Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.23 KB, 14 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, vấn đề hội nhập là một xu thế tất yếu mà quốc gia nào cũng hướng
tới, Việt Nam chúng ta không nằm trong ngoại lệ của vấn đề này. Hội nhập kinh tế
là đồng nghĩa với việc các quốc gia dỡ bỏ những hàng rào thuế quan, giúp lưu
thông hàng hóa trở nên thuận lợi hơn. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống
pháp luật của các quốc gia, đặc biệt ảnh hưởng tới là thuế nhập khẩu. Tại Việt
Nam. Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 14/4/2005 và
có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu và luật hải quan của
Việt Nam về cơ bản đã được xây dựng phù hợp với những quy tắc và định chế của
pháp luật kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế đối
ngoại và yêu cầu thu ngân sách cho nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp
luật thuế nhập khẩu nói riêng, luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu nói chung trong thời
gian qua còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục. Bài tập này em chủ yếu đi sâu
vào vấn đề: “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế
nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.”.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1, Khái quát chung về pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam
1.1/ Người nộp thuế
Theo quy định tại điều 4 Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005, người
nộp thuế là tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế xuất
khẩu theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Nhưng trên thực tế thì
người nộp thuế là người trực tiếp đứng tên làm thủ tục nhập khẩu, hàng hóa cho
chính mình, người nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa cho chủ thể khác theo hợp
đồng ủy thác nhập khẩu hoặc là người được ủy quyền.
1.2/ Người thu thuế
Trên phương diện lý thuyết thì người có thẩm quyền thu thuế là nhà nước
nhưng trên thực tế, thẩm quyền này thường được thực hiện bởi nhiều cơ quan nhà
nước khác nhau do nhà nước thành lập ra để thực hiện vai trò là cơ quan thu thuế.
1



Trong lĩnh vực hành thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tổ chức việc thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu là Tổng cục hải quan.
1.3/ Căn cứ tính thuế
- Đối với những mặt hàng áp dụng thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%)
+ Số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu được ghi
trong tờ khai hải quan;
+ Giá tính thuế đối với đơn vị hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
+ Thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%) đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
- Đối với những mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu được áp dụng thuế tuyệt đối
thì căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ là:
+ Số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu được ghi
trong tờ khai hải quan
+ Mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu
- Giá tính thuế nhập khẩu (trật tự ưu tiên từ trên xuống)
+ Theo trị giá giao dịch
+ Theo trị giá hàng hóa giống hệt
+ Theo trị giá hàng hóa tương tự
+ Theo trị giá khấu trừ
+ Theo trị giá tính toán
+ Theo trị giá suy luận
- Thuế suất: Được quy định thuế theo tỷ lệ % (Thuế suất ưu đãi, thuế suất
thông thường, thuế suất ưu đãi đặc biệt) và Thuế suất tuyệt đối
1.4/ Trình tự thủ tục hành thu thuế nhập khẩu
- Kê khai thuế và tính thuế nhập khẩu
- Nộp thuế và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu
….
2, Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam
hiện nay
2



Xét trên bình diện lý thuyết, mặc dù chính sách thuế nhập khẩu và pháp luật
thuế nhập khẩu luôn phản ánh ý chí chủ quan của Đảng cầm quyền và Nhà nước
cai trị nhưng trong điều kiện Việt Nam đang ở trong giai đoạn phát triển kinh tế thị
trường theo hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế theo xu hướng toàn cầu
hóa, khu vực hóa của thế giới thì pháp luật thuế nhập khẩu luôn bị chi phối và ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là bị chi phối của các quan hệ kinh tế.
Trong đó đáng kể nhất là các yếu tố sau:
2.1/ Những yêu cầu và cam kết hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của các quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Về mặt hình thức, hội nhập kinh tế quốc tế biểu hiện ở việc các quốc gia
tham gia ngày càng sâu rộng vào các liên minh kinh tế quốc tế thông qua các điều
ước quốc tế song phương hoặc đa phương. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đồng
nghĩa với việc phải đáp ứng và thực thi các điều ước quốc tế mà quốc gia là một
bên kí kết hoặc tham gia. Những thỏa thuận và cam kết trong khuôn khổ các hiệp
định này hình thành nên những khung pháp lý định hướng cho quá trình hoạch
định này hình thành nên những khung pháp lý định hướng cho quá trình hoạch định
chính sách và xây dựng hệ thống pháp luật ở mỗi quốc gia thành viên.
Luật thuế nhập khẩu là một bộ phận của hệ thống pháp luật quốc gia, nó
phản ánh rõ nhất mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia đó và vì vậy nó chịu
sự tác động và chi phối mạnh mẽ của các Điều ước quốc tế. Trên thực tế, để đáp
ứng yêu cầu hội nhập, pháp luật thuế nhập khẩu ở mỗi nước được xây dựng và
hoàn thiện theo hai hướng cơ bản:
Một là, chuyển hóa các cam kết quốc tế thành các quy định pháp luật trong
nước bằng cách đưa vào luật những quy định mới hoặc sửa đổi, điều chỉnh những
quy định đã có cho tương thích với các quy định của Điều ước quốc tế mà quốc gia
đó đã hoặc sẽ tham gia.

