Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

biện pháp để tạo ra hứng thú học môn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.16 KB, 18 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
MỤC LỤC.
PHẦN A: Đặt vấn đề
I. Lý do chọn đề tài Trang 2
II. Giới hạn nghiên cứu Trang 3
III. Mục đích nghiên cứu Trang 3

PHẦN B: Giải quyết vấn đề
I. Cở sở lí luận Trang 4
II. Thực trạng của vấn đề Trang 4
III. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề. Trang 5
PHẦN C: Kết luận Trang 17
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 1
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
PHẦN A – ĐẶT VẤN ĐỀ
Lời mở đầu
Dân tộc ta có truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo. Cha ông đã để lại
cho thế hệ sau nhiều tư tưởng giáo dục với cốt lõi là “Lấy việc học làm gốc” nó
ngang tầm và tương ứng với tư tưởng giáo dục hiện đại là “Học để nên người”.
Trong chương trình giáo dục phổ thông thì một trong những bộ môn có vai trò
quyết định hình thành nên nhân cách của một con người là Văn học. Trong xã hội
ngày nay, khi con người chúng ta đang bị cuốn theo guồng máy công nghiệp, vật
chất và thực dụng thì cái được gọi là cảm nhận, cảm xúc không còn được xem là
quan trọng nữa. Chúng ta không lấy làm lạ khi một thanh niên Việt Nam với câu trả
lời “Chán lắm!”, “Khó hiểu lắm!” khi được hỏi “Bạn có thích học môn Văn
không?”. Đó là chưa nói đến học sinh, đối tượng gần gũi nhất với môn học thì trả
lời một cách tự nhiên: “ Em không thích!”, “ Học văn chán lắm!” khi được hỏi câu
hỏi trên. Với vai trò là người chuyển tải yêu thương, người định hướng tâm hồn
cho các em thì chúng ta cảm thấy như thế nào trước thực trạng ấy; Đó là câu hỏi
lớn làm canh cánh cho những ai bước vào “nghiệp dạy Văn”.
I. Lý do chọn đề tài.


- Mac Xim Gorki đã nói: “ Văn học là nhân học”. Vâng! Văn học là học về
con người được hiểu ở một phạm vi nào đó về nhân cách. Trước tình hình đó nhiều
nhà khoa học và giáo dục học tâm huyết đưa ra phương pháp đổi mới từ quá trình
dạy học thụ động (thông tin – tiếp thụ) tác động một chiều bên ngoài, chuyển đổi
thành quá trình day học tích cực (dạy – tự học), vật chất hóa hoạt động tự học bên
trong của chủ thể tự học. Đây là một cuộc cách mạng sâu sắc của lịch sử giáo dục
Việt Nam. Nhưng nó không phải được thực hiện và có hiệu quả trong một sớm một
chiều mà cần phải có thời gian dài để thực hiện cuộc cách mạng này.
- Ở các trường Trung học cơ sở nói chung và trường Trung học cơ sở Gia An
nói riêng thì việc mà các em tham gia vào các giờ học Văn khá uể oải. Các em lơ
là, không tập trung, không muốn nghe và tiếp thu kiến thức mà giáo viên truyền
đạt. Là một giáo viên đứng lớp, tôi cảm thấy như có lỗi với học sinh của mình! Tôi
tự đặt ra câu hỏi: “ Có phải là mình giảng học sinh không hiểu nên các em cảm thấy
chán, không muốn học?”
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 2
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
- Tôi đã làm một cuộc thăm dò học sinh của mình thì khoảng 80% học sinh
trả lời là chán vì môn Văn khó hiểu và khô khan đặt biệt là ở phân môn Tiếng Việt,
Tập Làm Văn. Vậy chúng ta nên làm thế nào trước thực trạng chung này? Một câu
hỏi cần có câu trả lời đi kèm với hành động mà mỗi giáo viên nói chung và giáo
viên văn nói riêng cần phải trả lời và thực hiện được.
- Là một giáo viên dạy văn, với mục đích lý tưởng là truyền đạt kiến thức,
định hướng tư tưởng tình cảm cho học sinh của mình, giúp các em biết yêu cái đẹp
và thực sự hứng thú trong giờ học, tôi xin đưa ra một số biện pháp để làm tăng khả
năng yêu thích và cảm thụ văn chương của học sinh.
II. Giới hạn nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu là học sinh Trung học cơ sở Gia An. ( lớp 6,7,8)
- Do thời gian và điều kiện tôi chỉ xoay quanh biện pháp để tạo ra hứng thú
học môn văn. Từ đó tăng khả năng cảm thụ văn chương của học sinh nên còn nhiều
vấn đề cần nói liên quan đến kiến thức chưa được đề cập đến.

