Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN DÂN GIAN Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.61 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN DÂN GIAN Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
I. Âm nhạc dân gian Đồng Bằng Bắc Bộ
1. Khí nhạc có trước hay thanh nhạc xuất hiện trước?
Thiên niên kỷ I BC, cư dân đồng bằng Bắc Bộ đã chọn trống đồng
làm vật thiêng và khắc hoạ vào mặt trống những cảnh sinh hoạt âm nhạc.
Âm nhạc thời này gắn với nhảy múa nghi lễ tín ngưỡng. Tư liệu khảo cổ
chỉ cung cấp cho chúng ta biết phần khai nhạc. Khu mộ Việt Khê, Hải
Phòng đã phát hiện được mẫu hình khèn bằng đồng thau, khoảng thế kỷ
IV BC
(1)
.
Nhạc cụ còn được biết chủ yếu là bộ gõ, như: Trống, sáo, đất,
khánh, các loại chuông, lục lạc, khèn, mõ, chiêng, cồng, sênh, phách,…
Các loại nhạc khí xuất hiện như: Đàn, sáo, tre, nhị, kèn… ít có âm thanh
rung. Sự hiện diện của chúng là kết quả của quá trình giao lưu trao đổi lâu
dài. Có loại nhạc khí, cho đến nay vẫn còn chưa biết rõ quá trình sử
dụng
(2)
.
Trên bệ đá chùa Phật Tích (Bắc Ninh) xây dựng khoảng đầu thế kỷ
XI, có hình các nhạc công đánh đàn tỳ ba, đàn giống như đàn tranh, đàn
tam, trống cơm, phách, thổi sáo ngang và sáo dọc, kéo nhị. Ở đây đã thấy
các nhạc cụ có âm thanh rung. Đây là bước phát triển gắn bó với sự phát
triển về ngữ điệu trong tiếng nói. Cách phát triển này là cơ sở cho mối
liên quan ngày càng sâu rộng với thơ văn sau này, mà trước hết phải kể
đến thơ lục bát cùng dân ca, cùng các khí nhạc như: Đàn bầu, đàn đáy,
đàn nguyệt, kèn… Âm nhạc dân gian Đồng Bằng Bắc Bộ tuy phải qua
hàng nghìn năm chịu ảnh hưởng của các luồng âm nhạc nước ngoài, vẫn
giữ được bản sắc riêng và tiếp thu được những tinh hoa của chúng để làm
giầu cho mình. Các thời Lý - Trần, triều đình có sử dụng nghệ nhân múa


(
1)
Diệp Đình Hoa, Phạm Văn Kính những ngôi mộ cổ tìm thấy ở Việt Khê (Hải
Phòng). NCLS. 49-61.1963.
(
2)
Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Thành Phúc. Nhạc cụ bằng đồng, Phù Cát (Hà Sơn
Bình). NPHMVKCH: 168-169, 1984 (xã Phù Cát, Quốc Oai, Hà Tây, Thế kỷ XI-XIII).
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hát Chiêm Thành, Trung Quốc, hoặc thời Lê phỏng theo âm nhạc nhà
Minh, thời Nguyễn phỏng theo nhạc nhà Thanh làm âm nhạc chính thống,
nhưng ảnh hưởng của âm nhạc cung đình không tác động nhiều tới ngoài
dân dã.
Âm nhạc dân gian đua nở khắp nơi, thành phổ biến như: Hát ru,
đồng dao, trống quân, cò lả, ví hò… Một số loại đã phát triển tới trình độ
cao như: Ca trù, chầu văn, quan họ…
Âm nhạc phương Tây theo gót chân quân xâm lược Pháp tràn vào
cũng chỉ gây được ảnh hưởng trong một số thành phố và vùng công giáo.
