Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức chết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.7 KB, 12 trang )

CHỦ ĐỀ 5: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức chết
I. Khái niệm mức chết và các chỉ tiêu đánh giá mức chết:
a, Khái niệm
Chết là sự mất đi vĩnh viễn tất cả những biểu hiện của sự sống tại một thời điểm nhất
định mà không còn khả năng phục hồi lại được sau khi có sự kiện sống.
Mức chết là sự biểu thị mức độ chết của con người xảy ra trong một khoảng thời gian nào
đó.
Phân loại :
+ chết bào thai: là sự kiện xảy ra trong thời kì mang thai
+ chết chu sinh: là tất cả những trường hợp chết xảy ra trong tuần đầu (7 ngày) của cuộc
đời sau khi có sự kiện sinh-sống
+ chết sơ sinh: là tất cả những trường hợp chết xảy ra trong tháng đầu tiên(28 ngày cho
tới 2 tháng) của cuộc đời sau khi sinh-sống.
+ chết trẻ em(0-1 tuổi) hay dưới 1 tuổi(< 12 tháng): là tất cả những trường hợp chết xảy
ra trong năm đầu tiên của cuộc đời sau khi có sự kiện sinh-sống.
b, Các chỉ tiêu đo lường mức chết:
- tỷ suất chết thô: CDR
+ phản ánh mức chết của dân số nói chung xảy ra trong 1 năm nào đó là nhiều hay ít.
+ Được xác định bằng cách lấy số nhười chết trong năm chia cho dân số trung bình năm
hoặc giữa năm và thường được biểu thị băng % hay ‰:
CDR = * K (K=100 hoặc 1000)
Trong đó : D là số ngưpừi chết trong năm.
P lá dân số trung bình trong năm hoặc giữa năm.
- tỷ suất chết đặc trưngtheo tuổi: ASDRx.
+ phản ánh mức chết của dân cư theo từng đồ tuổi hay nhóm tuổi khác nhau xảy ra trong
1 năm nào đó.
+ ASDRx = *K (K=100 hoặc 1000).
Trong đó: Dx là số bgười ở tuổi chết x trong năm.
Px là số lượng dân số tuổi x tính trung bình trong năm. hoặc giữa năm.
- Tỷ suất chết trẻ em 0-1 tuổi hay<12 tháng: IMR
+ phản ánh tần suất chết của số trẻ em mới sinh trong năm đầu tiên của cuộc đời.


+ IMR = * K ( K=100 hoặc K=1000).
Trong đó: Do là số trẻ em 0-1 tuổi chết trong 1 năm nào đó
Bo là số trẻ em mới sinh sống trong cùng năm đó
- Triển vọng sống trung bình: (ex)
+ là số năm mà 1 tập hợp người nào đó sau khi đã sống đạt đến 1 độ tuổi nhất định thì
mỗi người sẽ còn sống thêm trung bình được bao nhiêu năm nữa đén lúc cả tập hợp
người đó chết hết.
+ phản ánh khả năng còn sống số được trung bình đến cuối cuộc đời của một người kể từ
lúc đạt được 1 độ tuổi chính xác (x).
+ ex =
Trong đó: ex là triêtn vọng sống trung bình.
Tx là tổng số năm người sống trung bình từ tuổi x trở đi.
Lx là số người sống đến tuổi chính xác x.
II. Bảng sống( bảng chết)
Khái niệm : Bảng sống là 1 bảng thống kê bao gồm hệ thống các chi tiêu được sử dụng
để phản ánh mức độ chết cũng như khả năng sống sót được khi chuyển từ tuổi này sang
tuổi khác.
Phân loại: + theo độ dài của khoảng cách tuổi khảo sát: bảng sống đầy đủ và bảng sống
rút gọn
+ theo thời giankhảo sát: bảng sống thế hệ và bảng sống hiện hành.
III.Biến động mức chết và các yếu tố ảnh hưởng
a, Xu hướng biến động mức chết:
Có tính quy luật: thời kì đầu mức chết cao và thường biến đổi, tăng , giảm thất thường,
sau đó mức chết giảm nhanh, cuối cùng đạt được mức thấp và thường dao động.
Nhìn từ góc độ lịch sử thì các xã hội trước CNTB đều có mức chết cao do điều kiện sống
khó khăn, kinh tế chưa phát triển.
Các nước phát triển thường có sự suy giảm về mức chết thấp hơn so với các nước đang
phát triển.
Nguyên nhân: Do các nước đang phát triển được thừa hưởng các thành tựu về khoa học
cũng như các tiến bộ về y học… từ các nước phát triển nên mức chết giảm mạnh hơn các

