MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TIẾT KIỆM
CÁ NHÂN CỦA NHTM 4
1.1. Khái quát về hoạt động huy động vốn của NHTM 4
1.1.1. Khái niệm 4
1.1.2. Phân loại nguồn vốn và tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn
của NHTM 4
1.1.3. Các hình thức huy động vốn 10
1.2. Nghiệp vụ huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân của NHTM 14
1.2.1. Khái niệm tiền gửi tiết kiệm cá nhân 14
1.2.2. Đặc trưng của tiền gửi tiết kiệm cá nhân 15
1.2.3. Phân loại 16
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân của
NHTM 17
1.3.1. Các nhân tố khách quan 17
1.3.2. Các nhân tố chủ quan 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TIẾT KIỆM
CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
– CHI NHÁNH ĐẮK NÔNG
.22
2.1. Khái quát Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh
Đắk Nông 22
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 22
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ 24
2.1.3. Cơ cấu tổ chức hoạt động 25
2.1.4. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh giai đoạn 2012 – 2014
28
2.2 Tình hình huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đắk Nông 41
2.2.1. Quy trình nghiệp vụ huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại Chi
nhánh Vietinbank Đăk Nông 41
2.2.2. Tình hình về huy động tiền gửi cá nhân tại Chi nhánh Vietinbank
Đăk Nông 44
2.2.3. Tình hình huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại Chi nhánh
Vietinbank Đăk Nông 50
2.3 Đánh giá chung về huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đăk Nông 58
2.3.1 Những kết quả đạt được 58
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế 61
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
TIỀN GỬI TIẾT KIỆM CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG TMCP
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐẮK NÔNG 67
3.1. Những định hướng vụ huy động vốn Chi nhánh năm 2015 67
3.2 Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam Chi nhánh Đăk Nông 68
3.2.1 Tăng cường công tác quảng cáo tiếp thị các sản phẩm TGTK
68
3.2.2 Nâng cao chất lượng phục vụ và chăm sóc khách hàng cá nhân 75
3.2.3 Các giải pháp bổ trợ 81
3.3 Một số kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam Chi nhánh Đắk Nông 89
3.3.1
Đối với Chính phủ 89
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 91
3.3.3
Đối với ngân hàng Vietinbank Hội sở 92
3.3.4 Đối với cơ quan ban ngành trên địa bàn tỉnh Đắk Nông 94
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1. Thực trạng nguồn vốn tại Ngân hàng VietinBank – CN Đăk Nông
giai đoạn 2012 – 2014 29
Bảng 2.2. Dư nợ cho vay của Vietinbank Đăk Nông giai đoạn 2012 – 2014 .33
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam Chi nhánh Đăk Nông giai đoạn 2012 – 2014 36
Bảng 2.4. Nguồn huy động theo thành phần kinh tế của Chi nhánh qua các
năm 2012-2014 46
Bảng 2.5. Nguồn vốn huy động tiền gửi cá nhân của Chi nhánh giai đoạn
2012-2014 47
Bảng 2.6. Tiền gửi tiết kiệm cá nhân theo kỳ hạn 50
Bảng 2.7. Tiền gửi tiết kiệm theo theo loại đồng tiền 53
Bảng 2.8. Bảng phân tích tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn theo hình thức gửi 56
Bảng 3.1. Chi phí thực hiện quảng cáo qua các Catalog của Chi nhánh 69
Bảng 3.2. Dự tính chi phí thực hiện một số hình thức quảng cáo truyền thống.
70
Bảng 3.3. Dự tính chi phí của buổi hội thảo khách hàng 74
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Vốn huy động của Ngân hàng VietinBank Chi nhánh Đăk Nông
giai đoạn 2012 - 2014 30
Biểu đồ 2.2. Tình hình huy động vốn của Vietinbank Đăk Nông theo từng địa
bàn 31
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu dư nợ cho vay thời gian về tín dụng của Vietinbank CN
Đắk Nông 33
Biểu đồ 2.4. Nợ xấu,nợ quá hạn của Vietinbank Đăk Nông năm 2012 – 2014.
35
Biểu đồ 2.5. Thị phần nguồn vốn của Ngân hàng VietinBank – Chi nhánh
Đăk Nông năm 2012 – 2014 39
Biểu đồ 2.6. Nguồn huy động tiền gửi tiết kiệm trên địa bàn 45
Biểu đồ 2.7. Cơ cấu tiền gửi CN của Vietinbank Đăk Nông năm 2012 – 2014 48
Biểu đồ 2.8. Biểu đồ thể hiện Cơ cấu huy động tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn
51
Biểu đồ 2.9 .Tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm cá nhân theo loại tiền gửi 54
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Bộ máy tổ chức tại Vietinbank Đăk Nông 25
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ST
T
Từ viết tắt Diễn giải
1 CN Chi nhánh
2 DNDH Dư nợ dài hạn
3 DNNH Dư nợ ngắn hạn
4 DNTH Dư nợ trung hạn
5 GTCG Giấy tờ có giá
6 HSX Hộ sản xuất
7 KH Khách hàng
8 NQH Nợ quá hạn
9 NH Ngân hàng
10 NHCT Ngân hàng công thương
11 NHNN Ngân hàng nhà nước
12 NHTM Ngân hàng thương mại
13 PGD Phòng giao dịch
14 QTD Quỹ tín dụng
15 TCTD Tổ chức tín dụng
16 TGTT Tiền gửi thanh toán
17 TMCP Thương mại cổ phần
18 TX Thị xã
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đắk Nông là tỉnh mới được thành lập trên cơ sở chia tách từ tỉnh Đăk
Lăk từ đầu năm 2004 thuộc khu vực miền Trung Tây Nguyên, là nơi có tài
nguyên thiên nhiên lớn đáng kể là rừng tự nhiên, khoáng sản có quặng Bô xít
với trữ lượng lớn hơn 4,5 tỷ tấn, mỏ đá quý Trường Xuân, , có nhiều cảnh
quan kỳ thú phục vụ du lịch sinh thái như Thác Ba Tầng, Dray Sap, Trinh
nữ… Bên cạnh đó, Đắk Nông còn có lợi thế về giao thông, chạy dọc theo tỉnh
là đường Hồ Chí Minh và tương lai sẽ có tuyến đường sắt đi từ Đắk Nông
xuống Chơn Thành ra cảng Thị Vải, đây là điều kiện để Đắk Nông giao lưu
với các vùng kinh tế trọng điểm và động lực của cả nước. Đắk Nông là nơi hội
tụ nhiều tiềm năng phát triển kinh tế. Vì thế, nhu cầu tài chính, vốn, sử dụng dịch
vụ ngân hàng của các doanh nghiệp và cá nhân tăng đột biến làm cho Đắk Nông
trở thành thị trường cung cấp sản phẩm tín dụng và huy động đầy tiềm năng cho
các ngân hàng, trong đó có Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