Dàn nhạc kèn của nhà thờ tuy mang tính dân gian nhưng đã có một trình
độ cao. Âm nhạc dân gian vẫn giữ được vai trò chủ đạo rộng khắp ở các
vùng làng xóm nông thôn. Nhiều làng cũng đã có những dàn nhạc kèn, với
nghệ thuật điêu luyện, cha truyền con nối, góp vui cho cộng đồng.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, âm nhạc dân gian đã được bảo
tồn, khai thác làm cơ sở cho sự phát triển nền âm nhạc dân tộc hiện đại.
Âm nhạc dân gian Đồng Bằng Bắc Bộ có truyền thống lâu đời là cội
nguồn của nền âm nhạc Việt Nam độc đáo và đa dạng, dân tộc và phong
phú. Thông thường, có thể phân thành thanh nhạc và khí nhạc. Trong
thanh nhạc, cũng có hai loại: Hát không có nhạc đệm và hát có nhạc đệm.
Người Việt, không chỉ ở vùng Đồng Bằng Bắc Bộ, mà còn ở khắp các
vùng đất nước, đều thích ngâm thơ, hát thơ. Người Việt vốn nói đã như

hát, cho nên về mặt này có lẽ không nên câu thức trong sự phân loại tách
bạch phân biệt ca dao với dân ca. Thơ, ca, hò vè có sự phân biệt rạch ròi,
nhưng đứng ở góc độ mà chúng ta quan tâm ở đây, có thể xếp chúng vào
thanh nhạc. Các điệu hát thường là được truyền khẩu, nhập tâm, học thuộc
lòng. Khí nhạc cũng được biểu diện độc tấu hay hoà tấu. Đứng ở góc độ
dân tộc âm nhạc học, người Việt có một bản sắc độc đáo là khi đã hát các
ca khúc nước ngoài họ đều Việt hoá. Ngay cả các ca sĩ được đào tạo chính
quy có hệ thống, cũng có hiện tượng nêu ở trên. Ưu điểm này cũng là một
nhược điểm đối với các ca sĩ chuyên nghiệp. Người Việt không có kiểu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hát bè, nhưng rất chú trọng sự hoà giọng, khí nhạc khí đệm cho thanh
nhạc lại làm một bè khác có tác dụng nâng giọng hát.
2. Hò lao động
Hò lao động cũng gọi là hát lao động hay hát hò, xuất hiện trên cơ
sở của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước.
Hát hò trong các sinh hoạt văn hoá như: Hát Xoan (phú Thọ), hát
Dô, hát Chèo tầu (Hà Tây)
(1)
, hát Dặm (Hà Nam)… Hát lao động được sân
khấu hoá để trình diễn trong các lễ hội là một vốn liếng độc đáo và phổ
biến. Còn có những bài hát lao động đích thực gắn bó và thích ứng với
công việc nhằm tạo ra sự phấn hứng về mặt cảm xúc và tập hợp năng lực
lao động của nhiều người, điều khiển năng lực này qua nhịp diệu và tiết
tấu, thúc đẩy tiến hành lao động đạt hiệu quả, mang dáng dấp của một
chuỗi hiệu lệnh - tín hiệu làm việc.
Với đặc trưng giỏi dùng thuyền, cuộc sống của người Việt vùng
Đồng Bằng Bắc Bộ ngay trong lời ăn tiếng nói hiện nay vẫn ghi nhận
nhiều dấu ấn đậm nét. Xe khách vẫn gọi là xe đò. Đi nhờ vẫn gọi là quá
giang. Đây là một từ Hán Việt, nhưng cách dùng mới lại hoàn toàn thuần
Việt. Trong cuộc sống những bài hát lao động được diễn xướng tại chỗ và

tức thời. Liên quan đến sông nước có các điệu hò thường ở Hải Phòng,
Quảng Ninh, Thái Bình như: Hò Đò Dọc, hò Đò Ngang, hò Qua sông lấy
củi, hò Kéo thuyền… Hò chèo chuyền là lĩnh vực phong phú, đa dạng về
hình thức kết cấu.
