướng sử thi, cái tơi trữ tình – cái tơi chiến sĩ mang tầm vóc hồnh tráng, màu
sắc lịch sử được diễn tả bằng bút pháp thần thoại hóa, hình tưởng thơ kì vĩ,
tráng lệ.
- Nét đặc sắc trong thơ Tố Hữu là có giọng điệu riêng. Thơ liền mạch, nhất
khí tự nhiên, giọng tâm tình, ngọt ngào tha thiết.
Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc. Phối hợp tài tình ca dao, dân cam
các thể thơ dân tộc và “thơ mới”. Vận dụng biến hoá cách nói, cách cảm, cách
so sánh ví von rất gần gũi với tâm hồn người. Phong phú vần điệu, câu thơ
mượt mà, dễ thuộc dễ ngâm. “Việt Bắc”, “Nước non ngàn dặm”, “Theo chân
Bác”… là những bài thơ tuyệt bút của Tố Hữu.
Câu 13 Tình cảm của người chiến sĩ cách mạng đối với quê hương cách
mạng:
- Những kỷ niệm ân tình sâu nặng một thời gian khổ
- Nhớ con người Việt Bắc
- Nhớ cảnh Việt Bắc trong 4 mùa
- Nhớ chiến khu Việt Bắc oai hùng
- Trông về Việt Bắc mà ni chí bền.
1. Hai mươi câu đầu là lời nhắn gửi, những câu hỏi của “ta”
(người ở lại nhắn gửi hỏi “mình” (người về). Cảnh tiễn đưa, cảnh phân ly
ngập ngừng, lưu luyến bâng khuâng: “Tiếng ai tha thiết bên cồn… áo chàm
đưa buổi phân li…” Có 8 câu hỏi liên tiếp (đặt ở câu 6): “Có nhớ ta… có nhớ
khơng… có nhớ những ngày… có nhớ những nhà… có nhớ núi non… mình
có nhớ mình…” Sự láy đi láy lại diễn tả nỗi niềm day dứt khôn nguôi của
13


người ở lại. Bao kỷ niệm sâu nặng một thời gian khổ như vương vấn hồn
người:
Các câu 8 hầu như ngắt thành 2 vế tiểu đối 4/4, ngôn ngữ thơ
cân xứng, hài hòa, âm điệu thơ êm ái, nhịp nhàng, nhạc điệu ngân nga thấm

sâu vào tâm hồn người, gợi ra một trường thương nhớ, lưu luyến mênh mơng.
“Mình” và “ta” trong ca dao, dân ca là lứa đôi giao duyên tình tự. “Mình”,
“ta” đi vào thơ Tố Hữu đã tạo nên âm điệu trữ tình đậm đà màu sắc dân ca,
nhưng đã mang một ý nghĩa mới trong quan hệ: người cán bộ kháng chiến với
đồng bào Việt Bắc; tình quân dân, tình kẻ ở người về.
2. Sáu mươi tám câu tiếp theo là người về trả lời kẻ ở lại. Có thể nói
đó là khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến, của người về. Bao trùm nỗi
nhớ ấy là “như nhớ người yêu” trong mọi thời gian và tràn ngập cả không
gian:
- Nhớ cảnh Việt Bắc, cảnh nào cũng đầy ắp kỷ niệm:
- Nhớ con người Việt Bắc giàu tình nghĩa cần cù gian khổ: Điều đáng nhớ
nhất là nhớ người ở lại rất giàu tình nghĩa, “đậm đà lòng son”:
Nhớ cảnh 4 mùa chiến khu. Nỗi nhớ gắn liền với tình yêu thiên nhiên, tình
yêu sông núi, đầy lạc quan và tự hào. Nhớ cảnh nhớ người, “ta nhớ những hoa
cùng người”. Nhớ mùa đông “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Nhớ “Ngày
xuân mơ nở trắng rừng”. Nhớ mùa hè “Ve kêu rừng phách đổ vàng”. Nhớ
cảnh “Rừng thu trăng rọi hịa bình”. Nỗi nhớ triền miên, kéo dài theo năm
tháng.
- Nhớ chiến khu oai hùng:
- Nhớ con đường chiến dịch:
Âm điệu thơ hùng tráng thể hiện sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân
và dân ta. Từ núi rừng chiến khu đến bộ đội, dân công, tất cả đều mang theo
một sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam thần kỳ quyết thắng.
- Nỗi nhớ gắn liền với niềm tin
- Nhớ Việt Bắc là nhớ về cội nguồn, nhớ một chặng đường lịch sử và cách
mạng:
Câu 14 : Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thơ Tố Hữu :
- Khí thế ra trận bừng bừng của quân ta được miêu tả hết
sức chân thực bằng những hình ảnh gân guốc, khỏe khoắn;
bằng những từ tượng hình, tượng thanh chính xác; bằng một