Từ trước đến nay, vốn được xem là một trong những yếu tố đầu vào cơ
bản của quá trình hoạt động kinh doanh. Đối với các NHTM với tư cách là
một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ thì vốn lại có một vai
trò hết sức quan trọng. Ngoài nguồn vốn tự có, các nguồn vốn vay,…thì
nguồn vốn huy động chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của các
ngân hàng. Vì vậy, các NHTM rất chú trọng đến công tác huy động vốn, nó
quyết định sự tồn tại của mỗi ngân hàng. Ngân hàng TMCP Công thương Việt
Nam – Chi nhánh Đăk Nông huy động vốn dưới nhiều hình thức khác nhau như
huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá, huy động từ các TCTD và chủ yếu
là huy động vốn từ nhận tiền gửi của khách hàng,… Có thể thấy, để đáp ứng kịp
thời nhu cầu nguồn vốn lớn của nền kinh tế trên địa bàn, Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đăk Nông cần phải khai thác triệt để các
nguồn tiền gửi, đặc biệt là nguồn tiền gửi tiết kiệm từ dân cư. Hơn nữa đối với
tỉnh mới thành lập, đầy tiềm năng như Đăk Nông, đây cũng là nguồn vốn rất
7
lớn và quan trọng mà Ngân hàng có thể huy động được và cần được khai thác
một cách triệt để. Nhận thấy rõ được điều này em đã chọn đề tài: “Giải pháp
tăng cường huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam – Chi nhánh Đắk Nông” để làm khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của bài khóa luận
Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về huy động vốn, huy động tiền gửi
tiết kiệm cá nhân và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động
tiền gửi tiết kiệm cá nhân của NHTM. Sử dụng các phương pháp tổng hợp,
phân tích so sánh để phân tích kết quả huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại
Chi nhánh. Và đưa ra những nhận xét, đánh giá những kết quả đạt được,
những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động huy động tiền gửi
tiết kiệm cá nhân tại Chi nhánh. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị
nhằm tăng cường huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại Chi nhánh trong thời
gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân của NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu: Huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đăk Nông giai đoạn 2012 - 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài khóa luận áp dụng phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so
sánh, đối chiếu và phương pháp mô tả bằng đồ thị…
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận, bài khóa luận tốt nghiệp được trình bày
thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân
của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Đăk Nông
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân tại
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam Chi nhánh - Đăk Nông
Cuối cùng, em xin gởi lời cảm ơn chân thành đến các anh chị nhân viên
tại Chi nhánh, em cũng xin chân thành cảm ơn đến ThS. Đặng Thị Thơi người
8
đã quan tâm theo dõi, hướng dẫn và giúp em có thể hoàn thành bài khóa luận
tốt nghiệp này.
Do kiến thức và khả năng hiểu biết thực tế còn nhiều hạn chế nên bài
khóa luận này của em khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến, giúp đỡ của các thầy cô, các anh chị để bài khóa
luận này hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG TIỀN GỬI TIẾT KIỆM
CÁ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về hoạt động huy động vốn của NHTM
1.1.1. Khái niệm
Huy động vốn là một trong các nghiệp vụ tạo nên nguồn vốn của ngân
hàng thương mại, thông qua việc ngân hàng nhận ủy thác và quản lý các
khoản tiền từ khách hàng theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi đáp ứng
nhu cầu vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. [1, tr. 22]
Hoạt động huy động vốn của các NHTM là hoạt động mà trong đó các
ngân hàng này tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhằm mục
đích kinh doanh và đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân
ngân hàng theo đúng các quy định pháp luật.
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan
trọng nhất của ngân hàng thương mại. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để
ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động khác như cấp tín dụng và cung cấp
các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Nhìn vào bảng cân đối tài sản của
ngân hàng thương mại, chúng ta thấy rằng nghiệp vụ huy động vốn được phản
ánh bên tài sản Nợ. Do đó, huy động vốn còn được gọi là nghiệp vụ tài sản
Nợ. [2, tr. 218]
1.1.2. Phân loại nguồn vốn và tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động
vốn của NHTM
1.1.2.1. Phân loại nguồn vốn
Về cơ bản nguồn vốn của Ngân hàng có thể được phân loại thành các dạng
cơ bản sau:
Vốn tự có (vốn chử sở hữu) [4, tr. 240]
Vốn tự có (vốn chủ sở hữu): Là nguồn vốn khởi đầu và được bổ sung
trong quá trình hoạt động. Nguồn vốn ban đầu là nguồn tuy không chiếm tỷ
trọng lớn, nhưng có ý nghĩa rất quan trọng. Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng
bao gồm:
10
- Vốn điều lệ: Đây là vốn được tạo thành ban đầu khi mới thành lập
NHTM và ghi vào điều lệ ngân hàng. Vốn điều lệ phải đạt mức tối thiểu theo
quy định của pháp luật (ở các nước và ở Việt Nam đều có quy định mức vốn
pháp định cho mỗi loại ngân hàng). Vốn điều lệ được ngân sách Nhà nước
cấp nếu đó là ngân hàng công, do các cổ đông đóng góp theo cổ phần nếu là
ngân hàng cổ phần. Vốn điều lệ có thể được thay đổi theo xu hướng tăng lên
nhờ được cấp bổ sung, hoặc phát hành cổ phiếu bổ sung, hoặc được kết
chuyển từ quỹ dự trữ bổ sung điều lệ theo quy định của mỗi nước. Vốn điều lệ
được sử dụng trước hết để xây dựng, mua sắm tài sản cố định, các phương
tiện làm việc và quản lý, tức tạo ra cơ sở vật chất cho hoạt động của Ngân
hàng. Ngoài ra các NHTM còn được sử dụng vốn điều lệ để hùn vốn liên
doanh, cấp vốn cho các công ty trực thuộc và các hoạt động kinh doanh khác.