nước phát triển đang trong quá trình tiếp tục nghiên cứu thành tựu mới.
b, Nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến mức chết:
Các yếu tố tác động làm tăng mức chết:
+> Chiến tranh
Như chúng ta đã biết, chiến tranh là một hiện tượng chính trị-xã hội có tính chất lịch sử,
sự tiếp tục của chính trị bằng bạo lực giữa các tập đoàn xã hội trong một nước hoặc giữa
các nước hay liên minh các nước. Đặc trưng của chiến tranh là đấu tranh vũ trang có tổ
chức, theo những quy tắc nhất định và thường kết hợp với các hình thức đấu tranh khác
(chính trị, kinh tế, ngoại giao ).
Là nguyên nhân gây chết người hàng loạt trong 1 thời gian ngắn, nhất là trong các cuộc
chiến tranh sử dụng vũ khí hiện đại. Các cuộc chiến tranh xảy ra không chỉ gây nên tử
vong cho các nạn nhân quân đội mà còn mang lại nhiều thương cong và rủi ro về sự chết
chóc cho nhiều người khác.
Vd: - Thảm sát Mỹ Lai hay gọi là thảm sát Sơn Mỹ là một trong những tội ác của quân
đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam . Vụ thảm sát xảy ra vào ngày 16 tháng
3 năm 1968 tại thôn Mỹ Lai , làng Sơn Mỹ , huyện Sơn Tịnh , tỉnh Quảng Ngãi khiến 504
dân thường chết trong đó chủ yếu là phụ nữ và trẻ em.
- Trong chiến tranh chống Mỹ có trên 2 triệu người Việt thương vong.
- Trong cuộc chiến tranh thế giới thế giới thứ nhất (1914-1918) có trên 39 triệu
người chết,bị thương và mất tích.
- Còn tính trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 (1937-1945) có khoảng trên 73 triệu
người tử vong.
+> Mất mùa, nạn đói
Sự khắc nghiệt của khí hậu, thiên tai, sâu bệnh, là những nguyên nhân chính gây nên
mất mùa.
Mất mùa và nạn đói có thể gây nên tình trạng tử vong với số lượng lớn. Mất mùa  đói
kém  mức độ suy dinh dưỡng tăng  sức đề kháng của cơ thể giảm  khả năng mắc
bệnh cao  rủi ro về chết lớn ( nhất là người già và trẻ em). Đói kém dẫn đến tình trạng
thiếu dinh dưỡng và bệnh còi xương, chậm lớn làm thể chất và trí lực của con người giảm
đi, chất lượng dân số và nguồn nhân lực bị hạn chế, ảnh hưởng rất nhiều đến các quá