3



Hai là, thừa nhận các quy định quốc tế để áp dụng, sau đó sửa đổi luật pháp
cho phù hợp với các quy định quốc tế. Ở Việt Nam hiện nay, giải pháp này được
gọi là “nội luật hóa” các Điều ước quốc tế.
Đối với Việt Nam, những thay đổi lớn lao và quan trọng trong chính sách
thuế nhập khẩu thực sự đã được khởi động từ năm 1998 (thực hiện cam kết giảm
thếu theo quy định của AFTA). Gần đây là việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại quốc tế WTO vào ngày 7/11/2006 và trở thành thành viên chính thức của
WTO từ ngày 11/1/2007. Trước khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã tiến hành
cải cách hệ thống pháp luật như ban hành luật thuế xuất nhập khẩu, thuế nhập khẩu
năm 2005, luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005… để tương thích với các quy
chế của WTO. Sauk hi gia nhập WTO, Việt Nam cũng ban hành nhiều van bản
pháp luật bổ sung, hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật thời hậu WTO
2.2/ Chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế đối ngoại, mở
cửa thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ở nước ta nguyên tắc Đảng lãnh đạo là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước. Pháp luật là công cụ quản lý nhà nước, Đảng
đề ra đường lối, hoạch định chính sách phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Trên cơ sở đó, Nhà nước cụ thể hóa thành chính sách, pháp luật để đưa đường lối
chủ trương của Đảng đi vào cuộ sống. Pháp luật chính là sự cụ thể hóa đường lối
chủ trương của Đảng. Bởi vậy, pháp luật thuế nhập khẩu phải được xây dựng và tổ
chức thực hiện trên cở sở đường lối của Đảng, cụ thể hóa đường lối, quan điểm về
chính sách mở cửa, phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng trong từng thời kỳ. Có thể
nói chủ trương, đường lối phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng mở của với khu
vục và thế giới là một trong những yếu tố chi phối đến nội dung pháp luật thuế
nhập khấu ở Việt Nam hiện nay.
Đại hội IX (2001) của Đảng đã khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế… Chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp

4


tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Đảng ta chỉ rõ: coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, công tác ngoại giao
phục vụ phát triển kinh tế, góp phần tạo thêm nguồn lực từ bên ngoài, mở rộng thị
trường, gia tăng đối tác, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước…
cần chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến
lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2020. Mở rộng và củng cố quan hệ kinh tế
đối ngoại, tạo lập lợi ích đan xen, nhất là với các đối tác chủ yếu. Xây dựng các
mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư lâu dài. Khai thác có hiệu quả
các cơ hội và giảm tối đa những thách thức rủi ro khi nước ta là thành viên WTO.
Đại hội X (2006) nhấn mạnh: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế…”, “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sau hơn và đầy đủ hơn
với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích của
đất nước làm mục tiêu cao nhất”. Bài học về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ, thống nhất và bản sắc dân tộc. Trước hết là độc
lập tự chủ về đường lối, chính sách, có quyết sách để chủ động hội nhập, hội nhập
có định hướng theo lộ trình hợp lí, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Độc lập tự
chủ về kinh tế còn có nghĩa là một nền kinh tế có thực lực đủ mạnh, có thể ứng phó
nhanh, kịp thời với những biến động khó lường của kinh tế thế giới và khu vực, là
một nền kinh tế “mở” kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp để
phát triển đất nước, có sức cạnh trạnh cao, không để bị lệ thuộc và bị chi phối từ
bên ngoài, bảo đảm an ninh kinh tế.
Trong chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 được Bộ Tài Chính
thông qua cũng chỉ rõ đường lối, quan điểm cụ thể sau: “Phải xây dựng hệ thống
chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lí phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, gắn với hiện đại hóa công tác quản lý thuế nhằm bảo đảm nguồn
lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…Chính

