Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

MỘT NÉT BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM ( NHÌN TỪ HƯƠNG ƯỚC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.65 KB, 9 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỘT NÉT BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM
( NHÌN TỪ HƯƠNG ƯỚC)
1. Lẽ dĩ nhiên: Bản sắc văn hóa tộc người luôn ẩn tàng trong các biểu hiện
văn hóa cụ thể của tộc người đó. Cũng có một mỗi liên hệ như thế giữa Hương
ước và bản sắc văn hóa Việt Nam. Bởi lẽ, từ Hương ước, toát lên một nét thuộc
về tâm thức văn hóa Việt. Tính dung hòa hay khoan hòa. Phần còn lại của bài sẽ
gắng chứng minh cho nhận định vừa nêu.
2. Hầu hết các học giả Việt Nam, với điều kiện tư liệu hiện nay, đều xác
định mốc xuất hiện của Hương ước là từ thế kỉ XV – thời Lê sơ (Hương ước
được hiểu như là các văn bản ghi những điều ước của làng bằng chữ Hán hoặc
Nôm)... Chí ít thì dưới thời Lê Thánh Tông trị vì (1490 - 1497), trong số các văn
kiện về nội chính của triều đinh, có một chỉ dụ nhằm hạn chế việc các làng lập
Hương ước
1
. Chứng tỏ bấy giờ, việc lập Hương ước đã khá phổ biến. Các thời
kì sau đó, Hương ước tiếp tục tồn tại và nảy nở. Trong bài, người viết chỉ giới
hạn việc khảo sát loại hình Hương ước cho đến cuối thế kỉ XIX. Vì từ đó trở về
sau, bản thân Hương ước đã phát sinh nhiều yếu tố khác.
Vậy là, Hương ước đã tồn tại quan suốt thời kì phát triển điển hình
của chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam. Các bối cảnh (context) của Hương
ước là như thế. Ấy mà, suốt mấy trăm năm đó, không vì cái bóng của nền quân
chủ hắt xuống mà Hương ước nơi làng xã trở nên nhạt mờ. Trái lại, nó vẫn hiện
diện một cách sinh động trong đời sống làng, giữ vai trò như một “cương lĩnh
tinh thần”
2
(Từ Chi) của cộng đồng thôn ổ.
Những gì vừa nêu dấy lên trong ta cảm giác về sự tồn tại của một mối
mâu thuẫn: Giữa một bên là việc hiện hữu (existence) của Hương ước tượng
trưng cho tính tự trị của làng (có câu “phép vua thua lệ làng” _ Hương ước chính
là lệ làng đấy thôi); Với một bên là xu hướng TW tập quyền, xu hướng chối bổ


mọi biểu hiện cục bộ địa phương chủ nghĩa (Régionaliame), mà cái Hương ước
1
Dẫn theo Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa dân tộc – Tạp chí văn hóa nghệ
thuật, H. 2001, tr. 352.
2
Từ Tri, Sđd, tr. 311.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lại có vẻ như “nhuốm” một sắc màu cục bộ! Đãng lẽ có cái này thì phải thôi cái
kia: Tập quyền thì không chấp nhận tự trị và đã có tự trị thì tập quyền khó lòng
phát triển theo đúng nghĩa của nó. Thế nhưng, trong lịch sử làng xã Việt vẫn
không mất hết quyền tự trị, mà xu hướng tập quyền vẫn là một hiện thực khó
lòng chối cãi.
Tìm hiểu vấn đề, mới vỡ lẽ ra rằng: Cái gọi là mâu thuẫn ấy chỉ là một ảo
giác (illusion). Kì thực, giữa làng với nước đã không có một đường biên ngăn
cách đến mức chúng trở thành hai, cực thực thể hoàn toàn biệt lập với nhau: Đã
diễn ra một sự nhân nhượng lẫn nhaugiữa nước với làng. Tình hình đó ảnh xạ
qua Hương ước.
2.1. Như ta đã biết, từ Lí – Trần trở đi, các ông vua Việt Nam đều muốn
tiến hành con đường tập quyền. Nó vừa là một đòi hỏi khách quan, lại vừa là
một hiện thực. Trong quá trình đó, có một điều mà các triều đại không thể không
tính đến: Sự hiện diện của một biển tiểu nông bao gồm các làng xã với cả sức
mạnh truyền thống lẫn hiện tại của nó. Hơn nữa, làng xã lại có vai trò cực kì
quan trong đối với Nhà nước: Đó là hạ tầng sản xuất kinh tế nông nghiệp lúa
nước nuôi sống cả Quốc gia, là nguồn để Nhà nước thu thuế, bắt phu, huy động
lực lượng cho quân đội...
Trên thực tế, bất cứ triều đại nào cũng muốn hút cơ sở về TW. Chức xã
quan ra đời có lẽ để thể hiện ý nguyện đó. Nhưng việc thực hiện được đến đâu
lại là một chuyện khác, chỉ bởi cái chức quan đó có một thân phận cực kỳ chìm
nổi – khác hẳn các chức quan khác trong lịch sử hệ thống quan chức Việt Nam.
Theo sử cũ, đời Lý chưa đặt chức xã quan (hay một loại hình quan chức nào