so sánh thống nhìn qua khơng có gì mới mẻ nhưng thực chất

14


lại có ý vị: Đêm đêm rầm rập như là đất rung, các từ láy mang
âm hưởng sử thi hoành tráng.
- Nét lãng mạn trong đời sống kháng chiến cũng được nói
tới bằng hình ảnh vừa giàu ý nghĩa tả thực, vừa thấm đẫm
tính tượng trưng: Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan. Cảm
hứng lãng mạn còn được thể hiện trong vẻ đẹplý tưởng của cn
ngời về cuộc sống mới mẻ , thể hiện niềm tin vững chắc van
tương lai tươi sáng dẫu cịn nhièu khó khăn gian khổ
-Tuy mô tả cảnh ban đêm, nhưng bức tranh thơ của Tố Hữu
lại giàu chi tiết nói về ánh sáng: ánh sáng của sao trời, của
lửa đuốc, của đèn pha... Sự so sánh Đèn pha bật sáng như
ngày mai lên tuy có vẻ cường điệu nhưng phản ánh đúng niềm
phấn chấn tràn ngập lịng người kháng chiến.
- Để thể hiện khơng khí chiến thắng, tác giả lặp lại nhiều
lần từ “vui” và đưa vào thơ một loạt địa danh thuộc cả 3 miền
Bắc, Trung, Nam, quyện hoà, xoắn xuýt với nhau. So với
những nhà thơ khác như Quang Dũng, Hoàng Cầm, cách sử
dụng địa danh của Tố Hữu vẫn có những nét riêng độc đáo.
- Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng dấp
một sử thi hiện hưđại bởi chỉ cần phác họa khung cảnh hùng
tráng ở Việt Bắc, tác giả đã làm sống dậy khí thế vơ cùng
mạnh mẽ của cả một dân tộc đứngn lên chiến đấu vì tổ quốc
độc lập tự do.
Câu 15 : Hình ảnh Đất Nước trong bài thơ cùng tên của Nguyễn Khoa
Điềm

1. Đất nước - cội nguồn dân tộc
-Đất nước có đã lâu rồi từ những “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.
Đất nước gắn liền với mĩtục thuần phong, với cổ tích truyền thuyết “Đất nước
bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn - Đất nước lớn lên khi dân mình biết
trồng tre mà đánh giặc – Tóc mẹ thì bới sau đầu – Cha mẹ thương nhau bằng
gừng cay muối mặn”.
- Đất nước gắn bó với những cái bình dị thân thuộc quanh ta:
-Đất nước là “nơi ta hò hẹn”, là “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm”, là “nơi anh đến trường” là “nơi em tắm”…
- Đất nước gắn liền với dân ca “con chim phượng hồng bay về hịn núi
bạc…, con cá ngư ông móng nước biển khơi”, gắn liền với huyền thoại “Trăm
15


trứng” thiêng liêng:
- Đất nước trường tồn theo thời gian đằng đẵng, trải rộng trên một “không
gian mênh mông”. Yêu thương biết bao, bởi lẽ “Đất nước là nơi dân mình
đồn tụ”, là q hương xứ sở ngàn đời:
- Đất nước lâu đời “ngày xửa ngày xưa”, Đất nước hôm nay, và Đất nước
mai sau. Một niềm tin cao cả thiêng liêng:
Đất nước là của mọi người, trong đó có một phần của “anh và em hôm
nay”. Đất nước mỗi ngày một tốt đẹp vững bền, trở nên “vẹn tròn to lớn”. Đất
nước hình thành và trường tồn bằng máu xương của mỗi chúng ta. Tình yêu
nước là sự “gắn bó và san sẻ”. Đây là một trong những đoạn thơ tâm tình sâu
lắng, hay nhất trong bài thơ nói về tình yêu đất nước:
2. Đất nước của Nhân dân - Đất nước của ca dao thần thoại
- Đất nước hùng vĩ. Giang sơn gấm vóc. Ý tưởng ấy, niềm tự hào ấy đã
được nhiều thi sĩ bao đời nay nói đến thật hay, thật xúc động. Nguyễn Khoa
Điềm nói về ý tưởng ấy niềm tự hào ấy rất thơ và rất độc đáo. Tượng hình,
sơng núi gắn liền với những đức tính quý báu, những phẩm chất cao đẹp của