III. Mục đích nghiên cứu.
1/ Việc dạy và học kích thích sức mạnh nội tâm đến chừng mực nào đó thì
nó sẽ có sức lôi cuốn, hấp dẫn tới chừng mực ấy. Ngược lại, tất cả những gì lôi
cuốn làm ta say mê cũng đều kích thích các sức mạnh nội tâm của chúng ta. Mà
kích thích sức mạnh nội tâm chính là phát huy mọi năng lực của người học. Hứng
thú dẫn đến hiểu biết, đây được xem là một quy luật của sự nhận thức. Nhiều nhà
bác học quan niệm hứng thú là sự say mê hiểu biết và nhận thức. Nhưng hứng thú
nhất định sẽ động chạm tới tình cảm và sự xúc động của chúng ta nữa. Hứng thú và
yêu thích là các hiện tượng giống nhau về bản chất. Đôi khi người ta có thể thay thế
hai từ đó. Cái gì không làm cho ta xúc động, không đụng chạm đến tình cảm của
chúng ta thì không gây được hứng thú. Khi phát triển hứng thú, chúng ta đồng thời
phát triển cả tình cảm nữa; đôi khi ý chí cũng có thể được nói như vậy.Vì vậy tôi
cho rằng hứng thú trong một giờ học nói chung và giờ văn nói riêng là rất quan
trọng, để học sinh hiểu kiến thức và cảm thụ cái hay của văn chương.
2/ Khi đặt ra vấn đề làm thế nào để tạo ra hứng thú cho học sinh yêu thích
môn văn hơn thì tôi muốn các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệm
giảng dạy, trao đổi, bàn luận để tìm ra được biện pháp thiết thực, khả thi nhất để
giải quyết triệt để tình trạng học sinh chỉ chú ý đến môn học tự nhiên hơn môn học
xã hội và việc bộc lộ tình cảm, cảm xúc một cách hạn chế…
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 3
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
3/ Mục đích cuối cùng của bài viết này là mỗi giáo viên văn sẽ đào tạo cho
đất nước những thế hệ học sinh không chỉ thành thục về kỹ năng mà còn giàu có về
cảm xúc, có tâm hồn trong sáng, nhân ái và biết vươn tới Chân – Thiện – Mỹ trong
cuộc sống.
PHẦN B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Cơ sở lý luận của vấn đề.
- Văn học nhà trường là vấn đề bức xúc thời sự khiến cả xã hội quan tâm.
Mục tiêu của giáo dục hiện đại là phát triển và hoàn thiện nhân cách con người. Đã
đến lúc chúng ta phải thay đổi cách nhìn về con người, về giáo dục con người trong

đó vấn đề dạy và học văn- một môn học hướng con người vươn tới Chân - Thiện -
Mỹ trong quá trình phát triển nhân cách.
- Văn học sẽ giúp người đọc thấy được cái hay, cái đẹp và biết thưởng thức
cái hay cái đẹp của văn chương nghệ thuật. Từ đó mở mang tri thức, hình thành
nhân các của học sinh. Hơn thế nữa, đối với đối tượng là học sinh thì môn học này
còn giúp cho các em có sự hiểu biết phong phú về mọi mặt của cuộc sống con
người, xã hội và đất nước. Bồi dưỡng cho các em một tâm hồn tươi đẹp, phong
phú, rộng mở. Từ đó khơi dậy niềm tự hào về đất nước, dân tộc mình và tình yêu
cuộc sống này.
- Vậy chúng ta (những giáo viên dạy văn, những con người chuyên chở giá
trị tâm hồn cho trẻ thơ) phải làm sao để có thể đạt được hiệu quả của việc hoàn
thiện nhân cách cho học sinh qua môn học này.
II. Thực trạng của vấn đề:
Những năm vừa qua, nước ta đã có nhiều chuyển biến về văn hóa - xã hội,
kinh tế - chính trị. Nó có nhiều bước phát triển vượt bậc, bộ mặt xã hội thay đổi
theo chiều hướng văn minh hiện đại đó là một điều đáng mừng và tự hào. Nhưng
bên cạnh đó là báo động của sự tha hóa về đạo đức, nhân phẩm ở một số tầng lớp
trong xã hội, đặc biệt xảy ra trầm trọng ở lứa tuổi cắp sách đến trường. Có thể nói
chưa bao giờ tỷ lệ thanh thiếu niên phạm pháp nhiều như hiện nay (chúng ta có thể
thấy qua sách báo, thời sự) tất nhiên nguyên nhân không phải hoàn toàn do nhà
trường, do giáo viên dạy dỗ mà đây là vấn đề toàn xã hội đang nhức nhối, cần phải
quan tâm.
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 4
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
Văn chương là phương tiện cơ bản để con người đi đến thành công trong
cuộc sống, thành công trong các lĩnh vực khoa học. Vì đó là môn học để hiểu và
trình bày những kiến thức khoa học, giúp người học nâng cao cảm xúc thẩm mỹ,
hướng đến lẽ sống cao đẹp. Thông qua những hình tượng văn học sẽ giúp ta yêu cái
thiện, ghét cái ác, trân trọng các cao cả, khing bỉ cái hèn… Nhưng tình trạng học
sinh thờ ơ với các môn học, đặc biệt là môn văn hiện đã đến mức báo động. Càng