Trong điệu Hò đò dọc ở Hải Phòng tuy vế “xô” và vế “kể” được
phân chia rành mạch, nhưng trong diễn xướng cứ nam hò một lượt cả “xô”
lẫn “kể”, rồi nữ hò tiếp cũng như vậy
(1)
.
Hò qua sông lấy củi của vùng Thuỷ Nguyên, Hải Phòng là một điệu
hò đò ngang, quá trình lao động ngắn hơn hò Dọc, nhưng cũng diễn biến
(
1)
Trần Bảo Hưng, Nguyễn Đăng Hoè, Hát Dô - Chàu Tầu. TVHTT Hà Sơn Bình,
1978
(
1)
Giọng hát nhất do nhà cái cất giọng hò trước, gọi là câu Kể, Nhà con hay tập thể,
tiếp sau, gọi là câu Xô.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với kết cấu trọn vẹn. Khi mọi người đã xuống đò, người giọng nhất mở
đầu bằng một câu nói không có nhịp “Anh chị em ơi! Ta hò bắt nhịp sang
sông nào!”, sau đó những câu “xô” và “kể” cứ nối tiếp nhau chừng nào
mà con đò chưa cập bến. Khi đò cập bến thì câu “xô” cuối cùng cũng dứt,
nhường chỗ cho một câu kết mang phong cách ngẫm ngợi do người giọng
hát nhất hát.
Trong hát Đô (Hà Tây) có điệu chèo thuyền do các thiếu nữ vừa hát
vừa làm động tác chèo lái trong lễ hội. Cấu trúc của nó cũng mang dáng
dấp một điệu hò. Đoạn đầu nhà cái hát (tương đương với “kể”), sau đó
nhà con hát, nhắc lại đoạn của nhà cái ở quãng 4 cao hơn, rồi đi vào đoạn

mới (tương đương với vế “xô”) và cùng dùng tiếng đệm có đặc tính nhằm
mô tả động tác chèo lái.
Ở mái hò, trong hát Dậm (Hà Nam) ta cũng thấy dáng dấp của một
cấu trúc hò:
“Cất quân đi đánh…
Khoan khoan xa xạ hò khoan
Bắt được tướng nói, khao binh khải hoàn
Hò huậy dô mấy dô”.
Trong hát Xoan (Phú Thọ) có một thuyền chèo, với tiết mục Giã Cá,
mô tả cách đánh cá bằng đội hình múa. Cấu trúc điệu hát Giã Cá cũng có
lời ca đệm tương đương với hai vế “xô”, “kể” trong hò:
“Đánh tiếc hay là đánh te là hỡi chúng ta đánh tiếc hay là đánh te.
Giọng dậm mà là anh đứng anh đè riếc rô là vông vông tầm vông vông tập
à tầm vông là vông”.
Ta còn thấy những điệu hát chèo thuyền trong Chèo Chái hê (Bắc
Ninh), hát Chầu văn, hát Chèo… Trong hát Ghẹo (Phú Thọ) bài hát Vãi
tôi tập phúc đóng bè, cho ta một bằng chứng về sự giao lưu của hát Hò
lao động cả trong hát giao duyên trữ tình và hát nghi lễ - phong tục.
3. Hát nghi lễ phong tục
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hát nghi lễ - phong tục bao gồm hát Xoan (Phú Thọ), hát Dậm (Hà
Nam), hát Dô, hát Chèo tầu (Hà Tây), hát ải Lao (Hà Nội)…
Đây là những bài hát trình bày trong dịp Hội mùa hàng năm theo
phong tục và tín ngưỡng thờ Thành Hoàng ở các làng xã giữa một môi
trường trang trọng của lễ nghi và đại náo của hội hè với trống dong, cờ
mở, đèn, hương, hoa, quà, rước xách, tế lễ, cúng bái, xướng, cầu chúc, trò
vui… nhằm cầu mong sự che chở cho tai qua nạn khỏi, phù hộ độ trì bình
yên no ấm.