con người Việt Nam. Là sự thủy chung trong tình yêu. Là truyền thống anh
hùng bất khuất, là tinh thần đồn kết, nghĩa tình. Là khát vọng bay bổng, là
tinh thần hiếu học. Là đức tính cần mẫn sum vầy, là chí khí tự lập tự cường.
Mỗi tên núi tên sơng trở nên gần gũi trong tâm hồn ta:
- Tính phẩm mỹ, tính hình tượng và tính riêng phong cách được hội tụ qua
đoạn thơ này, tạo nên giá trị nhân văn đích thực, làm cho người đọc vơ cùng
thú vị khi cảm nhận và khám phá.
- Tên núi, tên sơng, tên ruộng đồng, gị bãi… mang theo “ao ước”, thể hiện
“lối sống ông cha” là tâm hồn dân tộc:
- Mồ hôi và máu của Nhân dân, của những anh hùng vô danh đã dựng xây
và bảo vệ Đất nước:
- Chính nhân dân đã “giữ và truyền” hạt lúa, đã “truyền lửa”, “truyền giọng
điệu”, “gánh tên làng tên xã”…, “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái
trái”. Chính Nhân dân đã làm nên Đất nước, để Đất nước là của Nhân dân.
Vần thơ hàm chứa ý tưởng đẹp, một lối diễn đạt ý vị ngọt ngào
- Đất nước mang sức sống mãnh liệt, tiềm tàng vì Nhân dân đã biết yêu và
biết ghét, bền chí và dẻo dai, biết “quý công cầm vàng”, “biết trồng tre đợi
ngày thành gậy”, biết trả thù cho nước, rửa hận cho giống nịi mà “khơng sợ
dài lâu”.
- Hình ảnh người chèo đị, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một
biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin
16


tưởng đưa Đất nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:
* Kết luận
Giọng thơ tâm tình tha thiết. Vận dụng tục ngữ ca dao, dân ca, cổ tích,
truyền thuyết… một cách hồn nhiên thú vị. Có một số đoạn thơ rất đặc sắc: ý
tưởng đẹp, cảm xúc và hình tượng hài hịa, hội tụ nên những vần thơ mĩ lệ. Tư
tưởng đất nước của Nhân dân được thể hiện vô cùng sâu sắc với tất cả niềm tự

hào và tình u nước. Một đơi chỗ cịn dàn trải, thiếu hàm súc. Nguyễn Khoa
Điềm đã góp cho đề tài Đất nước một bài thơ hay, ý vị đậm đà.
Câu 16 : Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong bài thơ Sóng của Xuân
Quỳnh:
Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng nói của một tâm hồn thiếu nữ đang trong
độ tuổi hai mươi, tiếng nói của một trái tim chân thành và đam mê, luôn rực
cháy chất trẻ trung mãnh liệt, khao khát được sống hết mình và yêu hết mình:
- Ba hình ảnh sơng, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau :
sông và bể làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với
biển khơi mênh mang thăm thẳm. Tất cả các khía cạnh tương phản dữ dội dịu êm, ồn ào - lặng lẽ tạo nên một cái nhìn bao qt về sóng. Mạch sóng
mạnh mẽ như bứt phá khơng gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn
lao. Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới
giá trị tuyệt đích của chính mình.
- Trên hành trình ấy, điểm xuất phát của sóng tưởng chừng đã đưọc lý
giải rõ ràng: sóng bắt đầu từ gió. Nhưng rồi những băn khoăn cứ nối tiếp cho
đến lúc không thể giải đáp (và cũng khơng cần giải đáp) bằng lý trí, đó cũng là
lúc tầng tầng lớp lớp nghĩa của sóng hiện ra : con sóng của biển khơi tạo ra
sóng thơ, con sóng thơ dào dạt của tâm hồn làm xuất hiện con sóng của tình
u bất tận. Và khi đã thành sóng tình thì khơng bao giờ có thể lý giải được
khi nào ta yêu nhau? Những liên tưởng điệp trùng dào dạt đã nối kết được con
người với không gian biển khơi .
- Gắn với thế giới riêng tư của Anh và Em là cặp hình ảnh sóng - bờ.
Con sóng Xuân Quỳnh sâu kín, tinh tế trong một nỗi nhớ cháy lịng của tình
u. Nỗi nhớ gói gọn trong thời gian của một ngày đêm nhưng đủ sức dồn nén
dung lượng tình yêu của cả một đời người. Nỗi nhớ khơng chỉ có mặt trong
thời gian được ý thức mà còn gắn với tiềm thức - thời gian trong mơ. Vị ngọt
ngào mê đắm của tình yêu lan tỏa trong cách nói nghịch lý trong mơ cịn thức.
Thế giới của Anh và Em không giới hạn chiều dài Bắc - Nam, khơng khoanh
vùng địa bàn mà nơi nào cũng có nỗi nhớ thường trực của tình yêu vĩnh viễn.
17