- Các quỹ ngân hàng: NHTM cũng là một tổ chức kinh tế, vì vậy các
NHTM đều được quyền trích lập các quỹ như các đơn vị kinh tế khác, để sử
dụng cho các mục đích nhất định. Ngoài ra, NHTM hoạt động trong lĩnh vực
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, được xem là một lĩnh vực “đặc biệt”,
nên hầu hết hệ thống luật ngân hàng các nước đều cho phép các NHTM được
trích lập Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Thông thường quỹ này được trích
theo tỷ lệ quy định (khoảng 5%) từ lợi nhuận ròng hàng năm, cho đến khi nào
số dư quỹ này ngang bằng vốn điều lệ. Như vậy các quỹ của ngân hàng
thương mại bao gồm: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, gọi tắt là quỹ dữ trữ;
Quỹ đầu tư phát triển kĩ thuật, nghiệp vụ; Quỹ dự phòng (gồm dự phòng tài
chính, dự phòng trợ cấp…)…
Vốn tự có tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM song
nó lại là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định sự tồn tại và phát triển của một
ngân hàng. Mặc khác, với chức năng bảo đảm an toàn cho hoạt động của ngân
hàng, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo để giữ vững lòng tin nơi khách
hàng và duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ.
Vốn tự có được dùng để mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
11
thuật, tạo điều kiện tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngoài
ra vốn tự có góp phần điều chỉnh hoạt động kinh doanh của Ngân hàng (quy
mô, giá trị tài sản cố định, cơ cấu tài sản,…).
Vốn huy động (Mobilized Capital) [4, tr 241]
Vốn huy động là tài sản bằng tiền của các chủ sở hữu (bao gồm của pháp
nhân và thể nhân) mà ngân hàng đang tạm thời quản lý và sử dụng. Đây là
nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất của bất kì một NHTM nào. Tính chất
quan trọng của vốn huy động được thể hiện ở chỗ nó không những chiếm tỉ
trọng lớn trong tổng nguồn vốn của các ngân hàng, mà còn là tiền nhàn rỗi
của xã hội được huy động và tập trung để sử dụng có hiệu quả cho các yêu
cầu của nền kinh tế - xã hội. Vốn huy động theo tính chất được phân loại
thành hai nhóm:
Nhóm 1: Vốn huy động hoạt kỳ, bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của các
tổ chức kinh tế, cá nhân, tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức tín dụng khác.
Đây là loại tiền gửi mà theo tính chất của nó, khách hàng được linh hoạt sử
dụng, người ta gọi đó là tiền gửi có thể phát séc để chỉ tính linh hoạt của nó.
Chủ tài khoản được quyền lập thư chuyển tiền, phát hành séc rút tiền từ tài
khoản một cách tự do, không phải báo trước. Các đơn vị, cá nhân gửi tiền vào
tài khoản này không nhằm tới mục đích hưởng lãi, mà nhằm phục vụ nhu cầu
giao dịch thanh toán cho chính mình. Vì vậy đối với loại vốn này, lãi suất
không phải là công cụ chính để thu hút nguồn vốn này, mà công cụ chính là
dịch vụ ngân hàng cung cấp theo có đơn giản, thuận lợi, an toàn và nhanh
chóng, kịp thời hay không. Thông thường khách hàng sẽ lựa chọn ngân hàng
để mở tài khoản là những ngân hàng có quy mô lớn, mạng lưới rộng khắp, có
hệ thống dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Nhóm 2: Vốn huy động định kỳ, gồm tiền gửi định kỳ, tiền gửi tiết kiệm
của cá nhân, tổ chức, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu… Đặc điểm của loại
vốn này là khách hàng chỉ được rút tiền khi đáo hạn (tuy nhiên trong điều
kiện bình thường, các ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn).
Vốn huy động định kỳ là nguồn vốn ổn định, vì vậy nó không những được sử
12
dụng để cấp tín dụng ngắn hạn mà còn được sử dụng để cấp tín dụng trung,
dài hạn, trong khi về lý thuyết, nguồn vốn hoạt kỳ chỉ được sử dụng để cho
vay ngắn hạn. Đối với vốn huy động định kỳ, người gửi tiền có mục đích là
xác định hưởng lãi. Vì vậy họ sẽ chọn ngân hàng nào có lãi suất cao hơn chứ
không đòi hỏi hệ thống dịch vụ hiện đại như đối với nguồn vốn hoạt kỳ. Với
lý do đó, các ngân hàng thường sử dụng công cụ lãi suất để tập trung nguồn
vốn này. Cạnh tranh lãi suất để thu hút nguồn vốn này là cuộc cạnh tranh hợp
lý và gay gắt.
Do nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn, nên
trong nghiệp vụ nguồn vốn các NHTM đều tập trung để thu hút nguồn vốn
huy động. Tuy nhiên, do đây là tài sản bằng tiền của các chủ sở hữu nên việc
huy động và sử dụng nguồn vốn này phải tuân thủ ba nguyên tắc cơ bản là:
hoàn trả, bảo mật, trả lãi.