học lên lớp trên học sinh càng tỏ ra không thích thú với môn văn học. Điều đó có
thể do nhiều nguyên nhân nhưng ở đây tôi chỉ nêu ra một số nguyên nhân như: Khi
mà xã hội đề cao quá mức tin học, điện tử, ngoại ngữ…tạo ra “cơn sốt” về chúng
thì việc học văn sẽ như thế nào? Đó là chưa kể đến việc các bậc bố mẹ luôn định
hướng cho con của mình theo học những ngành sau này ra trường dễ xin việc, có
nhiều cơ hội kiếm tiền…thì thực trạng hiện nay của văn học trong nhà trường
không có gì đáng ngạc nhiên.
Thế nên cần phải có một biện pháp nào đó để thay đổi suy nghĩ cũng như
tạo ra được sự yêu thích thật sự ở học sinh về môn học này, đây là một câu hỏi lớn
cho mọi người, những người làm nhiệm vụ mang cảm xúc đến với các em.
III. Các biện pháp tiến hành để giải quyết vấn đề.
* Để đưa ra biện pháp giải quyết vấn đề thì chúng ta cần tìm hiểu được học
sinh tích cực được thể hiện ở những biểu hiện nào? Vì học sinh tích cực sẽ góp
phần tạo hứng thú trong môn học này đặc biệt là ở hai phân môn Văn bản và Tiếng
việt.
Theo tôi học sinh tích cực là học sinh phải biết:
- Bắt chước, tìm tòi, khám phá, sáng tạo.
- Chú ý học tập, hăng hái tham gia phát biểu ý kiến, ghi chép.
- Hiểu bài và có thể trình bày lại nội dung bài học.
- Hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập được giao.
- Có ý thức đọc thêm và làm thêm các bài tập khác ngoài những công việc
được thầy giao.
- Hứng thú học tập và có nhiều biểu hiện sáng tạo trong học tập.
- Biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 5
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
Để thực hiện được những cái mà học sinh cần biết trên trên thì bản thân học
sinh phải có hứng thú trong chính từng phân môn của môn Ngữ Văn. ( Văn bản,
Tiếng việt)
Theo tôi để tạo ra được hứng thú thật sự cho học sinh khi tham gia môn học

thì người giáo viên phải thực hiện được một số vấn đề sau:
* Trước khi đề cập đến khâu đầu tiên của các bước lên lớp tôi sẽ nói đến
một khâu vô cùng quan trọng là “ Dặn dò cuối tiết.” Vì chuẩn bị bài ở nhà là bước
tập dượt cho sự cảm thụ trên lớp được sâu sắc hơn. Giáo viên cần chuẩn bị và định
hướng nội dung cho học sinh chuẩn bị tốt ở nhà. Tùy vào từng phân môn mà nội
dung dặn dò khác nhau như: hướng dẫn tập đọc văn bản, tìm hiểu từ khó, suy nghĩ
về một chi tiết nghệ thuật… Nhưng nội dung chủ yếu vẫn nhằm khơi dậy hứng thú
cho học sinh. Câu hỏi cần rõ ràng và khơi gợi sự hứng thú cho học sinh khám phá.
Đây là khâu quan trọng giúp học sinh chủ động tìm kiến thức, phát huy được khả
năng tư duy và tự học cao của học sinh.
1. Giáo viên phải tạo được hứng thú cho học sinh ở phần đầu bài học:
Để tạo sự hứng thú cho học sinh ở phần mở đầu, giáo viên cần thực hiện tốt
một số yêu cầu sau:
- Khi bạn bước vào lớp với thái độ vui vẻ, thân mật đối với học sinh, việc
đánh giá công bằng, khách quan, khen ngợi, động viên… đều là những yếu tố góp
phần tạo nên không khí hào hứng chung của cả lớp để chuẩn bị bước vào bài học
mới.
Tại sao tôi lại đưa ra vấn đề này? Chắc bạn sẽ thắc mắc rằng: “ Làm gì mà
không vui vẻ!”
Vâng! Mỗi chúng ta đều đến với nghề bằng lương tâm và sự đam mê nên
mỗi tiết học trên lớp đều mang tâm huyết là truyền đạt kiến thức cho học sinh. Mỗi
chung ta đều cố gắng hết sức để đạt hiệu quả cao nhất. Nhưng trong thực tế cuộc
sống có một điều ai cũng thấy đúng vì có mình trong ấy, nhưng mấy ai chịu thừa
nhận đó là: có lúc chúng ta bị chi phối bởi những buồn vui trong cuộc sống. Vì vậy
có những tiết học ta bước vào lớp với “tâm trạng của mình”. Có thể bạn đang mệt
mỏi hay bực dọc một vấn đề trong cuộc sống mà bạn không biết quên nó, không
thoát khỏi tâm trạng ấy thì nó ảnh hưởng lớn đến tiết dạy của bạn đấy.
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 6
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
- Mọi giáo viên nói chung và giáo viên văn nói riêng, bản thân chúng ta cần