Xuân Quỳnh đã tiếp nhận nỗi nhớ ấy bằng tất cả sự nhạy cảm của lứa tuổi đôi
mươi và khẳng định cho một cái tôi của con người luôn vững tin ở tình yêu.
- Hành trình Tình Yêu cũng là hành trình tự thử thách của lịng kiên trì
bền bỉ để đạt mục đích của mỗi một cá nhân. Cái nhìn về cuộc đời của Xuân
Quỳnh thật nhân hậu và nồng nàn :
Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hịa lẫn
cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân
không thể tách khỏi cộng đồng. Sóng khơng phải là biểu tượng củaq một cái
tơi ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách
nói Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường : trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hịa
những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn. Mỗi một quan hệ riêng tư sẽ
làm đẹp thêm cho lẽ sống thời đại "Người yêu người, sống để yêu nhau" (Tố
Hữu). Đó khơng chỉ là tinh thần của con người thời đại chống Mỹ mà còn là
âm vang của một tấm lịng ln tha thiết với sự sống, với tình u.
-Trong biển lớn tình u cuộc đời hơm nay, đã có biết bao con sóng đã
tới bờ, đang tới bờ và tìm về bờ. Tình u vẫn ln ln là đề tài hấp dẫn với
mọi lứa tuổi, để mọi người đi tìm những lới giải đáp cho ẩn số tình u trong
một hành trình tìm kiếm khơng mệt mỏi. Sóng của Xuân Quỳnh vẫn vỗ những
nhịp yêu thương, giúp những người đang u thêm tự tin vào chính mình, bởi
thế giới của Anh và Em cũng là thế giới của những con người biết tìm ra ý
nghĩa của sự sống thiêng liêng. Sống là đưọc yêu, Yêu là sống hết mình với
cuộc đời vốn rất nhiều yêu thương.
Câu 17 : Tư tưởng đổi mới của Lor-ca có ảnh hưởng như thế nào trong
thơ ca Thanh Thảo :
- Một nhân cách cao đẹp: yêu nhạc dân gian, dùng tiếng đàn ghi ta để giãi bày
nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân, dũng cảm đấu tranh với
nền chính trị độc tài, nền nghệ thuật già nua, bảo thủ.
- Lor ca là một hịên tượng xuất chúng có sức ảnh hưởng to lớn tới nghệ thuật

và chính trị của Tây Ban Nha lúc bấy giờ, Lor-ca đã nồng nhiệt cổ vũ cho
nhân dân đấu tranh địi quyền sống chính đáng, đồng thời khởi xướng thúc
đẩy mạnh mẽ những cách tân nghệ thuật.
- Là một sự đột phá cho văn minh nhân loại⇒ Thanh Thảo đã từng viết : «
Lorca là nhà thơ của những giấc mơ, của những linh cảm nhoi nhói, một nhà
thơ có thể biến những giấc mơ thành nhịp điệu, có thể biến những linh cảm
thành ngôn từ. Lorca siêu thực một cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự
nhiên » (Lorca trong tôi – Mãi mãi là bí mật, NXB Lao động, 2004).
18