trình phát triển.
Vd: - Nạn đói năm Ất Dậu là một nạn đói xảy ra tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng
từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945 làm khoảng từ 400.000 đến 2 triệu người
dân chết đói trong khi dân số cả nước là 10 triệu người. Nguyên nhân trực tiếp là những
hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương. Các cường quốc liên quan như Pháp, Nhật
Bản và cả Hoa Kỳ đã can thiệp vào Việt Nam và gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh
hoạt kinh tế của người Việt. Những biến động quân sự và chính trị dồn dập xảy ra khiến
miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói. Không có nghiên cứu thống kê chính thức
liên quan đến Pháp, Nhật.Nguyên nhân gián tiếp là những biện pháp cải cách kinh tế
nhằm phục vụ nhu cầu chiến tranh của chế độ thực dân Pháp tại Việt Nam, do tại nước
Pháp khi đó đang có chiến tranh và cũng đang bị xâm chiếm. Ngoài bối cảnh chiến tranh,
chính trị và kinh tế, tình hình thời tiết ngoài Bắc cũng đã góp phần trong những động lực
tạo ra nạn đói. Mùa màng miền Bắc bị hạn hán và côn trùng phá hoại, khiến sản lượng vụ
đông-xuân từ năm 1944 giảm sụt khoảng 20% so với thu hoạch năm trước. Sau đó là lũ
lụt xảy ra làm hư hại vụ mùa nên nạn đói bắt đầu lan dần. Mùa đông năm 1944-45 khắc
nghiệt thay cũng lại là một mùa đông giá rét khiến các hoa màu phụ cũng mất, tạo ra
những yếu tố tai ác chồng chất giữa bối cảnh chiến tranh thế giới.
Nạn đói ở châu Phi: châu Phi là nơi có khí hậu khắc nghiệt, trình độ canh tác còn lạc
hậu, đã gây ra khủng hoảng lương thực trầm trọng làm cho con người luôn phải đối mặt
với nạn đói. Nạn đói 2011 ở Đông Phi đe dọa đời sống của hơn 10 triệu người. Mỗi năm
có hàng trăm nghìn trẻ em chết vì đói.
1994: Em bé người Sudan và một con kền kền – Kevin Carter
Bức ảnh này giành được giải Pulitzer cho tác phẩm ảnh báo chí. Trong ảnh, một con kền
kền đang chờ đợi để rỉa xác một em bé đang chết dần vì đói ở Sudan. Bức ảnh đã cho
thấy hết sự khốc liệt của nạn đói diễn ra tại Sudan làm hàng trăm nghìn người chết. Tác
phẩm đã cho thấy bản năng nghề nghiệp của nhà nhiếp ảnh khi “chộp” được một khoảnh
khắc vàng. Nhưng chỉ ba tháng sau khi nhận được giải thưởng danh giá cho bức ảnh
“Kền kền chờ đợi” này, Kevin Carter đã tự sát vì bị ám ảnh bởi những ký ức đáng sợ anh
được chứng kiến ở những nước thuộc thế giới thứ ba - sự chết chóc, những xác người
chết đói, những cuộc xung đột đẫm máu và nỗi đau mất mát của con người

+> Dịch bệnh
Bệnh là những tổn thương thực thể hay cơ nang của một bộ phận hay nhiều bộ phận của
cơ thể ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường của con người, làm cho con người khó chịu
đau đớn.
Trước kia con người mắc những bệnh như phong, lao, đậu mùa, cúm, thường thì tỉ lệ tử
vong là rất cao, chúng ta có thể nhắc đến những đại dịch mà cả thế giới kinh hoàng,
chúng có sức lây lan và gây thiệt hại không kém gì chiến tranh.
Bệnh tật ảnh hưởng đến tử vong lâu dài và không thể thủ tiêu được.
Trong lịch sử loài người, các loại bệnh dịch đã giết chết hàng trăm triệu người như dịch
hạch, đậu mùa, cúm, AIDS,
Có thể nó,cả hiện tại và tương lai, bệnh tật vẫn là nguyên nhân chủ yếu, thường xuyên và
đáng lo ngại nhất đối với cuộc sống của xã hội loài người.
Vd : trong lịch sử, bệnh dịch hạch (còn gọi là ‘cái chết đen’) gây ra cái chết cho khoảng
75 triệu người vao thế kỷ 14. Dịch đậu mùa ở châu Mỹ giết chết 1,5 triệu người tính đến
năm 1900. Dịch cúm ở Tây Ban Nha làm hơn 50 triệu người chết vào nửa đầu thế kỷ 20.
Dịch AIDS, tính từ 1981 đến nay làm hơn 25 triệu người chết, năm 2005 là 2,3 triệu, năm
2011 là 1,7 triệu theo thống kê của WHO.
+> Các tai họa tự nhiên khác :
Động đất, núi lửa, giông bão, sóng thần, hạn hán, lũ lụt và nhiều thiên tai khác cũng là
nguyên nhân gây tử vong cao. Cùng với gia tăng dân số nhanh chóng và việc khai thác 1
cách bừa bãi, thiếu ý thức của con người đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên làm
cho môi trường sống bị ô nhiễm, cân bằng sinh thái bị phá vỡ sẽ gây ra nhiều hiểm hoạ
lớn cho con người.
Vd : - Trận động đất sóng thần ở Nhật Bản năm 2011 làm gần 16 nghìn người chết.
- Sóng thần ở Ấn Độ Dương 2004 làm 230 nghìn người thiệt mạng.
- Ở Việt Nam cũng xảy ra nhiều thiên tai, trung bình mỗi năm có 8-9 cơn bão, lũ lụt
gây nhiều thiệt hại về người.
- Ngôi làng “không có đàn ông” ở Việt Nam, làng chài Mỹ Tân, xã Bình Chánh,
huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. 55 người đàn ông ra đi và không trở lại do bão.
+> Các nguyên nhân khác :