phải biết quên đi cái trạng thái “ không phù hợp” của mình khi bắt đầu một tiết
học, đặc biệt là môn học nhạy cảm, môn học bị chi phối của tâm trạng người dạy
rất rõ này.
Ví dụ như: Bạn có chuyện buồn gia đình, tâm trạng của bạn đang bực tức thì
làm sao bạn truyền đạt kiến thức tốt cho học sinh. Đó là chưa nói đến việc dạy các
văn bản mang tính biểu cảm. Vì vậy như tôi đã nói bạn cần phải biết “ quên đi
trạng thái không phù hợp” của mình.
- Cách đánh giá nhận xét của giáo viên trong việc kiểm tra bài cũ cũng rất
quan trọng và ảnh hưởng đến không khí chung của lớp học. Bạn nên đánh giá
khách quan đối với kết quả của học sinh, điều đó thể hiện bạn đang tôn trọng học
sinh cũng như đang tôn trọng chính mình.
- Giáo viên nên đặt ra những câu hỏi vừa sức với từng học sinh Giỏi - Khá -
Trung bình - Yếu - Kém và cần đưa ra lời nhận xét cũng như đánh giá đúng theo
từng đối tượng học sinh nêu trên. Cần đưa ra những lời khen ngợi, động viên,
khuyến khích các em để các em thấy được bạn là một người nghiêm khắc nhưng
nhẹ nhàng và tâm lí. Để học sinh thấy được cái ưu của mình và phát huy cũng như
cái tồn tại của mình mà khắc phục. Đặc biệt là đối tượng học sinh yếu- kém bạn
nên đưa ra lời khen ngợi và khuyến khích kịp thời, xứng đáng với các em thì các
em sẽ cảm thấy thoải mái và có hứng thú bước vào tiết học. ( Có thể học sinh của
bạn là một học sinh yếu- thụ động nhưng trong tiết học đó bạn chọn câu hỏi với
mức độ dễ, học sinh sẽ trả lời được- bạn khen, khuyến khích em thì chắc rằng trong
tiết học ấy em sẽ chăm phát biểu hơn. Bạn nên để ý rằng dù là câu trả lời sai nhưng
bạn đừng “chê” mà hãy dùng lời lẽ khuyến khích lần sau.
- Nếu trong một tiết học chỉ nghe kiến thức bằng giọng bực tức của người
dạy thì tiết học trôi qua khá nặng nề và học sinh sẽ cảm thấy uể oải ngay.
- Hứng thú của học sinh thật sự bắt đầu với phần giới thiệu bài.
+ Mỗi người có một cách giới thiệu khác nhau không theo một khuôn mẫu
nào cả, miễn sao là nêu lên được vấn đề cần tìm hiểu trong tiết học và học sinh có
cảm giác muốn tìm hiểu, muốn khám phá. Cái mà ta gọi là “hứng thú”.
Ví dụ: Đối với bài “ Ca Huế trên sông Hương” ở lớp 7 thì tôi sẽ hò hai câu

ca Huế:
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 7
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
“Cầu Tràng Tiền sáu vai mười hai nhịp
Thương nhau rồi xin kịp về mau,
Kẻo mai tê bóng xế qua cầu
Bạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô.”
“Chiều chiều trên bến Vân Lâu
Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm,
Ai thương ai cảm ai nhớ ai mong,
Thuyền ai thấp thoáng bên sông?
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng non với nước non.”
Sau đó sẽ vào bài. Với cách giới thiệu như thế thì kết quả thu được sẽ là sự
hứng thú thật sự của học sinh để bước vào tìm hiểu nội dung bài học. ( 80% học
sinh thích thú thật sự.)
Khi dạy bài “ Từ tượng hình, từ tượng thanh” ở chương trình Ngữ Văn 8, để
giới thiệu bài mới tôi sẽ đưa ra hai câu thơ và kèm theo hình ảnh.
“ Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy tre thành tre ơi!”
và đặt câu hỏi: Trong hai câu thơ trên có những từ nào gợi lên hình ảnh của sự
vật? thì học sinh sẽ chủ động suy nghĩ và có hứng thú tìm tòi trả lời để tạo tư thế
bước vào tìm hiểu nội dung tiết học.
2. Khi bước vào tìm hiểu kiến thức, giáo viên phải biết phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Trong phần này chủ yếu ở cách chọn phương pháp phù hợp của giáo viên
với đặc trưng bộ môn Văn - Tiếng Việt . Chọn đúng phương pháp là điều tối thiểu
một người giáo viên thực thụ cần phải đạt được nhưng để trình bày thành công
phương pháp đó là yếu tố quan trọng trong một tiết dạy. Nó đòi hỏi kinh nghiệm,
sự sáng tạo cũng như sự khéo léo của người đứng lớp nói chung và giáo viên văn
nói riêng.

- Ở đây tôi không đưa ra từng phương pháp cụ thể mà chỉ lấy ví dụ ở
phương pháp “ Nêu và giải quyết vấn đề”. Chỉ với một phương pháp này thôi
nhưng lại có nhiều mức độ khác nhau:
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 8
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
+ Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. → Học sinh
thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên. → Giáo viên đánh
giá kết quả làm việc của học sinh.
+ Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết
vấn đề. → Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của giáo viên
khi cần. → Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
+ Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin, tạo tình huống của vấn đề. → Học
sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn
giải pháp. → Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. → Giáo viên và học sinh
cùng đánh giá.
+ Mức 4: Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của
mình hoặc của cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. → Học sinh giải quyết vấn
đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc.
- Cái khéo léo của người giáo viên là phải biết vận dụng mức câu hỏi phù
hợp với đối tượng học sinh của mình tránh làm cho học sinh cảm thấy chán vì câu
hỏi không phù hợp với năng lực của mình. ( Học sinh khá thì cảm thấy nhàm chán
vì câu hỏi quá dễ còn học sinh yếu - kém thì cảm thấy không hiểu rồi không muốn
hiểu và chán học môn văn. Ở đây ta có thể liên hệ với yếu tố cần bao quát các đối
tượng học sinh.)
Ví dụ như: Đối với bài “ Câu ghép” ở lớp 8- tập I, nếu bạn hỏi “ Câu đơn là
câu như thế nào?” thì đây là một câu hỏi khó đối với học sinh yếu thì bạn phải chọn
cách giải quyết vấn đề ở mức 2 để giúp học sinh của mình trả lời được câu hỏi. Khi
học sinh trả lời được thì học sinh sẽ có được niềm vui và hứng khởi trong suốt giờ
học đó.
- Trong thực tế giảng dạy có những giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi phức