sách thuế phải thể hiện và tạo ra những nội dung cụ thể phù hợp với tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bào đảm được yêu cầu về bảo hộ có chọn lọc, có
5


thời hạn, có điều kiện một cách hợp lí, tăng sức cạch tranh của nền kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia… Cần nhanh chóng hiện đại hóa
và nâng cao năng lực quản lý của bộ máy quản lý thuế, khắc phục các hiện tượng
tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy quản lý thuế trong sạch vững mạnh”. Từ đường
lối quan điểm trên của Đảng, luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2005; Luật hải quan
sửa đổi 2005, luật Quản lý thuế năm 2006 được ban hành trên cơ sở những tư
tưởng chỉ đạo đó của Đảng.
2.3/ Thực trạng và điều kiện cụ thể của nền kinh tế Việt Nam.
Pháp luật bao giờ cũng phản ánh dưới hình thức pháp lý các quan hệ xã hội,
một sự phản ánh lệ thuộc và những biến đổi của xã hội. Để phát huy được các vai
trờ, tác dụng của mình trong đời sống xã hội, pháp luật luôn phản ánh đúng và đầy
đủ hiện thực khách quan, những tiến trình đang diễn ra trong cuộc sống xã hội. Nếu
không có những khảo sát, đáng giá từ thực tiễn cuộc sống thì không thể có cơ sở
khoa học và thực hiện xác đáng để xây dựng và thực hiện pháp luật, không phát
huy được vai trò của nó trong cuộc sống.
Đối với pháp luật thuế nhập khâu có mục tiêu quan trọng là công cụ khuyến
khích hỗ trợ bảo vệ nền sản xuất trong nước việc ban hành sửa đổi, bổ sung bộ
phận pháp luật này cần thiết căn cứ thực trạng phát triển của nền sản xuẩ trong
nước, sức cạnh trang của hàng hóa nước mình trên thị trường quốc tế. Trong điều
kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế các quốc gia phải cam kết giảm thế theo
lộ trình nhất định
2.4/ Trình độ năng lực quản lý của bộ máy quản lý thu thuế nhập khẩu
Pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế nhập khẩu nói riêng ban hành
phải được tổ chức thực hiện nghiêm túc trên thực tiễn. Nếu pháp luật thuế quá phức
tạp vượt mức quá trinh quản lý của bộ máy hành thu thì sẽ dẫn đến tình trạng thất

thu hoặc lạm thu hoặc pháp luật thuế đó không được thực thi đầy đủ trong thực tế.
Bởi vậy khi ban hành pháp luật về chính sách thuế, quản lý thuế phải tính đến yếu
6


tố này nhằm bảo đảm sự phù hợp và tính khả thi của nó trong thực tiễn. Trong
những năm qua nhà nước đã chăm lo nhiều đến công tác đào tạo bồi dưỡng nhằm
nâng cao trình độ chuyên môn nhiệm vụ, ngoại ngữ, tin học, phẩm chất đạo đức,
tác phong cho đội ngũ cán bộ quản lý thuế, tăng cường các điều kiện cơ sở vất chất
kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý thuế, sắp đổi mới cơ cấu tổ chức ngành thuế
cho phù hợp, đổi mới cải cách thủ tục hành chính… Nói chung nhà nước thực hiện
các giải pháp nâng cao trình độ năng lực quản lý của cả bộ máy quản lý thuế để tiến
đến việc ban hành các quy định mới trong pháp luật thuế như quản lý thuế thực
hiện quản lý thuế hiện đạ theo chuẩn mực chung của quốc tế. Nếu Việt Nam không
chú trọng đến công tác nâng cao năng lực trình độ quản lý thuế của bộ máy hành
thu thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý thuế nhập khẩu hiện nay. Chẳng hạn,
quản lý giá thuế đối với hành nhập khẩu hiện nay.
3/ Tình hình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời
gian qua.
3.1/ Thuận lợi
Được sửa đổi bổ sung nhiều lần xuất phát từ thực tiễn nhập khẩu hàng hóa
cũng như những cam kết trong phạm vi toàn cầu, pháp luật thuế nhập khẩu đã có
những đóng góp quan trọng trong trao đổi hàng hóa giữa VN với các quốc gia khác.
Nhìn chung, luật thuế nhập khẩu đã phù hợp với các nguyên tắc và nền tảng pháp lí
chung của các chế định kinh tế quốc tế, góp phần hình thành nền tảng pháp lí quan
trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại của VN. Luật thuế nhập khẩu đã tạo
nguồn thu quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước, tác động tích cực trong
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của các
ngành sản xuất trong nước.
Luật thuế nhập khẩu đã phát huy vai trò của mình trong việc bảo hộ một cách