Câu 18 : Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
-Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tn có
thể thâu tóm trong một chữ "ngơng"Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết
của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được
miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện
văn hoá, mĩ thuật.Ơng đi tìm cái đẹp của thời xưa cịn vương sót lại và ơng gọi
là Vang bóng một thời.
-Sau Cách mạng, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan
trọng . Ơng khơng đối lập giữa q khứ, hiện tại và tương lai.Văn Nguyễn
Tuân, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Nguyễn Tuân học theo
"chủ nghĩa xê dịch". Vì thế ơng là nhà văn của những tính cách phi thường,
của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của
gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội...Ông vẫn tiếp cận thế giới,
con người thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây
ơng cịn tìm thấy chất tài hoa nghệ sỹ ở cả nhân dân đại chúng. Còn giọng
khinh bạc thì chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu
cực của xã hội.
-Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ơng có

nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước
mình. Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã
khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu. Nguyễn Tn
cịn có đóng góp khơng nhỏ cho sự phát triển của ngơn ngữ văn học Việt
Nam.
Câu 19: Hình tượng sông Đà qua sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn
Tuân:
-Con sông Đà hùng vĩ, dài trên năm trăm cây số, hiểm trở với hàng trăm
thác ghềnh mang những cái tên cổ sơ, xa lạ (Hát Loóng, thác Giăng, Hót Gió,
Mó Tơm…). Ở ghềnh Hát Lng “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè…!”. Âm thanh tiếng thác nghe ghê rợn như tiếng rống
của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, tre nứa bị cháy.
Sơng Đà có nhiều thạch trận, nhiều cửa tử ít cửa sinh, với những thần sông,
thần đá trấn giữ “nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa,
đánh đòn âm vào chổ hiểm chực “địi ăn chết cái thuyền”. Luồng nước vơ sở

19


bất chí, dịng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đầy thác ghềnh, thạch
trận. Những ông tướng đá mặt xanh lè đáng sợ.
Nhịp điệu câu văn dồn dập. Từ tượng thanh, từ tượng hình, những ẩn dụ
so sánh, tiếng nói đời thường sơng nước, ngơn từ nhà bình, thể thao thể dục,
điện ảnh… được ông vận dụng để miêu tả thác ghềnh, gây ấn tượng về sự dữ
dội, hiểm trở, hùng vĩ của sơng Đà.
-Sơng Đà cịn mang vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng “tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. “Mùa xn dịng xanh ngọc bích. Mùa thu
nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ”. Nguyễn Tn gọi sông Đà là một cố nhân. Cảnh
ven sông ở thượng nguồn lặng tờ. Có bầy hươu ngốn búp cỏ gianh đẫm

sương. Cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Có
đoạn, có khúc sơng: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử - Bờ sơng hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”.
Một về cố thi, một câu đồng dao, một câu thơ Đường, một vài câu thơ
của Tản Đà của Nguyễn Quang Bích được Nguyễn Tn lựa chọn đưa vào,
cho thấy ơng là một cây bút rất sành điệu, tài hoa dẫn dắt người đọc chiếm
lĩnh vẻ đẹp sơng Đà với tình u sơng núi, giang sơn.
Câu 20 : Hình tượng người lái đị sơng Đà qua sáng tạo nghệ thuật độc
đáo của Nguyễn Tn:
-Ơng lão lái đị, đơn độc trên chiếc đị nhỏ, xơng pha vào một trận đồ
bát qi của sông Đà . Những con sống dồn dập lao tới, xiết mạnh qua
những tảng dá nửa nơỉ nửa chìm sơi réo lên , bắn tung bọt nước vào con đò
nhỏ , nhưng con đò với người lái đò cùng những động tác nhanh nhẹn , chính
xác đến từng li từng tí đã khéo léo chèo chống luồn lách qua từng tảng đá
ngầm , từng con nước xiết , từng cái hút mà nếu lỡ lọt vào là lập tức bị cuốn
thẳng ngay vào lịng sơng rồi bị bao khối đá , bao luồng nước xâu xé để rồi lúc
nổi nên phía hạ lưu chỉ cịn những mảnh võ cũng với một nỗi khiếp sợ bao
trùm lên dịng sơng .
-Đơn phương độc mã chiến đấu với thủy quái Đà Giang , ông lái đò
không những không cảm thấy mệt mỏi mà ông lại càng minh mẫn, càng hào
hứng , thích thú và khối chí mỗi khi kẻ thù của mình bị rớt lại đằng sau ..
Nhưng sông Đà vẫn chưa tung hết thủ đoạn , nó ra sức chảy xiết , cho nổi nên
một trận điạ đá chìm nổi tiềm ẩn bao mưu đồ thâm độc .Nhưng ơng lái đị vẫn
bình tĩnh , bằng những động tác thuần thục , với suy nghĩ quyết đoán, quả