Hát Xoan có lề lối riêng thay đổi theo yêu cầu địa phương. Thường
mở cuộc hát vào buổi tối, tại gian giữa đình. Người xem ngồi đứng xung

quanh.
Mở đầu, ông Trùm cùng ông Chủ Tế của làng đứng trước hương án
thờ hát Chúc và đọc bài khấn theo nghi thức. Sau đến trò Giáo Trống,
Giáo Pháo của một kép trẻ. Tiếp đến 4 đào ra hát Thơ Nhang, mang nội
dung dâng hương. Bài hát đóng Đám kết thúc giai đoạn I đã mang nội
dung giao duyên, tuy vẫn được coi là “lề lối” (nghi thức).
Giai đoạn II: Thường trình diễn 13 quả cách sau:
1. Kiều giang cách.
2. Nhàn ngâm cách
3. Tràng mai cách
4. Ngư - tiều - canh - mục cách.
5. Đối giấy cách
6. Hồi liên cách
7. Xoan thời cách
8. Hạ thời cách
9. Thu thời cách
10. Đông thời cách
11. Tứ mùa cách
12. Thuyền chèo cách
13. Chơi dâu cách.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các “quả cách” có nội dung miêu tả đời sống và sinh hoạt nông
thôn, hoặc ca ngợi thiên nhiên, hoặc kể chuyện xưa tích cũ, v.v… Âm
nhạc của các cách có nhiều vẻ. Phong cách cơ bản là hát nói, được trình
bày với một kép ngồi giữa, vừa đánh trống vừa hát “dẫn cách”, các đào
hát phụ hoạ, nhắc lại lời “dẫn cách” hoặc “lời đệm”, hoặc tiếng “đưa hơi”.
Lời quả cách có phần đóng góp của nho sĩ bình dân, thường chia ba phần:
a. Giáo cách (mở đầu).
b. Đưa cách (phần giữa).
c. Kết cách (phần cuối).

Phần quả cách được coi như phần hát thờ. Khi có nhiều phương
tham gia, lễ hội thường dành hẳn một đêm để các phường trình diễn.
Giai đoạn ba còn có nhiều tiết mục múa hát khác: Các hoạt cảnh,
các trò chơi. Đây là phần hứng thú và sinh động nhất: “hát trao tình”,
“chơi bợm gái”, “bỏ bộ”…do các đào vừa hát vừa làm “điệu bộ” hoặc
múa.
Tiết mục “Xin hoa - Đố chữ” mang tính chất “giao duyên” do 8 đào
và 4 kép hát đối đáp. “Gái ho” cứ một nam hai nữ làm một cách hoa, cầm
tay nhau vừa quay lộn, vừa tạo hình vừa hát. Tiếp theo còn “Hát Đúm”.
Tiết mục kết thúc chương trình hát Xoan : “Giã Cá” hoặc “Đánh
cá”, là cảnh múa hát sôi nổi. Đào là cá, kép là người đánh cá, hai bên săn
đuổi cho đến khi bắt được cá, khiêng để lên bệ thờ, dâng thần. Khi ông
chủ tế vào tế “cá” mới được nhấc xuống. Có nơi như Đức Bác lại dùng
kép làm cá.
Hát Dô ở Liệp Tuyết, Quốc Oai, Hà Tây được ghi chép thành sách
gọi là Quốc nhạc diễn ca”, chỉ trình diễn 36 năm một lần tại “Ca Xoan
Điện”, do một đội gồm nhà “cái” hát dẫn giọng chính và nhà “con” (một
số thiếu nữ ở làng). Nội dung hát Dô cũng gồm những bài ca khẩn nguyện
mùa màng tươi tốt, dân làng thịnh vượng, ca ngợi bốn mùa… miêu tả
chèo thuyền, dệt cửi… và giao duyên.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hát Chèo tàu ở Tân Hội (Gối) Đan Phượng, Hà Tây lại diễn ra 20
năm một lần để tưởng niệm việc khởi nghĩa thời Hai Bà Trưng tại một
“dinh” dựng tạm trên một khu ruộng ngoài làng. Ngoài những bài hát nghi
thức cầu cúng, hát Chèo tầu còn cả nhiều bài hát trữ tình giao duyên trình
diễn với bè xướng (đơn ca) của “Nhà cái” và bè xô (đồng ca) của “Nhà
con”. Ở đây cũng có bỏ bộ.