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng thương mại đáp
ứng hầu hết các nhu cầu về hoạt động tín dụng và các dịch vụ khác của các
ngân hàng này. Nếu huy động được nguồn vốn giá rẻ, chi phí thấp, ngân hàng
sẽ có thể thu được lợi nhuận cao, ngân hàng phải có chiến lược thu hút nguồn
vốn hợp lý từ đó mới có chiến lược cho vay có hiệu quả.
Vốn đi vay (Borrowed Capital) [4, tr 242]
Đối với những ngân hàng vừa và nhỏ, tình trạng thiếu vốn kinh doanh
diễn ra thường xuyên cần phải bổ sung nguồn vốn bằng cách đi vay các ngân
hàng khác.
Đối với những ngân hàng có điều kiện mở rộng cho vay, do thủ tục cho
vay đơn giản, điều kiện cho vay thoáng hơn, lãi suất hấp dẫn hơn sẽ dẫn đến
kết quả thiếu vốn. Trong trường hợp này, NHTM đó cần đi vay để đáp ứng
nhu cầu mở rộng tín dụng. NHTM nào đã sử dụng hết nguồn vốn khả dụng
mà vẫn còn phát sinh nhu cầu vay vốn của khách hàng thì ngân hàng đó đang
ở trong trạng thái hưng thịnh, vốn vay ngân hàng khách vừa giúp họ mở rộng
tín dụng, vừa giúp mở rộng và giữ chân khách hàng.
Nguồn vốn đi vay gồm hai loại:
13
- Vay ngân hàng trung ương: NHTW sẽ tiếp vốn (Cho vay) đối với các
NHTM thông qua nghiệp vụ chiếc khấu (discount) và tái chiết khấu
(rediscount) hoặc cho vay lại theo hồ sơ tín dụng mà NHTM xuất trình. Điều
kiện tiếp vốn của NHTW đối với NHTM dễ dãi hay khắc khe phụ thuộc vào
mục tiêu phụ thuộc vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, uy tín và chất
lượng hoạt động tín dụng của mỗi NHTM.
- Vay các ngân hàng thương mại khác: Các NHTM có thể vay và cho
vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng (Interbank Market) hoặc các
ngân hàng có thể vay trực tiếp lẫn nhau không thông qua thị trường liên ngân
hàng.
Vốn đi vay chiếm vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của NHTM,
nhưng đồng thời là nguồn vốn mang ý nghĩa thiết lập sự cân bằng trong cân
đối và sử dụng vốn của mỗi NHTM.
Vốn tiếp nhận (Trust Capital) [4, tr 244]
Vốn tiếp nhận là nguồn vốn tiếp nhận từ các nhà tài trợ của Chính phủ,
tổ chức tài chính hoặc tư nhân để tài trợ theo các chương trình dự án về phát
triển kinh tế - xã hội… Ngân hàng nào được chỉ định tiếp nhận và chuyển
giao vốn này, được coi là thực hiện dịch vụ trung gian tài chính theo yêu cầu
của nhà tài trợ, và được hưởng thu nhập dưới dạng hoa hồng dịch vụ tài chính
trung gian. Thường những ngân hàng lớn, có mạng lưới rộng khắp và có uy
tín mới có đủ điều kiện để được chỉ định làm dịch vụ trung gian tài chính này.
Vốn khác (Other Capital) [4, tr 244]
Vốn phát sinh trong quá trình hoạt động không thuộc các nguồn nói trên
như vốn phát sinh trong khi làm đại lý chuyển tiền, thanh toán, công nợ chưa
đến hạn phải trải…
1.1.2.2. Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn của NHTM
Nghiệp vụ huy động vốn tuy không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho
ngân hàng nhưng nó là nghiệp vụ rất quan trọng. Không có nghiệp vụ huy
động vốn xem như không có hoạt động của ngân hàng thương mại. Ngân
hàng thương mại khi được cấp giấy phép hoạt động phải đảm bảo mức vốn
14
điều lệ theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về ban hành
danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng do Chính phủ quy
định. Tuy nhiên vốn điều lệ chỉ đủ để tài trợ cho tài sản cố định như trụ sở,
văn phòng, máy móc thiết bị cần thiết cho hoạt động chứ chưa đủ vốn để ngân
hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh như cấp tín dụng và các dịch
vụ ngân hàng khác. Để có vốn phục vụ cho các hoạt động này ngân hàng phải
huy động vốn từ nền kinh tế cụ thể đó là các khách hàng cá nhân, tổ chức kinh
tế, TCTD khác,…. Do vậy, nghiệp vụ huy động vốn có ý nghĩa rất quan trọng
đối với ngân hàng cũng như đối với khách hàng.
• Đối với ngân hàng:
Nghiệp vụ huy động vốn góp phần mang lại nguồn vốn cho ngân hàng
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Không có nghiệp vụ huy động vốn,
ngân hàng thương mại sẽ không đủ nguồn tài trợ cho hoạt động của mình.
Mặt khác thông qua nghiệp vụ huy động vốn ngân hàng thương mại có thể đo
lường được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng.
Từ đó, ngân hàng thương mại có các biện pháp không ngừng hoàn thiện hoạt
động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Có thể
nói, nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết “đầu vào” của ngân hàng.
[2, tr. 217]
• Đối với khách hàng:
Nghiệp vụ huy động vốn không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với khách hàng. Nghiệp vụ huy động
vốn cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền
của khách hàng sinh lợi, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong
tương lai. Mặc khác, nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng
một nơi an toàn để cất trữ và tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi. Cuối cùng,
nghiệp vụ huy động vốn giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch
vụ khác của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và dịch
15
vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho
tiêu dùng. [2, tr. 218]
Ngày nay, giữa các ngân hàng thương mại và khách hàng doanh nghiệp
cũng như các tổ chức khác có mối quan hệ gắn bó, theo đó, ngân hàng vừa
cung cấp các dịch vụ ngân hàng vừa thực hiện nghiệp vụ huy động vốn. Cụ
thể ngân hàng thương mại nhận chi trả tiền lương trực tiếp cho nhân viên làm
việc ở các doanh nghiệp và các tổ chức thông qua nghiệp vụ ghi Có trực tiếp.