tạp trong một tiết học! Trong trường hợp này có thể học sinh khá giỏi sẽ định hình
được câu hỏi nhưng những học sinh trung bình- yếu sẽ thấy vấn đề quá phức tạp,
không hiểu được yêu cầu của câu hỏi. các em sẽ rơi vào chán nản, bỏ mặc và
“giao” cho học sinh khá-giỏi làm việc, lâu dần trở thành thói quen lười suy nghĩ
chờ bạn trả lời và ghi lại- học sinh thụ động.
- Đối với phân môn Tiếng Việt: đa số các câu hỏi đã có sẵn trong sách giáo
khoa, giáo viên chỉ cần hỏi lại và học sinh sẽ trả lời theo sự chuẩn bị, sự hiểu biết
của mình. Tuy nhiên chúng ta cũng nên khéo léo đặt thêm câu hỏi, tách nhỏ câu
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 9
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
hỏi, biến đổi câu hỏi miễn sao học sinh không cảm thấy khó, phức tạp mà còn làm
rõ được kiến thức của bài để học sinh không thấy được sự rập khuôn về kiến thức.
- Đối với phân môn Văn ( văn bản): câu hỏi đã có sẵn trong phần đọc hiểu
văn bản nhưng tôi thiết nghĩ chúng ta cũng không cần bám sát vào những câu hỏi
ấy một cách rập khuôn mà nên dùng câu hỏi của mình tự đặt ra để giúp học sinh
khai thác nội dung bài học. Tuy nhiên các câu hỏi đó phải giúp học sinh làm rõ và
hiểu được nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa của văn bản qua các chi tiết.
Vậy việc người giáo viên khéo léo trong việc chọn phương pháp để học
sinh cùng giải quyết vấn đề là một yếu tố quan trọng làm cho tiết học thành công
50 %.
3. Trong quá trình dạy văn, đặc biệt là đối với các văn bản mang tính
biểu cảm. Người giáo viên cần có những “ Khoảng lặng”.
- “Khoảng lặng” ở đây không phải là thời gian chết trong một tiết dạy văn
bản mà được xem là khoảng lắng của cảm xúc trong tâm hồn người truyền đạt và
người tiếp nhận sau những lời giảng dạy, phân tích, đặc biệt là lời bình của giáo
viên. ( Ở đây tôi muốn nói thêm là đối với những giáo viên có giọng truyền cảm, có
năng khiếu diễn đạt đầy đủ các cung bậc tình cảm, có lúc trầm, lúc bổng thì đấy là
ưu thế vượt trội và tuyệt vời đối với các tiết giảng văn.) Sau những lời bình ấy nên
lặng ( 5 giây)- lắng lòng mình xuống để cảm nhận nó như thể mình chính là nhân
vật trong tác phẩm. Điều ấy sẽ gợi cho học sinh một chút gì đó là cảm xúc.

- Có thể trong những lần đầu tiên học sinh chưa có khả năng cảm thụ văn
chương thì các em sẽ chưa có cảm xúc gì đặc biệt là học sinh yếu nhưng nhiều lần
hơn nữa thì các học sinh ấy sẽ thắc mắc và đặt câu hỏi: “ Tại sao cô ( thầy) lại có
một khoảng lặng như thế?”. Đấy là học sinh đã biết để ý và bắt đầu có cảm xúc rồi
đấy.
Ví dụ: Trong bài thơ “ Cảnh khuya” và “ Rằm tháng giêng” của Hồ Chí
Minh trong chương trình Ngữ Văn 7- tập I. Sau khi học sinh khai thác được cảnh
đẹp hữu tình giữa người và cảnh, giáo viên sẽ giảng bình về cảnh đẹp ấy (tất nhiên
bạn phải thả hồn mình vào trong ấy thì lời bình của bạn mới đi vào lòng học sinh)
và sau đó nên lặng để lắng lòng mình. Lúc ấy là lúc cả người dạy và học sinh đang
trôi cùng cảm xúc. Sau đó sẽ đánh thức mình và học sinh quay trở lại tìm hiểu nội
dung, ý nghĩa của văn bản qua các chi tiết nghệ thuật tiêu biểu.
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 10
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
Đối với văn bản “Thuế Máu” ở lớp 8 học kì II: sau giáo viên cho học sinh
thấy được tội ác của bọn thực dân đối với những người dân thuộc địa bằng những
lời giảng luận. Lúc này học sinh đã hiểu được vấn đề và sau đó chúng ta lặng lại thì
đây là lúc học sinh cũng đang nghĩ và trải lòng mình cùng cảm xúc của những con
người hôm nay nghĩ về những con người cùng cực của xã hội ngày xưa. Sau đó
điều mà người giáo viên làm tiếp theo là giáo dục học sinh lòng yêu nước, niềm tự
hào và sự đồng cảm. Đấy! Đấy là điều mà mục tiêu nền văn học đề ra. ( Văn học
dạy ta làm người có cảm xúc, biết rung cảm trước hình ảnh bằng cả trái tim được
nuôi bởi máu đỏ và sống bằng lòng nhân ái của loài người.) Học sinh sẽ cảm nhận
được điều ấy thì đây chính là thành quả mà người dạy học đạt được bằng công sức,
trí tuệ và tâm huyết của “nghiệp dạy văn”
4. Trong quá trình dạy học người giáo viên cần tìm tòi và khéo léo đưa
ra những trò chơi, đưa những câu chuyện, bài hát … vào trong bài dạy của
mình.
- Có nghĩa là giáo viên cần chọn những trò chơi phù hợp để qua trò chơi
đó học sinh nắm được, tiếp thu được kiến thức cần đạt của một tiết học. Chính trò