hiệu quả những mặt hàng có thế mạnh sản xuất trong nền sản xuất nội địa như các
sản phẩm từ sản xuất nông nghiệp hay các ngành sản xuất còn non trẻ khác xét điều
kiện trong nước còn chưa thể đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như chất lượng
so với các quốc gia khác trên thế giới như ngành sản xuất ô tô…
7


2. Khó khăn
Tuy nhiên, luật thuế nhập khẩu cũng còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế trong
quá trình thực thi. Mức thuế suất thay đổi liên tục dẫn đến khó khăn trong việc áp
dụng. Mức thuế suất hiện nay của VN là 17.8%, cao hơn rất nhiều so với các nước
đang phát triển khác là thành viên của WTO như: Trung Quốc 10.1%, Grudia
6.61% ; Estonia 7.93%...Trong tiến trình hội nhập, biểu thuế suất của VN nhìn
chung còn phản ánh khuynh hướng thực hiện chức năng bảo hộ và thu ngân sách là
chính.
Vấn đề xác định giá trị hải quan trong nhập khẩu hàng hóa theo thông lệ
quốc tế vẫn còn hẹp về phạm vi áp dụng, hiệu quả chưa cao, nhiều trường hợp
không tạo ra sự công bằng, tự do trong thương mại.
Hệ thống pháp luật còn chưa đồng bộ, còn nhiều qui định chồng chéo chưa
thống nhất, gây nhiều khó khăn trong việc áp dụng. Chẳng hạn như: Theo qui định
tại Điều 15 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu về thời hạn nộp thuế đã qui định
rõ thời hạn nộp thuế. Tuy nhiên theo Điều 28 khoản 1 luật hải quan sửa đổi bổ sung
thì qui định về kiểm tra, đăng kí hồ sơ lại lấy tiêu chuẩn chấp hành tốt pháp luật
hải quan. Ngoài ra không có sự thống nhất giữa qui định của luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu và luật quản lí thuế về tỉ lệ số tiền nộp phạt đối với trường hợp nộp
chậm tiền thuế. Cụ thể theo điều 23 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì tỉ lệ
này là 0.1% còn theo điều 106 luật quản lí thuế là 0.05%. Một VD khác: một qui
định gây nhiều khó khăn trong áp dụng đó là qui định về thuế suất thông thường
không quá 70% thuế suất ưu đãi. Điều này đã gây những cách hiểu không thống
nhất dẫn đến việc áp dụng không chính xác.

Trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam chịu rất nhiều thiệt thòi
trong các vụ kiện chống bán phá giá ở nước ngoài và cũng chịu những bất lợi lớn
khi các doanh nghiệp nước ngoài bán phá giá trên thị trường Việt Nam. Để đối phó
với tình trạng này, pháp luật về thuế nhập khẩu đã có những qui định về thuế để tự
vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử. Mặc dù chúng ta đã
có 2 pháp lệnh về chống trợ cấp và pháp lệnh về chống bán phá giá nhưng những
qui định này vẫn chưa phát huy tác dụng trên thực tế hầu như không được áp dụng.
8