Hát Dậm, điệu hát mang tính sử thi của dân ca nghi lễ - phong tục
gắn với Lễ hội thờ Thành Hoàng hàng năm. Các “con dậm” là những cô
gái thanh tân từ 13 đến 20 được tuyển lựa vào phường tập luyện theo sự

hướng dẫn của cụ “Trùm”, “Con dậm” mặc áo dài nâu năm vạt, váy lỉnh,
yếm đỏ, chít khăn mỏ quạ. Cụ Trùm mặc quần áo vàng, chít khăn vàng
đứng giữa cầm sênh đánh nhịp cho con dặm vừa múa vừa hát các bài khấn
nguyện như: Hoá sắc, Phong ống, Phong pháp, Dâng Hương… các bài về
sinh hoạt lao động như: Mắc cửi, chăn tằm, dệt vải, đi cầy… ca ngợi tình
yêu nam nữ như: Bỏ bộ, v.v…
Hát ải Lao được trình diễn tại Hội Dóng làng Phù Đổng, huyện Gia
Lâm, ngoại thành Hà Nội vào đầu tháng tư Âm lịch hàng năm để tưởng
niệm vị anh hùng huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương
(1)
.
Phường ải Lao cũng gọi là phường Tùng Choạc có 20 trai trẻ làng
Hội Xá (cùng tống Phù Đổng xưa) chuyên trách phục vụ.
Như ở các lễ hội khác, chương trình hát ải Lao cũng gồm hát, múa
và diễn trò.
Trình tự:
- Hát làm lễ trình.
- Hát khi rước nước.
- Hát khi rước vàng lễ.
- Hát diễn trò săn hổ.
- Hát khi hành quân đi đánh giặc
(
1)
Nguyễn Văn Huyên, Les fêtex de Phù Đổng, Une bataille ce leste dans la trdition ’
annamite. Cahier le la socie te de Ge ographie de Hanoi. XXXIV.H. 1938.’ ’ ’
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Hát đi chiến thắng
- Hát đi thu quân trở về
- Hát đi khao quân
- Hát đi tế kết thúc Hội.

Phường ải Lao ăn ở tại Hội, biểu diễn theo thời gian và trên các địa
điểm mô phỏng diễn biến của trận đánh của Thánh Dóng diệt giặc xâm
lược.
Tuy là loại hát phục vụ cho các nghi thức nhưng nội dung hát ải Lao
người việc phản ánh trình tự Lễ hội như: Vào đền, ra đền… còn ca ngợi
sự ra đời của Thánh Gióng.
Chèo Chái hê là loại hát ở vùng Kinh Bắc, có những điệu kể hạnh,
hát văn, hát than, hát xẩm thập ân, kể bày… trong lễ tang hay trong dịp lễ
“xá tội vong nhân” ngày 15 tháng 7 Âm lịch. Chèo Chái hê được sắp xếp
thành hệ thống bài bản ca khúc, thể hiện các giai đoạn công việc:
1- Đẵn gỗ. 2 - Kéo gỗ 3 - Cốn bè. 4 - Xuôi bè. 5 - Xẻ ván. 6- Nắn
ván. 7- Mai quai. 8 - Mai cọc chèo hoa. 9- Chở đò. 10 - Cắm sào. Phần
mở đầu, kể chuyện 6 người con hiếu thảo.