chơi ấy làm cho tiết học giảm bớt cái gọi là căng thẳng, làm cho học sinh thoải mái
hơn, có hứng thú tiếp thu tri thức mà không bị ép buộc, áp đặt.
- Vì chúng ta biết rằng: Giáo dục và đào tạo được hiểu một cách đúng đắn
và khoa học hoàn toàn không có nghĩa là áp đặt một cách giả tạo từ ngoài vào cho
học sinh những tri thức, lí tưởng, tình cảm…hoàn toàn xa lạ với các em, cách biệt
với đời sống thực. Công tác giáo dục và đào tạo đúng đắn chính là khâu đem đến
cho học sinh những tri thức, phẩm chất, tình cảm… thức tỉnh trong học sinh những
gì vốn có trong nó, giúp cho nó phát triển và hướng dẫn sự phát triển đó theo một
hướng nhất định.
- Khi nghiên cứu về hứng thú các nhà tâm lí học cho rằng, đây là thái độ
đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó thì vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống
vừa có khả năng mang lại khoái cảm cá nhân trong quá trình hoạt động. Nó được
biểu hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê hấp dẫn bởi một nội
dung hoạt động. Mặt khác, hứng thú bao giờ cũng dẫn đến đối tượng cụ thể hấp
dẫn, nó gắn liền với tình cảm con người. Trong bất cứ một công việc gì nếu có
hứng thú làm việc thì con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, làm nảy sinh
khát vọng hành động và hành động có sáng tạo. Ngược lại nếu hứng thú không
được thỏa mãn sẽ dẫn đến cảm xúc tiêu cực.
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 11
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
- Khi đưa ra trò chơi có nghĩa là đang tạo hứng thú cho học sinh. Chúng ta
kích thích các em hành động, còn các em phải tự hành động lấy. Chúng ta cung cấp
cho các em cái gì đó thuộc về bên ngoài, các em biến cái đó thành của mình (học
sinh tích cực). Trò chơi ở đây có rất nhiều: Trò chơi ô chữ, trò chơi âm nhạc, ô của
bí mật, những bông hoa xinh…
- Đa số giáo viên thường đưa ra trò chơi vào cuối tiết học để củng cố nội
dung bài học ngoài ra chúng ta cũng có thể đưa ra trò chơi sau mỗi phần kiến thức,
thì sẽ tạo ra được hứng thú trong suốt tiết học chứ không phải đến cuối tiết mới
thấy hứng thú.
Ví dụ như bài “ Điệp ngữ- tiết 55 trong chương trình Ngữ Văn 7 – tập I”

Bạn nên đưa ra trò chơi “ Ai nhanh hơn” vào cuối phần 1 ( Điệp ngữ và tác dụng
của điệp ngữ) để học sinh nhận diện điệp ngữ và tác dụng của điệp ngữ. Qua trò
chơi ấy thì nó như là một bước củng cố kiến thức của học sinh vừa mới được tìm
hiểu và đấy cũng là bước giúp bạn chuyển ý sang phần 2 một cách khéo léo và
thuyết phục hơn.
Việc cho học sinh xác định điệp ngữ và tác dụng của điệp ngữ trong câu ca
dao sau:
“ Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai”
Rồi sau khi học sinh tìm hiểu xong kiến thức của bài giáo viên nên đưa
phần trò chơi âm nhạc vào để học sinh tìm điệp ngữ và nhận ra được dạng điệp
ngữ. (Có thể nghe qua máy nghe nhạc hoặc chính bạn là người hát). Lúc ấy, học
sinh sẽ cảm thấy hứng thú khi tìm hiểu một tiết Tiếng Việt được xem là khô khan
nhưng không cứng nhắc tí nào cả.
- Đối với các tiết Tiếng Việt, Văn bản ( cũng như Tập Làm Văn) người
giáo viên cần khéo léo chọn ra những sơ đồ thích hợp để củng cố kiến thức bài học
khi ấy học sinh sẽ nắm được, dễ nhớ và nhớ lâu kiến thức hơn.
Ví dụ: ở lớp 8, sau khi dạy xong nội dung của bài “Hành động nói” giáo viên
cần cho học sinh tự hình thành một sơ đồ tổng kết bài học. Sơ đồ ấy sẽ giúp học
sinh tổng hợp lại những kiến thức đã học và qua đó nội dung bài học sẽ được khắc
sâu hơn trong trí nhớ của các em. Học sinh sẽ thấy hứng thú hơn vì được chủ động
trình bày điều mà mình suy nghĩ và tổng hợp được sau tiết học.
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 12
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013