Tai nạn giao thông, nghiện ngập, bạo lực, tự tử, ngộ độc,…. Cũng là những nguyên
nhân gây tử vong đáng kể, mặc dù chúng chỉ mang tính chất nhỏ lẻ. Trong khi các loại
dịch bệnh mang tính quốc gia và quốc tế đã được kiểm soát, thì các nguyên nhân này
ngày càng có xu hướng gia tăng. Ngày càng có nhiều trường hợp chết do hậu quả tác
động của các yếu tố thuộc về lối sống ở một độ tuổi nhất định như thói quen hút thuốc lá,
nghiện rượu bia, ít rèn luyện sức khoẻ, do nghề nghiệp, do sử dụng các phương tiện giao
thông tốc độ cao. Ở các độ tuổi trẻ, nguyên nhân chết phổ biến nhất vẫn là tai nạn. Đối
với các nguyên nhân này, việc thay đổi văn hoá và hoàn thiện lối sống sẽ có khả năng
làm thay giảm đáng kể mức chết do chúng gây ra.
Vd : theo số liệu của văn phòng ủy ban an toàn giao thông quốc gia năm 2010 có 11449
người chết, 2011 là 11.395, 2012 là 9.838.
Theo WHO, trên TG mỗi năm trung bình có 1,2 triệu người chết vì TNGT, là kẻ giết
người số 1 với đối tượng 15-29 tuổi. Theo dự đoán đến năm 2030 là nguyên nhân lớn thứ
5 gây chết người hơn cả AIDS, ung thư, tiểu đường,
Hủ tục chôn con theo mẹ của một số đồng bào ở Tây Nguyên.
Hiện nay áp lực xã hội, bệnh trầm cảm, làm tỉ lệ người tử tự cũng tăng lên. Tự sát được
xếp là nguyên nhân đứng thứ 10 gây chết người trên toàn thế giới.
Các yếu tố tác động làm giảm mức chết
+> Nâng cao mức sống của dân cư
Phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập tạo điều kiện vật chất để mở rộng mạng lưới y tế
công cộng, tăng cường đội ngũ cán bộ y tế, hoàn thiện hệ thống y tế, và chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng. Tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập, tạo tiền đề vật chất để cải thiện
điều kiện dinh dưỡng, nhất là dinh dưỡng cho trẻ em, nâng cao thể lực và trí lực của
người dân, nâng cao sức khoẻ, tăng khả năng đề kháng với bệnh tật, giảm rủi ro về tử
vong, kéo dài tuổi thọ dân của. Cùng với sự gia tăng kinh tế và nâng cao mức sống,
những tiến bộ khoa học kĩ thuật đạt được trong lĩnh vực y tế góp phần ngăn ngừa và đẩy
lùi các loại bệnh dịch, hạn chế nhiều rủi ro xảy ra có nguy cơ ảnh hưởng dến sức khoẻ và
mức tử vong, nhất là tử vong của trẻ em.
+> Tiến bộ khoa học kĩ thuật trong lĩnh vực y tế
Cùng với thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân,