tương đương). Sang đời Trần, Thái Tông bắt đầu đặt các chức đại tư xã, tiểu tư
xã; quan từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã, cùng
với xã trưởng, xã giám đều là xã quan, giữ việc làm hộ tịch, chức vụ cũng xem
là quan trọng. Các đời sau noi theo không đổi
3
. Đến Thuận Tông, trong đời
Quang Thái (1397) mới bãi chức xã quan. Vì sao mà bỏ? Phải chăng vì sự có
cũng như không (về mặt hiệu năng) của nó khi mà sự kiểm soát của Nhà nước ở
3
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, TII, Quan chức chí – Lễ nghi trí, Nxb Sử học, H. 1961, tr. 31.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vùng trung tâm thời Mạt Trần đầy biến động còn hạn chế nói chi đến các vùng
cơ sở, các vùng ngoại vi (suburban) xa xôi! Đên hậu Lê, nhất là dưới thời Lê
Thánh Tông, trong nỗ lực xây dựng một mô hình tập quyền cao độ, Nhà nước
rất quan tâm đến làng xã và có các chính sách cụ thể. Phan Huy Chú: “Nhà Lê,
khi mới dựng Nước, lại đặt xã quan, xã lớn 3 người, xã vừa 2 người, xã nhỏ 1
người. Thánh Tông, trong đời Quang Thuận, đổi xã quan làm xã trưởng. Sự
Trung Hưng, trong đời Vĩnh Thọ (1658) lại sai các châu chọn đặt xã trưởng, xã
tư, lấy nho sinh, sinh đồ làm các chức ấy, giao cho chỉnh lý việc làng, khám hỏi
các việc kiện cáo... Đến giữa đời Cảnh Trị (1663 - 1672), lại sai chọn con em
nhà lương thiện cho làm xã trưởng, để dạy dỗ nhân dân trong xã, hạn 3 năm
được xét công việc thì thăng làm huyện quan. Trong đời Bảo Thái (1720) lại
đinh phép khảo khóa, những xã lớn, xã vừa, xã nhỏ, đều định danh số, giao cho
các xã trưởng coi giữ làng mạc, thu nộp thuế điền, thuế đinh, nếu hai lần khảo
đều làm việc giỏi, sẽ được cất nhắc cho chức phẩm, lệ cứ ba năm xét công một
lần”
4
.
Nhưng những sự xếp đặt có một bề ngoài rất bài bản đó trong thời Hậu
Lê, chỉ đến đây thôi. Vì: “về sau lâu dần bỏ lệ ấy không thi hành nữa. Những đời

Long Đức (1732) Vĩnh Hựu (1735) về sau, việc đặt xã trưởng đều do ở dân,
phép khảo khóa bỏ đi, mà chức xã quan không coi trọng nữa”
5
.
Triều Nguyễn cai trị đất nước, với Minh Mạng - Ông vua có khát vọng tái
hiện công nghiệp của Lê Thánh Tông bằng cách củng số sức mạnh vào tay Nhà
nước tập quyền TW, đã thi hành nhiều chính sách mạnh mẽ đối với các vùng
biên: Áp dụng chế độ lưu quan - đưa quan lại của triều Đinh lên cai trị trực tiếp
các châu, huyện vùng dân tộc thiểu số (1853), tiến hành cải cách hành chính trên
quy mô cả nước (1831 - 1832); Thực hiện chính sách quân điền ở Bình Định
(1838). Dưới triều đại Minh Mệnh, nước Đại Nam lộ được nhiều thành tựu trên
nhiều mặt; Nhưng – cũng đừng quên rằng: 20 năm Minh Mệnh tại vị (1820
-1840) cũng là khoảng thời gian xuất hiện những phản ứng cực kỳ mạnh mẽ của
4
Pha Huy Chú, Sđd, tr. 32.
5
Pha Huy Chú, Sđd, tr. 32.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các tầng lớp ở cơ sở với 250 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ khác nhau, đã để lại những
vết rạn (crack) nhất định trong bộ máy quyền lực của triều Nguyễn sau này. Nên
lí giải hiện tượng đó như thế nào? Ở một góc độ nào đó, có thể xem đó như là
một ứng phó (Response) của chủ nghĩa địa phương, của tính tự trị làng xã, của
cái truyền thống (tradition) trước sự tác động của những thách thức (challenge)
mới mẻ về tính chất đến từ chính quyền bên trên. Các chính sách của Minh
Mệnh tác động lên các vùng cơ sở, rất có thể, đã rơi vào tình trạng mang tính
quy luật mà Ănghen từng chỉ ra một cách tài tình: “Mỗi bước tiến mới sẽ tất yếu
biểu hiện ra như là một sự xúc phạm tới cái thiêng liêng, là một sự nổi loạn
chống lại trạng thái cũ, đang suy đồi nhưng được tập quán thần thánh hóa”.
Người viết cố ý dông dài (giông dài) bàn luận về sự thăng trầm của chức
xã quan qua các triều đại cốt để nói rằng: Dầu sao đi chăng nữa, thì từ thế kỉ XV