Bằng việc ghi Có trực tiếp tiền lương vào tài khoản của khách hàng mở ở
ngân hàng, ngân hàng thương mại đồng thời thực hiện luôn nghiệp vụ huy
động vốn.
1.1.3. Các hình thức huy động vốn
1.1.3.1. Huy động vốn thông qua hoạt động nhận tiền gửi
Theo quy định tại khoản 13 điều 3 Luật Các tổ chức tín dụng ngày 16
tháng 06 năm 2010, đã đưa ra một định nghĩa cụ thể về hoạt động nhận tiền
gửi, cụ thể: “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới
hình thức tiền gửi không kỳ chạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát
hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi
khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo
thỏa thuận”.
Việc huy động vốn qua tài nhận tiền gửi là một hình thức huy động vốn
cổ điển và mang đặc trưng riêng có của các ngân hàng thương mại. Do vậy,
đây cũng là điểm khác biệt giữa ngân hàng thương mại và các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng. Do nhu cầu và động thái tiền gửi của khách hàng rất đa
dạng và khác nhau nên để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền, ngân hàng
thương mại phải thiết kế và phát triển thành nhiều loại sản phẩm tiền gửi khác
nhau.[2, tr. 219]
1.1.3.2. Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá
Ngoài việc huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản
tiết kiệm, các tổ chức tín dụng nói chung và các NHTM nói riêng còn có thể
16
huy động vốn bằng cách phát hành các loại giấy tờ có giá. Các giấy tờ có giá
do tổ chức tín dụng phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ,
thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong đó
tổ chức tín dụng cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất
định.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Thông tư số 34/2013/TT-NHNN ngày
31 tháng 12 năm 2013 của Ngân hàng Nhà nước quy định về phát hành kỳ
phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu trong nước của tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài: “Kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền
gửi, trái phiếu (sau đây gọi là giấy tờ có giá) là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ
trả nợ giữa tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành với
người mua giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều kiện khác”.
Một giấy tờ có giá thường kèm theo các thuộc tính sau đây:
• Mệnh giá – là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá phát hành
theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với
giấy tờ có giá phát hành theo hình thức ghi sổ.
• Thời hạn giấy tờ có giá – là khoản thời gian từ ngày tổ chức tín dụng nhận nợ
đến hết ngày cam kết thanh toán toàn bộ khoản nợ.
• Lãi suất được hưởng – là lãi suất được áp dụng để tính lãi cho người mua giấy
tờ có giá được hưởng.
Giấy tờ có giá có thể phân thành nhiều loại khác nhau. Căn cứ vào quyền
sở hữu có thể chia giấy tờ có giá thành giấy tờ có giá ghi danh và giấy tờ có
giá vô danh. Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình
thức chứng chỉ hoặc ghi sổ, có ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh là
giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ, không ghi tên người sở
hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ nó.
Căn cứ vào loại công cụ trên thị trường vốn giấy tờ có thể chia thành
giấy tờ có giá thuộc công cụ nợ như chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu;
17
và giấy tờ có giá thuộc công cụ vốn như cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu phổ thông
hay cổ phiếu thường. Căn cứ vào thời hạn, giấy tờ có giá có thể chia thành hai
loại,tương ứng với thời hạn huy động vốn: giấy tờ có giá ngắn hạn và giấy tờ
có giá dài hạn.[ 2, tr 257]
1.1.3.3. Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng
Vấn đề này được quy định tại điều 100 Luật Các tổ chức tín dụng ngày
16 tháng 06 năm 2010 như sau: “Ngân hàng thương mại được vay vốn của tổ
chức tín dụng, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài theo quy định của
pháo luật.”
Nguồn vốn đóng vai trò sống còn đối với sự tồn tại của các ngân hàng
thương mại nói riêng và với cả các định chế tài chính bởi vì nó chính là kênh
lưu chuyển nguồn vốn của toàn nền kinh tế, một nguyên nhân khác cũng
không kém phần quan trọng là vì tính nhạy cảm của thị trường loại hàng hóa
này. Mỗi ngân hàng là một kênh lưu chuyển vốn, các dòng vốn này thông
nhau qua sự tương quan của nó với ngân hàng trung ương và thị trường tài
chính. Khác với tính độc lập mang tính cá thể của các loại hình doanh nghiệp
khác, sự tồn tại của các ngân hàng nằm trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau,
hoạt động của mỗi ngân hàng sẽ dễ dàng chịu sự tác động của các ngân hàng
khác, nếu một ngân hàng nào trong hệ thống gặp sự cố, sẽ có khả năng tác
động xấu tới tất cả các ngân hàng còn lại, nếu không được giải quyết một
cách cẩn trọng, nguy cơ sụp đổ hệ thống là hoàn toàn có khả năng xảy ra, vấn
đề này đã diễn ra rất nhiều lần trong lịch sử thị trường tài chính của nhiều
quốc gia trên thế giới. Chính vì mối tương quan trên, các ngân hàng cần tồn
tại trong một môi trường lành mạnh và giữ gìn mối tương quan tốt với các
định chế tài chính khác để đảm bảo cho chính sự tồn tại của mình. Nghiệp vụ
vay vốn giữa các tổ chức tín dụng xuất phát từ mục tiêu và mối tương quan
trên.
Mặc dù có nhiều biện pháp kiểm soát rủi ro, thận trọng trong việc cho
vay, ngân hàng thương mại cũng khó tránh khỏi có lúc thiếu khả năng chi trả
18
hoặc quá kẹt tiền mặt. Lúc đó, các ngân hàng thương mại thường cần có một
nguồn vốn khá lớn và đặc biệt là tức thời, trong tình cảnh đó, vay của các tổ
chức tín dụng khác là một trong những lựa chọn.