Lí do những văn bản chưa quy định cụ thể, một số qui định còn chưa phù hợp và
Việt Nam vẫn chưa được các thành viên WTO công nhận là một nước có nền kinh
tế thị trường. Do vậy quá trình áp dụng những qui định này cũng khá khó khăn.
Pháp luật hiện hành qui định về bộ hồ sơ hải quan nhiều hơn so với công ước
Kyoto 4 loại đó là: Chứng thư giám định, bản kê khai chi tiết hàng hóa, hợp đồng
mua bán hàng hóa, tờ khai tri giá hải quan. Qui định mới về việc không truy thu đối
với hàng hóa thuộc diên truy thu nếu chuyển nhượng lại cho chủ thể được miễn
hoặc xét miễn thuế nhập khẩu để tránh những hiện tượng tiêu cực trong thực tiễn.
(Điểm a khoản 1 điều 21 nghị định 149/2005/NĐ-CP). Qui định này dẫn đến hiện
tượng các đối tượng thuộc diện chịu thuế câu kết với tổ chức cá nhân thuộc diện
miễn thuế hoặc xét miễn thuế hoặc cán bộ hải quan làm hồ sơ giả để không bị truy
thu thuế. Với sự ra đời của luật quản lí thuế 2006 đã ghi nhận một cách cụ thể trình
tự thu tục về kê khai thuế nhập khẩu, nộp thuế nhập khẩu, truy thu thuế nhập khẩu,
hoàn thuế…Vì vậy những qui định trong luật thuế nhập khẩu về những thủ tục này
trở nên không cần thiết nữa thậm chí còn gây ra sự chồng chéo, không đồng nhất.
Trên đây là một vài ví dụ về những qui định không thống nhất của pháp luật
mà trên thực tế đã gây ra những cản trở nhất định trong việc áp dụng pháp luật thuế
nhập khẩu.
4, Những yếu tố tác động đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên
thực tế tại VN:

Có thể thấy việc thực thi luật thuế nhập khẩu trong thực tế chịu tác động của
rất nhiều các yếu tố khác nhau. Trước tiên là sự ảnh hưởng đến việc của các yếu tố
khách quan như tình hình phát triển của nền kinh tế, chính trị quốc tế cũng như của
quốc gia; sự ảnh hưởng của các chính sách kinh tế của quốc gia. Đồng thời việc
thực thi luật có hiệu quả hay không đồng nghĩa với việc phải xây dựng, ban hành ra
một hệ thống pháp luật thuế đáp ứng được các đòi hỏi của thực tế. Điều này phụ
thuộc vào các nhà làm luật, trình độ lập pháp cũng như những cam kết quốc tế mà
Việt Nam gia nhập. Trong quá trình thực thi pháp luật thuế nhập khẩu, vai trò của
các cơ quan chức năng thực hiện việc thu thuế cũng như ý thức của những đối
9


tượng nộp thuế cũng đóng một vai trò quan trọng. Sau đây chúng ta cùng đi tìm
hiểu từng yếu tố tác động đến việc thực thi thuế nhập khẩu cũng như mức độ ảnh
hưởng của chúng.
4.1/ Tình hình kinh tế, chính trị trong nước , quốc tế và các chính sách
thương mại của quốc gia
Tình hình kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế ở một thời kì nhất định là
yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến nội dung chính sách thuế xuất nhập khẩu và
nội dung pháp luật thực định về thuế xuất nhập khẩu trong giai đoạn đó. Điều này
hoàn toàn dễ hiểu bởi lẽ suy cho cùng chính sách và pháp luật về thuế xuất nhạp
khẩu chỉ là tấm gương phản chiếu thực trạng tình hình kinh tế và xã hội trong nước
và quốc tế mà thôi. Xuất phát từ nhu cầu đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích chung của
từng quốc gia với lợi ích riêng của từng doanh nghiệp, từng cá nhân và hộ gia đình,
chính sách thuế xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ có thể sẽ được xây dựng và thực
hiện theo hướng thiên về mục tiêu bảo hộ; mục tiêu tăng thu ngân sách hoặc và
mục tiêu tự do hóa thương mại.
4.2/ Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế
Xu hướng và trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế có ảnh hưởng quan trọng đến
nội dung, chính sách thuế xuất nhập khẩu của quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể.