20


quyết , ông dần lấy thế chủ động và từ từ tiến vào trận đồ bát quái ngũ hành
_đá ngầm mà con sông Đà dã giắng sẵn chỉ chừo ông vào là ra tay hạ thủ …

-Lúc này không thể dùng sức đấu tay đôi như trước nữa mà bây giờ nếu
khơng có chiến thuật đối phó kịp thời thì sẽ thua trận và sẽ bị con thủy quái
Đà Giang nuốt chửng . Một lần nữa , ơng lái đị lại thể hiện cho con thủy quái
kia thấy ông là người khơng dễ gì chịu khuất phục . Con sơng réo lên ùng ục ,
hiện lên ba cưả đá . Trong ba cửa thạch mơn đó chỉ có duy nhất một của sinh,
còn lại hai cửa tử kia lỡ họa họa đi vào là sẽ vĩnh viên khơng cịn lối ra .Thế
nhưng thật kỳ là , ơng lái đị luồn lách một hồi rồi đi thẳng vào cửa sinh trước
sự tức giận cảu thủy quái . Thủy quái càng tức giận lồng lên khiến mặt sông
đỏ ngầu sủi bọt , nố tiếp tục dâng đá tăng sóng . Khơng thể ẩn nấp tấn cơng du
kích như trước nữa , lần này nó hung hãn bao vậy thập diện rồi từ bốn
phương tám hướng ầm lên , tổng tiến công lao tới con đị như vũ bão . Khơng
một chút run sợ , ơng tiếp tục né đỡ , dùng chính mái chèo trong tay mình để
làm vũ khí chống lại và nhanh trí tấn cơng mạnh vào yếu điểm của thủy quái ,
dần dần đánh bại mọi sự tấn công của nó. Thủy quái bị thất thế vội lùi lại đằng
sau nhường bước cho ơng lái đị . Ơng quả là thơng minh mưu trí , và rất có
chiến lược .
-Con đị dần trơi qua thác, con thủy qi vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Nó liền
dùng biện pháp cuối cùng , ra sức van vỉ để cầu xin lòng thương hại nhằm
khiến ơng lã chủ quan, lúc thì lại rống lên để mong cho ông lão lo lắng, sợ
hãi, lúc lại ghào thét khiến ông căm tức mà hiếu chiến , bỏ qn lí trí .Chỉ cần
ơng sa vào một trong ba điều trên là thủy quái lập sẽ đánh úp ông ngay lập
tức, và ông sẽ thua trận .Nhưng kài, ơng vẫn vượt qua được.Thục sự ơng có
một tinh thần rất vững vàng , một tinh thần thép Lúc đó ơng ẵhng cịn vừua
chèo vừa nói chuyện cá tơm , như chẳng để ý gì đến con thủy quái cả .Kết quả
trận chiến , con thủy quái bại trận lầm lũi nhìn ơng từ từ dạo đị đi qua .
Nguyện Tn thật tài tình . Khơng chỉ dùng biện pháp văn học, ơng cịn sử
dụng cả những thủ pháp nghệ thuật ở mọi lĩnh vức khác nhau khiến giá trị tạo
hình cảu tác phẩm lại được nâng lên vượt bậc , và đã đặc tả rất thành cơng
hình tượng người lái đị sơng Đà .
Dưới ngịi bút của Nguyễn Tn, ơng lão lái đị khơng những chỉ là một

vị tướng quân dũng mãnh lao vào trận chiến ác lịêt cùng thủy quái sông Đà để
chiến đấu và chiến thắng mà ơng cịn là một nghệ sĩ , một nghệ nhân của nghề
chèo đò .Những động tác chèo đò thuần thục , nhuần nhuyễn của ông khiến ai
cũng ngưỡng mộ. Mỗi lần ông chèo đờ vượt thác lại là một lần trình diễn nghệ
thuật trên sân khấu sơng Đà .Ơng đúng là hiện thân cho ước mơ, khát vọng
21