việc đẩy nhanh tiến bộ khoa học kĩ thuật trong lĩnh vực y tế đã góp phần đáng kể vào việc
khống chế và đẩy lùi nhiều căn bệnh hiểm nghèo, nhiều dịch bệnh nguy hiểm với tính
chất và quy mô rộng lớn, gây chết người hàng loạt
Alexander Fleming (6 tháng 8 năm 1881 – 11 tháng 3 năm 1955) là một bác sĩ, nhà sinh
học và đồng thời là một nhà dược lý học người Scotland. Ông được coi là người mở ra kỉ
nguyên sử dụng kháng sinh trong y học. Ông đã được trao Giải thưởng Nobel về y
học năm 1945 cùng với Ernst Boris Chain và Howard Walter Florey về việc tìm ra và
phân tách được penicilin – được coi là loại kháng sinh đầu tiên trong việc điều trị
những bệnh nhiễm trùng. Penicilin được xem là 1 trong 12 phát minh vĩ đại nhất thế kỷ
20.
Các phát hiện về bộ gen người cùng các hiểu biết về căn nguyên của gen và mối liên hệ
với bệnh tật giúp chúng ta có thể phòng ngừa được nhiều loại bệnh tật. Các thành tựu
trong nghiên cứu tế bào gốc đã được coi là bước đột phá của đầu thế kỷ 21. Giờ đây
chúng ta có thể tái tạo các tế bào gốc giống với tế bào phôi từ các tế bào da. Và có thể mô
phỏng vô số các loại bệnh của con người trong một chiếc bát thủy tinh nhỏ dùng để nuôi
vi khuẩn.
Các liệu pháp thuốc kéo dài sự sống cho bệnh nhân HIV. Vào năm 1996, một bệnh nhân
20 tuổi bị mắc bệnh AIDS chỉ có thể sống thêm 3-5 năm nữa nhưng hiện nay, nhờ kết
hợp các loại thuốc, anh ta vẫn có thể sống tới 69 tuổi. Nhờ có phát minh trong nghiên cứu
HIV, tỷ lệ tử vong do HIV đã giảm mạnh
+> Người xưa có câu “nhân sinh thất thập cổ lai hy” nghĩa là người sống đến ngoài 70
tuổi xưa nay hiếm. Tuy nhiên, giờ đây việc bảo đảm được môi trường sống trong lành,
chăm sóc sức khỏe, vệ sinh cá nhân tốt, giúp con người kéo dài được tuổi thọ khỏe
mạnh của con người, góp phần làm giảm mức chết. VD: Theo kết quả Bộ Y tế Việt
Nam đưa ra ngày 2 tháng 1 năm 2006, tuổi thọ trung bình của người Việt là 71,3 tuổi; so
với 65 tuổi vào năm 1998. Hiện nay dân Nhật bản sống lâu nhất. Trung bình tuổi thọ tại:
Các nước tiên tiến là 77-83 tuổi (thí dụ: Canada: 80.1 tuổi theo thống kê năm 2005)
Các nước chậm tiến là 35-60 tuổi (thí dụ: Mozambique: 40.3 tuổi theo thống kê năm
2005).
c, Sự khác biệt về mức chết

- Theo tuổi
Các nhóm tuổi khác nhau trong dân số có những nguy cơ khác nhau về tử vong- do
nghề nghiệp, tuổi tác hay 1 số đặc thù khác của họ. Cao ở tuổi ‘0 tuổi’ sau đó giảm dần,
đạt cực tiểu ở dộ tuổi cho đến 14, tăng nhanh ở độ tuổi 50.
- Theo giới tính
Sự khác biệt về mức chết theo giới tính đã được phát hiện từ rất sớm, ngay từ khi mới
bắt đầu nghiên cứu về mức chết. J Grant đã nhận thấy nữ giới có khả năng sống lâu hốn
với nam giới, mặc dù phụ nữ có thể mắc nhiều bệnh hơn. Thực tế cho thấy,phụ nữ nói
chung đều có tỷ suất chết thấp hơn so với nam giới trong hầu hết các lứa tuổi và phụ nữ
thường sống thọ hơn so với nam giới từ 5% đến 10% trừ 1 số nước chậm phát triển. Nam
giới thường chết do tai nạn lao động, nghề nguy hiểm, chiến tranh, dễ mắc các tệ nạn,
nên nữ giới có khả năng sống lâu hơn so với nam giới.
- Theo nơi cư trú
Có sự khác biệt đáng kể giữa mức chết ở thành thị và nông thôn. Khu vực thành thị
thường có mức chết thấp hơn khu vực nông thôn do điều kiện sống tốt hơn, cơ sở hạ tầng,
các phương tiện y tế, chăm sóc sức khỏe, trình độ giáo dục, thu nhập của dân cư thành thị
cao hơn so với dân cư nông thôn.
Cùng với quá trình đô thị hóa ngày càng phát triển, vấn đề giáo dục và chăm sóc sức
khỏe người nghèo khu vực nông thôn phải được quan tâm đầy đủ hơn.
- Theo trình độ học vấn
Những người có trình độ học vấn cao thường có rủi ro tử vong thấp hơn so với những
người có trình độ học vấn thấp. Những người có trình độ học vấn cao am hiểu các loại
bệnh tật, biết giữ gìn vệ sinh, chăm sóc sức khỏe bản thân và gia đình, hơn nữa họ thường
làm những công việc nhẹ nhàng, môi trường và điều kiện làm việc tốt, hao sức lực ít, thu
nhập cao nên khả năng dinh dưỡng và chăm sóc, hồi phục sức khỏe tốt hơn, rủi ro do
bệnh tật và tử vong thấp hơn so với những người có trình độ học vấn thấp.
Trình độ học vấn của người mẹ và khả năng sống sót của trẻ em có mối quan hệ mật
thiết với nhau.
- Theo thu nhập
Mức chết giữa các nhóm dân cư có mức thu nhập khác nhau cũng có sự khác biệt.Tầng