Cách hát cũng theo hình thức “xướng”, theo lề lối, trình tự và tiếng
mõ của Nhà cái cầm nhịp cho đội Nhà con, phục trang đồng bộ, tay cầm
gậy sơn son thếp vàng làm điệu bộ và “xô” theo.
Hát Văn, hay hát Chầu Văn, là âm nhạc chuyên dùng hát chầu cho
nghi lễ Hầu bóng (hay lên đồng) trong đạo tứ phủ, một tín ngưỡng lâu đời
của cư dân vùng Đồng Bằng Bắc Bộ và Việt Nam.
Các cung văn thường vừa hát vừa chơi nhạc đệm, gồm chủ yếu là
nhạc gõ và cây đàn nguyệt.
Hát Văn có hát Thơ và hát Thi. Bao giờ bài Văn đồng cũng mở với
bài Chầu phủ đền đến Văn tạ, kết thúc cuộc hát. Nội dung chính là những
bài hát chầu từng vị Thánh Mẫu đứng đầu các phủ: Thiên, Nhạc, Thoải
(Thuỷ) và Địa đều không giáng đồng. Chỉ có các Quan, các ông Hoàng,
các Cô, các Cậu, Ngũ hổ. Ông Lốt (Rắn), những trợ thủ cùng các Chầu đệ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ là hoá thanh của các Thánh Mẫu mới giáng
đồng.
Hát Văn tuy theo bài bản nhưng được trình bày bằng nhiều điệu

như: Bỉ, Miễu, Thống, Phú, Kiều dương, Dọc, Cờn, Xá, Hãm, Nhịp một,
Chèo đò, Bỏ bộ, Thỉnh (phụ đồng), Văn, Hò, Song thất, Lới lơ, Cò lả,
Hành vân, Ngũ đối, Lưu thuỷ, Kim Tiền, Bình bản, Sai, Dồn, Đưa thư…
Hát Văn tiếp thu rất rộng rãi âm nhạc dân gian và thơ văn dân gian để có
thể diễn đạt được nhiều trạng thái tình cảm tuỳ nơi, tuỳ lúc và tuỳ tính
cách từng vị Thánh giáng đồng.
Tứ phủ không có Trần Hưng Đạo, nhưng trong việc thờ tự, cầu cúng
tại cá Điện Mẫu, Đức Thánh Trần vẫn tham gia với vị trí cao, nhất là phần
trừ tà hộ mệnh.
4. Hát trong sinh hoạt
Đây là thể loại hát tản mạn trong gia đình, chòm xóm, phản ánh
mối quan hệ huyết thống như: Mẹ con, chị em, vợ chồng, bà cháu… hay
giữa các thành viên của cộng đồng làng xã. Thể lọai này rất đa dạng,
phong phú, gắn bó chặt chẽ với nhiều sinh hoạt dân dã, như: Hát Ru, hát
Trẻ em, hát Xẩm… Ngoài ra còn một số loại hình đơn giản, thông thường,
phổ cập rộng khắp: Kể chuyện thơ, ngâm vịnh Kiều, lẩy Kiều, ngâm
Chinh phụ, kể Lục Vân Tiên, kể vè… Đây là loại ngâm ngợi, văn vần, có
ngữ âm, ngữ điệu tự do, lối đọc thơ, kể chuyện cách điệu cao hơn nói
thường, nhưng chưa đạt mức âm nhạc.
Vè là lại văn vần dân dã thường được sáng tác nhằm phản ánh
những sự việc khác thường, xuất hiện đột ngột trong xóm làng với mục
đích phê phán, giáo huấn theo đạo đức truyền thống như: Chuyện “bỏ
chồng theo trai”, “bất hiếu”, bất mục”… Cũng có những bài vè dài ca
ngợi gương người tài, việc tốt như: Vè Vợ ba Cai Vàng,… Loại vè này
thường do các nho sĩ sáng tác, có tính “Sử thi”, được phổ cấp rộng rãi qua
những người hát xẩm và đã được nhân dân thừa nhận.

×