trở về sau, các ông vua Việt Nam, về đại thể, đã thực hiện một con đường
chuyên chế có giới hạn: Họ đã không cho phép mình lãng quyên sự có mặt của
một biến làng xã - phải nhân nhượng nó, và vì thế mà Hương ước mới có cơ hội
tồn tại chăng?
Phải nói rằng: Hương ước đã phần nào thể hiện tính tự trị của làng. Các
bản Hương ước đề cập đến hầu hết những vẫn đề quan trọng của làng xã: Đọc
“Hương ước Thái Bình”, “Hương ước Thanh Hóa”, “Hương ước cổ Hà Tây”, ta
thấy nội dung của chúng thường hàm chứa các mặt sau:
- Việc bầu báng.
- Việc tế tự.
- Việc canh phòng (tài sản gia đình, của công và hoa màu).
- Các loại hình thưởng phạt.
- Việc khao vọng, biếu xén (lên lão, đỗ đạt, thăng chức).
- Việc chia ruộng...
Nói chung, đó là những vấn đề thiết yếu nhất, thời sự nhất của làng. Mặt
khác, những giao ước của làng luôn được bổ sung trong các bản Hương ước –
khiến cho nội dung của nó luôn “đầy” lên, luôn bắt kịp các diễn biễn của việc
làng. Ví dụ: Hương ước thôn Dương Liễu, xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức –
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hà Tây từ 1668 – 1800 đã liên tục được bổ sung đến ít nhất cũng là mười lần.
Các khoán ước còn sót lại của Dương Liễu cung cấp các thông tin như sau:
- (I) Khoán ước lập ngày 20 tháng 8 năm Cảch Trị 6 (1668).
- (II) Khoán ước lập ngày 19 tháng 2 năm Cảnh Trị 8 (1670).
- (III) Khoán ước lập ngày 20 tháng 3 năm Cảnh Trị 8 (1670).
- (IV) Khoán ước lập ngày mồng 10 tháng 7 năm Cảnh Trị 4 (1666).
- (V) Khoán ước lập ngày 18 tháng 10 năm chính Hòa 12 (1691).
- (VI) Khoán ước lập ngày 21 tháng giên năm Vĩnh Hựu 5 (1739).
- (VII) Khoán ước lập ngày mồng 1 tháng 4 năm Cảnh Hưng thư 10
(1749)
- (VIII) Khoán ước lập ngày 19 tháng 5 năm Cảnh Hưng thư 15 (1754)

- (IX) Khoán ước lập ngày mồng 8 tháng 10 năm Cảnh Hưng 21 (1760)
- (X) Khoán ước lập tháng 3 năm Cảnh Thịnh 8 (1800)
6
.
Các hiện tượng tương tự không hề hiếm trong Hương ước ở các địa
phương khác. Vả lại, một phần nội dung của Hương ước là sự cố định trong
cộng đồng làng – những giá trị liên quan đến đạo đức, luân lý... trở thành hệ giá
trị của cộng đồng. Cho nên, ta bắt gặp bóng dáng của các tập quán pháp xưa
phảng phất trong Hương ước, nó thuộc về thế ứng xử ngàn đời của tâm thức
Việt: Qui định về thờ tự các đền miếu trong làng – liên quan đến tục thờ cúng tổ
tiên của người Việt; Các lệ đối với dân nhập cư, lệ mừng lên lão – gợi nhắc đến
tục trọng xỉ, lệ nộp “cheo” cho làng, lệ bảo vệ các công trình của cộng đồng
làng. Do đó, trong điều kiện Nhà nước và cơ sở xa cách, phép Vua khó lòng
thẩm thấu vào các làng thì Hương ước là công cụ đắc dụng để điều chỉnh những
mối qua hệ phức tạp của cộng đồng (mà ta vẫn quen gọi là việc làng). Có lẽ vì
thế mà một số người, kể cả các chuyên gia về Luật, xem Hương ước như một bộ
Luật, đúng hơn là một bộ “tiểu luật” tồn tại bên cạnh bộ luật của Nhà nước
7
.
6
Xem: Hương ước cổ Hà Tây, Sđd, tr. 36 – 59.
7
Lê Đức Tiết, Văn hóa pháp lý Việt Nam, Tư pháp, H. 2005, tr. 132 -133.

×