Trên thực tế từ trước đến nay, các hợp đồng vay vốn giữa ngân hàng và
các tổ chức tín dụng theo dạng này thường được thiết lập trên mối quan hệ
hợp tác lâu dài, thân tình giữa các tổ chức này với nhau, đó là mối quan hệ
“có đi có lại”. Khi thị trường tài chính phát triển hoàn thiện hơn, cạnh tranh
gay gắt hơn, rủi ro gia tăng, các ngân hàng đã chủ động hơn trong việc tiếp
cận nguồn vốn mang tính “bảo hiểm” này. Các ngân hàng không chờ đến khi
lâm vào tình trạng thiếu hụt nguồn vốn mới tìm kiếm các hợp đồng vay vốn
này mà chủ động thiết lập các cam kết với các đối tác khác (thường là mang
tính hai chiều), cam kết này có thể ở dạng một hợp đồng tương lai có điều
kiện. Ngày nay, cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, các nghiệp vụ
vay vốn giữa các tổ chức tín dụng ngày càng đa dạng và phong phú hơn, các
ngân hàng đang tận dụng tối đa những ích lợi của thị trường tiền tệ để tìm
kiếm nguồn vốn khả dụng.
1.1.3.4. Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước là nơi phát hành tiền, là nơi hoạch định và thực
thi chính sách tín dụng quốc gia và là ngân hàng của các ngân hàng. Điều 99
Luật Các tổ chức tín dụng ngày 16 tháng 06 năm 2010 quy định: “Ngân hàng
thương mại được vay vốn của Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái cấp
vốn theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Khi các ngân
hàng thương mại lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, NHNN trở thành
cứu cánh cuối cùng. Các ngân hàng thương mại có thể vay tại NHNN dưới
các hình thức:
• Vốn vay ngắn hạn bổ sung: Là hình thức NHTM xin vay vốn bổ sung nguồn
vốn ngắn hạn của mình. Trong trường hợp này các NHTM chỉ được vay khi
có hạn mức tín dụng theo quy định của NHNN.
19
• Vốn vay để đảm bảo khả năng chi trả: Các NHTM vay vốn của NHNN để bù
đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán hoặc thiếu hụt trong dự trữ (thường
vay với thời hạn ngắn).
• Tái cấp vốn: Là hình thức cấp tín dụng của NHNN nhằm cung ứng nguồn vốn
ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho NHTM. NHNN quy định về thực
hiện tái cấp vốn cho các tổ chức tín dụng nói chung và NHTM nói riêng theo
các hình thức: cho vay có đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có giá, chiết khấu
giấy tờ có giá và các hình thức tái cấp vốn khác.
Trên đây là những vấn đề khái quát nhất về các hình thức huy động vốn
của các ngân hàng thương mại. Cùng là hoạt động huy động vốn, cùng phục
vụ cho hoạt động bình thường của các ngân hàng thương mại, tuy nhiên, các
hình thức huy động vốn hướng đến hai nhóm mục tiêu khác nhau, mục tiêu
kinh tế và mục tiêu an toàn.
1.2. Nghiệp vụ huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân của NHTM
1.2.1. Khái niệm tiền gửi tiết kiệm cá nhân
Tiền gửi chính là toàn bộ khoản tiền mà khách hàng gửi vào trong Ngân
hàng để hưởng lãi hay sử dụng các dịch vụ tiện ích của Ngân hàng.
Trong khoản 1, điều 6, Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo
quyết định 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13/9/2014 của Thống đốc ngân hàng
Nhà nước thì: “Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài
khoản tiền gửi tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền
gửi và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi”.
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng,
họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và hưởng
lãi đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Do vậy khoản
tiết kiệm không được dùng để phát hành séc hay thực hiện các thanh khoản
khác ngoại trừ người gửi tiền đề nghị trích tài khoản tiền gửi tiết kiệm để trả
nợ vay hay chuyển sang một tài khoản khác của chính chủ tài khoản. Nhằm
thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng cố gắng khuyến khích
dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng
20
mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh
tranh hấp dẫn (như tiền gửi với các kỳ hạn, tiết kiệm bằng ngoại tệ, vàng…).
1.2.2. Đặc trưng của tiền gửi tiết kiệm cá nhân
Tất cả loại tiền gửi đều góp phần làm tăng tổng lượng tiền của hệ thống
ngân hàng trong đó tiền gửi của cá nhân là nổi trội hơn cả. Đây là thị trường
đầy tiềm năng, mở ra nhiều cơ hội lớn cho ngân hàng.
Nguồn tiền gửi tiết kiệm cá nhân (dân cư) là một nguồn vốn vô cùng dồi
dào, là nguồn tiền vốn có tính vững chắc, ngày một tăng thêm. Nguồn tiền gửi
tiết kiệm cá nhân là sở hữu của từng cá nhân, họ có quyền quyết định gửi vào,
lĩnh ra, không ai được xâm phạm quyền đó trừ trường hợp đặc biệt khi có
quyết định của pháp luật. Người gửi luôn muốn bí mật số dư nên không đối
chiếu hàng tháng, hàng quý, hàng năm nhưng nguồn tiền gửi đó lại tồn tại mãi
mãi. Ngân hàng sẽ có những biện pháp hợp lý để thông báo cho khách hàng
về số dư tài khoản qua các phương tiện thông tin như điện thoại (qua tin
nhắn), mail… đảm bảo tính an toàn bảo mật thông tin cho khách hàng.