Đối với Việt Nam, những thay đổi lớn lao và quan trọng trong chính sách thuế xuất
nhập khẩu thực sự đã được khởi động từ năm 1998 (để thực hiện cam kết giảm thuế
theo quy định của AFTA) và gần đây nhất là những thay đổi trong chính sách thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đến hoặc từ Hoa Kỳ,
nhằm thực hiện các cam kết giảm thuế theo hiệp định thương mại Việt Nam Hoa
Kỳ. Hầu hết những thay đổi này đều được thể chế hóa thành các quy định của pháp
luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, nhằm đảm bảo tính khả thi và tính hiện
thực cho các chính sách đó trong thực tiễn.
4.3/ Chính sách kinh tế của nhà nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế với pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của Việt Nam.
10


Hiện nay, có hai xu hướng: Một là, bảo hộ mậu dịch, nâng cao khả năng
cạnh tranh cho các ngành sản xuất trong nước. Xu hướng thứ hai là, tự do hóa
thương mại. Cắt giảm tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan của xu
hướng tự do hóa thương mại. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về hội
nhập kinh tế quốc tế, tích cực hội nhập để hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời đảm bảo tối đa hóa lợi ích từ các công cụ thuế, tối thiểu hóa các chi phí trong
quá trình hội nhập, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế. Những cam kết về thuế
quan mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc sẽ tham gia ký kết là nội dung quan trọng
thể hiện mức độ hội nhập của quốc gia. Các cam kết này là cơ sở để điều chỉnh các
quan hệ kinh tế tài chính trong nước với nước ngoài và giữ vai trò chi phối đối với
nội dung các quy định của pháp luật. Cần phải hoạch định, thống nhất và xây dựng
phù hợp với các cam kết quốc tế, xây dựng lộ trình cắt giảm phù hợp và phản ánh
đầy đủ, chính xác chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và với thời hạn nhất
định. Đảm bảo việc sử dụng thuế như một công cụ quan trọng nhằm khuyến khích
chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả, thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp và nền kinh tế đồng thời đảm bảo nguồn thu ngân sách. Phải hình thành quá

trình giảm dần tỷ trọng thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo tỷ lệ gia tăng tương ứng các
nguồn thu từ sắc thuế nội địa.
4.4/ Nhu cầu ngân sách của nhà nước.
Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì thuế nhập khẩu là
nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Những số liệu về tỷ trọng của số thu
hải quan so với tổng thu ngân sách trong những năm qua đã thể hiện rõ điều đó.
Khi hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam ký kết và thực hiện các cam kết về thương
mại quốc tế. trong đó có những cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu dẫn đến hàng hóa
nhập khẩu tăng cạnh tranh với các sản phẩm hàng hóa trong nước. Kết quả là kích
thích tiêu dùng, từ đó thu được nhiều loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt… Các nước thành viên khác cũng
11


phải cắt giamr thuế quan từ đó dẫn đến việc kích thích các nước khác tăng hàng
xuất khẩu dẫn đến tăng thu ngân sách từ các hàng xuất khẩu sang các nước thành
viên đó. Như vậy việc cắt giảm thuế nhập khẩu vừa làm tăng thu ngân sách vừa làm
giảm thu ngân sách do đó phải có sự tính toán kỹ lưỡng hợp lý.
Thực trạng kinh tế xã hội của quốc gia: pháp luật thuế nhập khẩu có mục tiêu
quan trọng là công cụ khuyến khích, hỗ trợ và bảo vệ nền sản xuất trong nước. Việc
ban hành, sửa đổi, bổ sung pháp luật thuế nhập khẩu cần căn cứ vào tình trạng phát
triển của nền sản xuất trong nước, sức cạnh tranh của hàng hóa nước mình trên
trường quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, các quốc gia
cần phải nghiên cứu đánh giá những lợi thế so sánh trong từng ngành hàng, xác
định mức độ bảo hộ…đối với những hàng hóa có uy tín trên thị trường quốc tế có
khả năng cạnh tranh cao thì không cần bảo hộ mà lấy đó làm cơ sở cho việc đàm
phán về thuế quan với các nước khác.
4.5/ Ý thức của người nộp thuế
Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực thi Luật thuế nhập
khẩu. Hiện nay có những gian lận chủ yếu sau trong việc nộp thuế của các chủ thể