Ở bài Tiếng Việt “ Danh từ” lớp 6 – tập I, sau khi giáo viên truyền đạt kiến
thức xong thì cần đưa ra một sơ đồ để học sinh hình thành kiến thức và nhớ ngay
tại lớp những ý cơ bản trong tiết học ấy.
Danh từ
Danh từ chỉ đơn vị Danh từ chỉ sự vật

Danh từ tự nhiên Danh từ quy ước Danh từ chung Danh từ riêng
Chính xác Ước chừng
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 13
Hành
động
nói
Khái
niệm
hành
động
nói

Các
kiểu
hành
động
nói
thường
gặp
Cách
thực
hiện
hành
động nói.
- Hỏi.
- Trình bày.
- Điều khiển
- Bộc lộ cảm xúc.
- Hứa hẹn.
- Trực tiếp.

- Gián tiếp
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
Ở lớp 7 học kì II có bài “ Liệt kê”, nếu giáo viên sử dụng sơ đồ đơn giản
sau thì học sinh có thể nắm được cơ bản kiến thức của tiết học.
Liệt kê
Cấu tạo Ý nghĩa → Giáo viên sẽ cho học sinh thuyết
Trình sơ đồ.
Không Theo cặp Tăng tiến Không
theo cặp tăng tiến.
- Ở phần này, giáo viên cần phát huy tính tích cực của việc sử dụng đồ dùng
dạy học. Khi sử dụng tốt và có hiệu quả các đồ dùng dạy học trong quá trình giảng
dạy sẽ tạo sự tập trung chú ý cao độ của học sinh và phát huy được khả năng tư duy
sáng tạo của các em.
Ví dụ khi dạy văn bản “Sông nước Cà Mau” của Đoàn Giỏi ở chương trình
Ngữ văn 6. Giáo viên dùng tranh, cho các em quan sát, cảm nhận và đặt câu hỏi.
Câu hỏi: Bức tranh miêu tả cảnh gì? Em hãy miêu tả lại bức tranh ấy qua
hình ảnh mà em quan sát được. Học sinh sẽ trình bày theo những gì mình quan sát
được bên cạnh đó các em sẽ cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo, rất riêng của chợ Năm
Căn trên sông nước.
5. Một vấn đề nữa mà tôi thiết nghĩ rất cần trong một giờ dạy văn đó là
ngữ điệu:
- Như đã đề cặp trên đây thì ngoài ra còn có ngữ điệu của đôi bàn tay, của cái
nhìn, cái cảm nhận phù hợp với nội dung bài học thì học sinh mới cảm thấy hứng
thú hơn. Ngữ điệu sẽ làm cho tiết học trở nên sinh động hơn, làm cho tiết học
không nhàm chán, buồn tẻ, đơn điệu. Qua quá trình giảng dạy tôi rút ra được điều
ấy. Trong tiết học về vở chèo “Quan Âm Thị Kính” nếu người dạy không dùng ngữ
điệu của giọng nói, không diễn tả hành động của nhân vật qua cái nhìn (liếc mắt),
qua cử động của đôi bàn tay, bằng cảm nhận của cảm xúc thì học sinh không thể
hình dung và cảm nhận được từng kiểu nhân vật trong tác phẩm. Lúc ấy các em sẽ
cảm thấy “chán phèo” trong một tiết học mang tính kịch qua tính cách nhân vật cao

như vậy!
- Đây cũng là lí do làm cho việc dạy văn trong nhà trường không gây được
hứng thú cho học sinh. Các em thờ ơ lãnh đạm với tác phẩm văn học, dửng dưng
trước cái ác, cái tàn bạo…những giờ văn chỉ còn là những giờ thông tin kiến thức
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 14
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
một chiều, khô cứng và nhạt nhẽo. Học xong một giờ văn, học sinh thu được cái mà
họ cần quá ít ỏi, thậm chí cá biệt có những em không thu hoạch được gì cũng một
phần là ở chỗ này.
* Tham gia tích cực vào việc tạo hứng thú cho người học luôn là một vấn đề
quan trọng trong hoạt động dạy- học. Bởi vì như chúng ta biết dạy học là một hoạt
động phức tạp, trong đó chất lượng, hiệu quả cơ bản phụ thuộc vào chủ thể nhận
thức (người học) và điều này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: năng lực nhận
thức, động cơ học tập, sự quyết tâm…(các yếu tố chủ quan) ngoài ra còn phụ thuộc
vào những yếu tố: môi trường học tập, người tổ chức quá trình dạy học, sự hứng
thú trong học tập (các yếu tố tương tác). Vì vậy những vấn đề mà tôi đưa ra trên
đây chỉ phần nào góp phần vào việc tạo ra được hứng thú thật sự cho các em trong
việc học và cảm thụ văn chương mà thôi.
Tâm lí học giáo dục chỉ ra rằng, chỉ có thứ kỷ luật nào bắt nguồn vào bất kì
một loại quan tâm thích thú nào đó mới đáng gọi là kỷ luật thực sự thôi. Đã say mê
hứng thú thì dễ có kỷ luật. Nếu yêu cầu kỷ luật không thôi chỉ dẫn đến việc nghe
giảng và vâng lời một cách thụ động, tiêu cực, chỉ làm cho học trò buồn chán.
Hứng thú có tác dụng cung cấp tri thức và phát triển trí lực còn kỷ luật ép buộc
cũng cung cấp kiến thức và phát triển trí lực nhưng kìm hãm sự phát triển của trí
tuệ, óc thông minh, linh hoạt, sáng tạo.
Vì vậy việc tạo hứng thú cho học sinh trong một giờ học cũng có thể được
xem là một yêu cầu bắt buộc người giáo viên phải thực hiện được.
Theo nhận định của tôi: thực hiện được các vấn đề mà tôi đưa ra thì kết quả
đạt được sẽ thể hiện cụ thể qua sơ đồ sau:



Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 15
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
Cảm giác thoải mái Cảm giác tự tin.


Cảm giác vừa sức Cảm giác dễ chịu

Như thế người dạy văn có lúc được xem là một nghệ sĩ đa tài bên cạnh một
nhà bình văn, một nhà chính trị nghiêm khắc. Trong một tiết học giáo viên phải
nghiêm khắc với kỷ luật nhưng nếu cần sẽ là một diễn viên (hài kịch, bi kịch, múa,
bình thơ…) có lúc giáo viên còn đóng cả vai trò là một ca sĩ không chuyên.
Vì vậy, chúng ta phải luôn học hỏi, tìm tòi và phát huy tất cả những năng lực
ấy bên cạnh cái tri thức vững vàng để giúp học sinh vươn đến cái chân - thiện - mỹ
trong cuộc sống xã hội ngày nay.
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 16
Tham
Hứng
Gia Thú
Tích Hoạt
Cực Động
Tiế
p
thu

Kiế
n
thức
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013
Phần C - Kết luận.

1/ Từ niều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã hướng tới học sinh,
chú trọng phát triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của
giờ dạy văn là làm sao tạo được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học
sinh. Chúng ta cần thấy rằng, chính qua những gì hứng thú, hấp dẫn mà ta rèn luyện
kĩ năng tập trung chú ý, sau này là để vận dụng nghị lực vào cái mình không thích
thú, bắt buộc mình phải thích thú. Bằng cách phát triển hứng thú đối với các hoạt
động khác nhau, chúng ta sẽ phát huy một trong những năng lực cao quý nhất của
con người là năng lực thích thú, tập trung vào hoạt động hoàn toàn say mê với công
việc cần làm. Nếu trường học có đủ các nhà giáo xuất sắc biết lấy hứng thú của
học sinh làm chỗ dựa cho toàn bộ hoạt động của mình, đồng thời lấy mục đích dạy
học là nhằm phát triển năng lực, hứng thú học tập của học sinh thì nhà trường và
việc học tập đối với học sinh là công việc thích thú và đầy vui sướng.
2/ Nếu chúng ta tạo được hứng thú cho học sinh trong một giờ học thì ta đã
thành công đến 50% và việc tiếp thu kiến thức, vận dụng kiến thức vào trong cuộc
sống là một điều tất nhiên mà thôi. Đấy chính là sự thành công của một giáo viên,
người mang cảm xúc đến với những tâm hồn tưởng chừng như cằn khô. Chắn chắn
một điều rằng: đến một ngày nào đấy xã hội ta sẽ gặt hái được hoa thơm trái ngọt
từ những tâm hồn ấy.
3/ Một thực tế mà chúng ta ai cũng phải chạm đến: Không phải mỗi chúng ta
chỉ lo cho việc dạy học mà còn có bao nhiêu thứ khác trong cuộc sống cần phải giải
quyết nên thời gian, tâm huyết dành cho việc giảng dạy có thể bị chi phối nên tôi
xin đưa ra một số kiến nghị sau:
+ Mỗi chúng ta hãy giành ưu ái cho sự nghiệp trồng người nhiều hơn nữa.
+ Những người mang nhiệm vụ trong sự nghiệp trồng người cần được các
cấp chính quyền, nhà nước và xã hội quan tâm nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần.
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 17
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2012-2013

Tài liệu tham khảo.
1. Sách giáo khoa Ngữ Văn 6- tập I.

2. Sách giáo khoa Ngữ Văn 7- tập I.
3. Sách giáo khoa Ngữ Văn 7- tập II.
4. Sách giáo khoa Ngữ Văn 8- tập I.
5. Sách chuẩn kiến thức kĩ năng - tập I.
6. Sách chuẩn kiến thức kĩ năng - tập II.
7. Triết học tâm lí về hứng thú học sinh- thông tin mạng.
8. Thực trạng môn văn trong trường trung học- thông tin mạng.
Người viết: Nguyễn Thị Hà Linh 18

×