Như đã nói ở trên, tiền gửi tiết kiệm cá nhân có khách hàng là cá nhân
nên ngân hàng không có điều kiện nghiên cứu từng cá nhân. Do đó, ngân
hàng phải đa dạng nguồn tiền gửi tiết kiệm để mỗi khách hàng cá nhân có thể
lựa chọn một hình thức gửi tiền cho phù hợp. Lượng tiền gửi của các cá nhân
là không nhiều (trong mỗi lần gửi) nhưng đây là nguồn tiền thường xuyên và
liên tục, hầu như tạo ra luồng vốn chảy vào ngân hàng một cách đều đặn, vì
vậy các ngân hàng đang tập trung khai thác nguồn tiền gửi tiết kiệm các nhân
này. Mỗi ngân hàng phải làm sao để tạo ra tiện ích và tín nhiệm tuyệt đối với
người gửi thì số dư tiền gửi tiết kiệm sẽ dễ dàng tăng lên khi nền kinh tế hàng
hoá đang ngày càng đổi mới và phát triển. Tiền gửi cá nhân là một thị trường
tiềm năng nguồn vốn - nguồn huy động không thể thiếu của mọi ngân hàng
thương mại.
1.2.3. Phân loại
1.2.3.1. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
21
“Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền
có thể rút theo yêu cầu mà không báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của
tổ chức nhận tiền gửi”.[7, Khoản 8 Điều 6]
Sản phẩm tiết kiệm không kỳ hạn được thiết kế cho đối tượng khách
hàng cá nhân hoặc tổ chức, có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì
mục tiêu an toàn và sinh lời nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng
tiền gửi trong tương lai. Đối với ngân hàng, vì loại tiền gửi này khách hàng
muốn rút bất kỳ lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để
chi trả và khó lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Do vậy, ngân
hàng thường trả lãi thấp cho loại tiền gửi này.
Với số tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng có thể gửi tiền và rút
tiền bất kỳ lúc nào trong giờ giao dịch. Tuy nhiên, khác với hình thức tài
khoản tiền gửi cá nhân mỗi lần giao dịch khách hàng phải xuất trình sổ tiền
gửi và chỉ có thể thực hiện các giao dịch ngân quỹ như gửi tiền và rút tiền chứ
không thực hiện được các giao dịch thanh toán như trong trường hợp tiền gửi
thanh toán. [2,tr 223]
1.2.3.2. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
“Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm, trong đó người gửi
tiền thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm về kỳ hạn gửi nhất định”.
[8, Khoản 1 Điều 1]
Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm định kỳ được
thiết kế dành cho khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu gửi tiền vì mục
tiêu an toàn và sinh lời, thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai.
Đa số khách hàng thích lựa chọn hình thức gửi tiền này là công nhân, viên
chức hưu trí có thu nhập ổn định và thường xuyên. Mục tiêu quan trọng của
họ khi lựa chọn hình thức tiền gửi này là lợi tức có được theo định kỳ. Do
vậy, lãi suất đóng vai trò quan trọng để thu hút đối tượng khách hàng này. Dĩ
nhiên, lãi suất trả cho tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cao hơn lãi suất gửi không
kỳ hạn. Ngoài ra lãi suất còn thay đổi tùy theo loại kỳ hạn gửi, tùy vào loại
22
đồng tiền (VNĐ, USD hay vàng) tùy theo uy tín và rủi ro của ngân hàng nhận
tiền gửi.
Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn có thể phân thành nhiều loại. Căn cứ vào kỳ
hạn có thể chia thành tiền gửi kỳ hạn 1, 2, 3, 6, 9, 12 tháng, hoặc lâu hơn đến
36 tháng cho khách hàng lựa chọn. Căn cứ vào phương thức trả lãi có thể chia
thành:
- Tiền gửi kỳ hạn lĩnh đầu kỳ
- Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi cuối kỳ
- Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi theo định kỳ
Việc phân chia tiền gửi kỳ hạn thành các loại khác nhau làm cho sản
phẩm tiền gửi của ngân hàng trở nên đa dạng và phong phú có thể đáp ứng
được nhu cầu gửi tiền đa dạng của khách hàng. [2,tr 224]
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân của
NHTM
1.3.1. Các nhân tố khách quan
Những nhân tố khách quan là những nhân tố thuộc về môi trường bên
ngoài NHTM. Những nhân tố này gây ra tác động tiêu cực lẫn tích cực. Vì
vậy bất kỳ một ngân hàng nào cũng không được xem nhẹ các nhân tố này, đó
là:
1.3.1.1. Nhân tố môi trường kinh tế - chính trị - xã hội
Môi trường kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến khả
năng thu nhập, chi tiêu, thanh toán và nhu cầu về vốn, tiết kiệm của dân cư từ
đó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động huy động của ngân hàng.
Sự thay đổi của các yếu tố: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, thu
nhập bình quân đầu người thay đổi, chính sách đầu tư, tiết kiệm của Chính
phủ sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư và từ đó
ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn của NHTM. Khi nền kinh tế tăng trưởng,
sản xuất phát triển, từ đó điều kiện tích lũy nhiều hơn, do đó tạo môi trường
thuận lợi cho việc thu hút vốn, đặc biệt là nguồn tiền gửi từ cá nhân.
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị
không ổn định. Sự ổn định và chính trị hay chính sách ngoại giao cũng có tác
động mạnh mẽ đến quan hệ của ngân hàng với ngân hàng khác hay khách
hàng ở các nước trong khu vực cũng như thế giới. Bên cạnh đó yếu tố cạnh
23
tranh với các ngân hàng khác hay quỹ tín dụng cũng ảnh hưởng đến quy mô
và chất lượng huy động tiền gửi tiết kiệm cá nhân.
1.3.1.2. Chính sách của Nhà nước
Chính sách về thu nhập: Chính phủ cần có một chính sách thu nhập hợp
lý như về chính sách tiền lương, chính sách trợ cấp, sẽ tạo thu nhập ổn định
cho người lao động thì người dân sẽ có phần tiết kiệm gửi vào ngân hàng.