chinh phục thiên nhiên của con người . hình ảnh người lái đị sơng Đà là bức
chấn dung của người lao động bình thường nhưng đó lại chính là vẻ đẹp của
cuộc sống, và cũng là vẻ đẹp của con người trong cuộc mưu sinh.
Câu 21: Vài nét về phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí.
Nét đặc sắc trong sáng tác của ơng là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí
tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp
từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,… Tất cả được
thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
Câu 22: Hình ảnh sơng Hương qua cái nhìn đa chiều của Hồng Phủ
Ngọc Tường
1. Vẻ đẹp sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên :
Khác với nhiều con sông “sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”.
Nghĩa là sông Hương gắn liền với Huế.Điểm nhìn nghệ thuật của bài thơ là
sơng Hương.
+ Sơng Hương ở đầu nguồn (thượng nguồn):Tác giả miêu tả sông
Hương ở đầu nguồn với sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng dịu dàng
và say đắm.--> “Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm
hồn tự do và trong sáng”. Dịng sơng đã được thổi bằng ngọn gió tâm hồn dào
dạt nhạy cảm, liên tưởng tự do để càng mạnh mẽ hơn, đắm say hơn ở địa phận
thượng nguồn.
+ Sông Hương ở đồng bằng:

- Sông Hương được thay đổi về tính cách: “Sơng như chế ngự được bản năng
của người con gái” để “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người
mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”
- Sơng Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc chảy dưới chân những rừng thông u tịch
với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn.
-> Đó là vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga
của tiếng chuông chùa Thiên Mụ, có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi
bờ xanh biếc vùng ngoại ơ Kim Long, có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói”
khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc và những hàng cau
thôn Vĩ Dạ.
+ Đoạn tả sông Hương khi đi qua thành phố đã gây được nhiều ấn
tượng:
-Đấy là hình ảnh chiếc cầu bắc qua dịng sơng Hương: “Chiếc cầu trắng in
22


ngấn trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”
-Nhà văn như thổi linh hồn vào cảnh vật: “đường cong ấy làm cho dịng sơng
như mềm hẳn đi, như một tiếng vâng khơng nói của tình u”, “Tơi nhớ sơng
Hương, q điệu chảy lững lờ của nó khi ngang qua thành phố”.
-Dường như sông Hương không muốn xa thành phố: “Rồi như sực nhớ lại một
điều gì đó chưa kịp nói. Nó đột ngột đổi dịng rẽ ngặt sang hướng Đơng Tây
để gặp lại thành phố ở góc Bao Vinh…khúc quanh này thật bất ngờ…Đấy là
nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình u”.
- Sơng Hương trở lại “để nói một lời thề trước khi về biển cả”.Tác giả liên hệ
“Lời thề ấy vang vọngkhắp khu vực sơng Hương thành giọng hị dân gian, ấy
là tấm lịng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với q hương xứ
sở”.
2.Vẻ đẹp sơng Hương được khám phá dưới góc độ văn hóa :
+ Tác giả cho có một dịng thi ca về sơng Hương. Đó là dịng thơ khơng

lặp lại mình
- Tác giả gắn sơng Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương đã trở
thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya…Quả đúng vậy, toàn bộ nền
âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành trên mặt nước của dịng sơng này”.
- Tác giả tưởng tượng: “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi
bán âm của những mái chèo khuya”.Phải có độ nhạy cảm về thẩm âm, hiểu
biết về âm nhạc của xứ Huế, tác giả mới có sự liên tưởng này.
- Với ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, HPNT nhớ tới Nguyễn
Du; “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến
trăng sầu.Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”.
+Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử:
- Tên của dịng sơng Hương được ghi trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi;
“Nó được ghi là linh giang”
- Dịng sơng ấy là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt.
- Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền với tên
tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ.
- Nó đọng lại đến bầm da, tím máu “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ
XIX”.
- Nó đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung
chuyển.
- Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến cơng tết Mậu Thân 1968. Sông Hương
đã gắn liền với lịch sử của Huế, của dân tộc.
=>Bài bút ký kết thúc bằng cách lí giải tên của dịng sơng; sơng Hương,
23


sơng thơm. Cách lí giải bằng một huyền thoại:
Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì u
q con sơng xinh đẹp, nhân dân hai bờ sơng đã nấu nước của trăm lồi hoa đổ
xuống dịng sơng cho làn nước thơm tho mãi mãi.Huyền thoại ấy đã trả lời