nộp thuế.
a.Giá tính thuế nhập khẩu
Khai báo không trung thực giá tính thuế nhập khẩu: các chủ thể nộp thuế
thường không khai báo chính xác mà khai giá nhập khẩu thấp hơn. Ví dụ công ty
Đông Nam, giám đốc Nguyễn Gia Thiều đã móc nối với công ty Đông Nam Hồng
Kong mua hơn 40000 chiếc điện thoại di dộng khai giá thấp hơn so với giá thực tế
thanh toán từ 75 đến 375 USD trốn thuế nhập khẩu trên 100 tỉ. Khai thấp về chất
lượng hàng những chủ thể nộp thuế thường khai chất lượng hàng thấp hơn so với
thực tế nhằm trốn thuế nhập khẩu.Khai báo hàng không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp
thị quảng cáo. Đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp cao hơn.
b. Thuế xuất,thuế nhập khẩu
12


Gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa, khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng
hóa nhằm hưởng lợi từ việc ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam cam kết
giảm thuế.
Khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế
suất thấp hơn.
c. Không kê khai trung thực thuế nhập khẩu
Mặt hàng nhập khẩu, số lượng hàng nhập, trị giá hải quan ảnh hưởng đến
công tác kiểm tra của hải quan. Do năng lực cán bộ hải quan còn yếu kém nên
không kiểm soát được hết hàng buôn lậu
5/ Một số giải pháp cho thuế nhập khẩu tại Việt nam
Như đã đề cập tới ở trên, biểu suất thuế của Việt Nam phản ánh khuynh
hướng thực hiện chức năng bảo hộ và thu ngân sách chính cho nhà nước, mức thuế
suất thay đổi liên tục dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng thuế. Vì vậy chúng ta
cần phải đưa ra một mức thuế suất ổn định, lâu dài phù hợp với tình hình quốc tế,
không chênh lệch quá cao so với các nước trong khu vực cũng như toàn cầu.
Xác định giá trị hải quan trong nhập khẩu hàng hóa là một vấn đề cũng cần

chú ý khắc phục, cần mở rộng phạm vi áp dụng (nhưng cũng cần có giới hạn), sửa
đổi phù hợp với thị trường quốc tế, học tập các nước phát triển để tạo ra sự công
bằng, tự do thương mại.
Cần xem xét lại hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu, đưa ra những điều luật
cụ thể, phù hợp, không chồng chéo, thống nhất giữa pháp luật thuế Nhập khẩu và
luật Hải Quan để người áp dụng có thể sử dụng dễ dàng, khó tìm ra sơ hở để lợi
dụng vào đó mà gian lận thuế. Thắt chặt các điều luật để không còn xảy ra tình
trạng gian lận thuế, với những người vi phạm cần xử lý nặng để ý thức chấp hành
luật của người áp dụng nâng cao. Bên cạnh đó cần tuyên truyền dưới mọi hình thức
để người dân nắm bắt được luật mà thực hiện đúng với chính sách của nhà nước.
Trong vấn đề khai báo hải quan điện tử cần trang thiết bị hệ thống tốc đọ, kịp
thời và an toàn, đảm bảo nhận thông tin và phản hồi đúng hạn.
Thưc hiện đúng và đầy đủ những cam kết mà Việt Nam đã ký kết với các
nước ASEAN trong hiệp định CFPT và những cam kết thương mại giữa Việt Nam
13


và các nước trong hiệp định WTO. Bên cạnh đó Việt nam cần phải sửa đổi và bỏ
sung sao cho phù hợp với thị trường quốc tế đúng theo những cam kết đã ký để
Việt Nam có thể trở thành một nước có nền kinh tế thị trường được cả cộng đồng
quốc tế công nhận.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Tóm lại, vấn đề thực thi thuế nhập khẩu là một vấn đề cần chú ý tới. Thuế
nhập khẩu được sử dụng nhằm tạo một nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo hộ
nền sản xuất trong nước như chính trị, thương mại, phát triển những ngành sản xuất
mới. Chính vì vậy, cần chú ý duy trì những mặt tích cực và khắc phục những khó
khăn để việc áp dụng thuế nhập khẩu để đạt được tính hiệu quả nhất trong thời kì
hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, đưa Việt nam trở thành một nước có nền
kinh tế phát triển./.


14



×