lớp dân cư nghèo, có địa vị xã hội thấp có mức tử vong cao hơn so với những người giàu
có. Do người có thu nhập cao có điều kiện sinh hoạt tốt, chế độ dinh dưỡng chăm sóc sức
khỏe tốt, khả năng tiếp cận với các dịch vụ y tế dễ dàng nên rủi ro về bệnh tật và tử vong
thấp hơn.
Tại các nước nghèo rất thiếu cán bộ y tế và viện phí rất cao nên nhiều người nghèo
không thể có điều kiện khám chữa bệnh. Vì vậy, vấn đề chăm sóc sức khỏe cho người
nghèo cần phải được quan tâm hơn.
- Theo tình trạng hôn nhân
Những người có gia đình có tỷ suất tử vong thấp hơn những người độc thân, goá bụ
hay li dị. Người có gia đình thường có cuộc sống ổn định, ăn uống sinh hoạt điều độ, sức
khoẻ, sức đề kháng và khả năng chống chọi với bệnh tất tốt hơn, ít bị stress và rủi ro về
tử vong thấp hơn.
- Theo địa vị xã hội và nghề nghiệp
Sự bất bình đẳng trước rủi ro về chết là rất lớn. Mức tử vong càng cao với tầng lớp xã
hội càng thấp. Trong diều kiện vệ sinh không khác nhau thì sự chênh lệch về mức chết
của các nhóm xã hội được quy cho những người khác biệt trong chế độ ăn uống.
Ngoài ra , sự khác biệt về mức chết theo dân tộc, tôn giáo, theo đặc trưng của người di
dân, theo các nguyên nhân gây tử vong,…cũng cần được quan tâm.
IV. Khuyến nghị của nhóm 1 về vấn đề dân số và phát triển
*Đối với thế giới
- Các nước,các khu vực,các dân tộc tăng cường hợp tác giao lưu,cùng phát triển có chính
sách ngoại giao ôn hòa,mềm mỏng tránh gây xung đột đặc biệt là xung đột quân sự.
- Ứng dụng khoan học kĩ thuật vào trồng trọt đảm bảo an ninh lương thực cho thế giới.
- Áp dụng tiến bộ y học vào điều chế các loại vacxin, thuốc ngăn ngừa các loại dịch bệnh
nguy hiểm.
- Khai thác hợp lý, có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Xây dựng môi trường sống trong lành,bền vững trên toàn thế giới.
*Đối với Việt Nam
- Nâng cao chất lượng dân số, nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, tùng gia
đình và toàn xã hội là mục tiêu ưu tiên.

- Ngoài chiến lược dân số chung, các hình thức giáo dục truyền thông, nội dung và biện
pháp cụ thể nên đặt ra cho các nhóm tỉnh, thành phố, các dân tộc một cách riêng biệt.
- Ưu tiên cải thiện mạng lưới và cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu nói chung và chăm sóc
sức khỏe bà mẹ trẻ em nói riêng ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
- Đẩy mạnh hơn nữa các chương trình, chích sách về giáo dục, đào tạo, đặc biệt đối với
khu vực nông thôn, vùng dân tộc thiểu số.
- Phòng chống , ngăn ngừa các loại dịch bệnh gây nguy hiểm cho người.
- Khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Xây dựng môi trường xanh-sạch-đẹp, bền vững, văn minh.

×