câu hỏi : ai đã đặt tên cho dịng sơng?
Câu 23: Số phận người nơng dân miền núi trong tác phẩm “ Vợ chồng A
Phủ của Tơ Hồi”.
Tác phẩm đã tái hiện bức tranh chân thực về cuộc sống đau khổ, bi thảm
của người lao động miền núi. Trong đó Mị và A phủ- 2 con người dưới ách áp
bức bóc lột của bọn chúa đát phong kiến, phải làm nô lệ, mang thân phạn phận
tủi nhục chính là là những nạn nhân tiêu biểu cho chế độ tàn bạo dã man nói
trên.
- Bọn chúa đất, bọn thống lí cấu kết với giặc Pháp, được bọn Tây đồn cho
muối về bán, ăn của dân nhiều, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc nhiều
thuốc phiện nhất làng.
- Pá Tra cho vay nợ lãi, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Tuổi xuân
và hạnh phúc bị cướp mất. Mị sống khổ nhục hơn con trâu, con ngựa.
- A Phủ vì tội đánh con quan mà bị làng xử kiện, bị đánh, bị phạt vạ, trở
thành kẻ ở nợ cho Pá Tra.
- Cảnh Mị bị A Sử trói đứng. Cảnh A Phủ bị trói cho đến chết vì tội để hổ
bắt mất bị.
- Cảnh bọn Tây đồn Bản Pe càn quét khu du kích Phiềng Sa: cướp lợn, giết
người, đốt phá vô cùng tàn bạo.
Câu 24: Sức phản kháng mãnh liệt của nhân vật Mị trong “vợ chồng A
Phủ”
“Vợ chồng A Phủ” là truyên thành cơng nhất trong tập “Truyện Tây
Bắc” của Tơ Hồi. Trong truyện này, nhân vật Mỵ có hồn hơn cả. Mị có hai
mặt tưởng như đối lập nhưng thực ra lại rất thống nhất. Mặt thứ nhất là Mỵ bị
chà đạp nặng nề đã sinh ra buồn rầu và dần dần sinh ra cam chịu, mất cả sức
sống. Mặt thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mỵ vẫn cựa quậy, vẫn tiềm
tàng, tiềm ẩn một sức sống để từ đó bước vươn dậy và cuối cùng phá cũi tháo
lồng và tìm lại được lẽ sống cho mình.
Bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá-Tra là tấn bi kịch đau đớn nhất
trong cuộc đời nàng. A Sử đối với nàng như đối với một người nơ lệ. Nhưng

vì nàng là ngươi con gái giàu tình thương, có đức hi sinh nên nàng đành cam
24


chịu để trừ nợ cho cha. Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ
tưởng mình cũng là con trâu con ngựa. “Con ngựa, con trâu làm cịn có lúc,
đêm nó cịn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi
vào công việc cả đêm cả ngày ”. Quá đau khổ, nàng đã phản kháng bỏ nhà Pá
Tra trở về. Nàng định lạy cha rồi ăn lá ngón chết. Nhưng khi nghe cha nói:
“Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn, quan
lại bắt tao trả nợ… Không được con ơi!”. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá
ngón rồi trở về nhà Pá Tra. Vì quá thương cha mà nàng đành cam chịu cuộc
sống nơ lệ ở nhà thống lí.
Nhưng trong tâm trạng, trong bản chất cuộc sống của Mị tiềm ẩn một
sức sống mãnh liệt. Trong nỗi buồn, trong suy nghĩ, trong ý muốn tự tử của
nàng đã biểu lộ tinh thần không muốn cam chịu, không muốn chấp nhận cuộc
sống lầm than, tủi cực hiện tại. Sức sống bị đè nén chỉ cần có cơ hội là nó sẽ
bộc phát. Những đêm tình mùa xuân đã tới, tâm hồn Mị bị xáo trộn. Nàng đã
lắng nghe tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết
bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta khơng có con trai con gái
Ta đi tìm người u”
Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi
đấy hồi tưởng lại ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay
như thổi sáo. Mùa xuân, Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu
người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Sức
sống lại dạt dào trong lòng nàng. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng độy
nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn

đi chơi.” Tiếng sáo còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn lại tóc, Mị mặc váy
hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa? Dĩ nhiên tuổi
xn của nàng đã bị tàn phá. Sức sống của nàng đã bị đè nén. A Sử trói Mị lại,
quấn tóc lên cột. Đóng cửa buồng rồi bỏ đi. Thật là tàn bạo, Mị vẫn đứng im
như khơng biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng
sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi.
“Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào”
Mị vùng vằng bước đi nhưng tồn thân đau nhức khơng cựa được. Sức
sống tiềm tàng trong người Mị bộc phát thật là dữ dội.

25


×