Chính sách về lãi suất: nếu NHNN đưa ra một mức lãi suất cùng với
biên độ biến động phù hợp với tình hình kinh tế thì các NHTM trên cơ sở đó
sẽ đưa ra mức lãi suất linh hoạt hấp dẫn thu hút nhiều khách hàng hơn.
Chính sách tiết kiệm: Khuyến khích các đơn vị kinh tế và dân cư thực
hiện tiết kiệm tránh lãng phí để dùng vốn nhàn rỗi đầu tư phát triển kinh tế
hay gửi vào các NHTM cũng là cách giúp cho nền kinh tế phát triển.
Chính sách thuế: ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và tiết kiệm của dân
cư, tổ chức kinh tế vì vậy ảnh hưởng đến việc gửi tiền vào NH của các đối
tượng này.
Chính sách đầu tư: Chính phủ cần có chính sách khuyến khích đầu tư,
mở rộng sản xuất kinh doanh tạo điều kiện để kinh tế phát triển, tạo điều kiện
cho hoạt động thu hút vốn của các ngân hàng cho đầu tư phát triển kinh tế.
1.3.1.3. Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng
Tâm lý của khách hàng là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc gửi tiền
của khách hàng vào ngân hàng. Nếu khách hàng tin tưởng vào ngân hàng thì
khách hàng sẽ có xu hướng mang tiền gửi vào ngân hàng. Ngược lại, khi
khách hàng không tin vào ngân hàng, thì điều này chắc chắn khách hàng sẽ
không gửi tiền vào ngân hàng mà sẽ cất trữ nơi mà họ cảm thấy an toàn hơn.
Thu nhập của dân cư cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu gửi tiền vì khi
thu nhập của người dân đã đủ chi tiêu hằng ngày, phần còn lại để tiết kiệm.
Do vậy nếu thu nhập của dân cư cao thì nhu cầu gửi tiết kiệm sẽ cao hơn nếu
Ngân hàng có những chính sách huy động hấp dẫn.
Thói quen của người dân như thích sử dụng tiền mặt hoặc để tiền ở nhà,
mua vàng, ngoại tệ mạnh cất trữ khi cần là sử dụng hoặc họ ngại đi đến Ngân
hàng để gửi những món tiền nhỏ lẻ vào Ngân hàng, điều này sẽ tồn tại một
24
lượng tiền mặt ở ngoài hệ thống ngân hàng. Thói quen tiết kiệm, tiêu dùng
cũng ảnh hưởng lớn đến việc gửi tiền vào Ngân hàng.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
Đây là nhóm nhân tố thuộc về môi trường bên trong các NHTM. Đứng ở
góc độ bản thân ngân hàng thì những nhân tố chủ quan luôn là những nhân tố
đóng vai trò quyết định. Có thể kể ra các nhân tố như sau như sau:
1.3.2.1. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp.
Trong chiến lược kinh doanh ngân hàng phải quyết định sẽ mở rộng hoặc thu
hẹp quy mô huy động vốn, thay đổi tỷ trọng các nguồn vốn trong tổng nguồn
vốn, lãi suất huy động phải được điều chỉnh phù hợp với thị trường. Nếu
chiến lược kinh doanh đúng đắn ngân hàng sẽ khai thác được nguồn vốn trong
dân đáp ứng nhu cầu hoạt động của ngân hàng và đạt hiệu quả cao trong kinh
doanh.
1.3.2.2. Chính sách lãi suất cạnh tranh
Chính sách lãi suất cạnh tranh bao gồm lãi suất cạnh tranh huy động và
lãi suất cạnh tranh cho vay là một chính sách quan trọng của ngân hàng. Các
NHTM không chỉ cạnh tranh giành vốn với nhau mà còn cạnh tranh với các tổ
chức tiết kiệm và cả thị trường tiền tệ. Đặc biệt trong thời kỳ khan hiếm tiền
tệ, dù cho sự khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng có thể đẩy dòng vốn
nhàn rỗi trong xã hội đầu tư theo những chiều hướng khác nhau. Đó cũng là
lý do, động lực để các nhà đầu tư hoặc người gửi tiền chuyển vốn từ ngân
hàng này sang ngân hàng khác hay đầu tư trong những lĩnh khác lợi nhuận
cao hơn.
1.3.2.3. Chính sách khách hàng
Trong công tác khách hàng, ngân hàng thường chia khách hàng ra làm
nhiều nhóm để có cách phục vụ phù hợp. Với những khách hàng lâu năm,
giao dịch thường xuyên, có số dư tiền gửi lớn, thì ngân hàng sẽ có chính sách
phù hợp về lãi suất, khuyến mãi, hậu mãi khách hàng…. Ngân hàng cần nắm
bắt được sở thích và mong muốn của khách hàng. Ngân hàng nào nhanh nhạy,
thấu đáo điều này thì sẽ giành được nhiều thị phần hơn. Đặc biệt đối với
25
khách hàng cá nhân chính sách khách hàng có tác động rất lớn trong quyết
định có tiếp tục gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng.
1.3.2.4. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng
Đây cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động
huy động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động vốn của ngân hàng càng đa
dạng, phong phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế
càng lớn bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau về nhu cầu và tâm lý
của các tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng của các hình thức huy động càng
cao thì càng dễ dàng đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của dân cư và họ đều
tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù hợp mà lại an toàn.
1.3.2.5. Các dịch vụ do ngân hàng cung ứng
Một ngân hàng có dịch vụ tốt hiển nhiên sẽ có nhiều lợi thế hơn các ngân
hàng khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường các ngân hàng phải phấn đấu
nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hoá các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu
của khách hàng và tăng thu nhập của ngân hàng. Khác với cạnh tranh về lãi
suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng không có giới hạn do vậy đây chính là
điểm mạnh để các ngân hàng vươn lên trong cạnh tranh. Một số NHTM có sự
đa dạng trong trong nghiệp vụ huy động vốn trong nền kinh tế, thỏa mãn được
nhu cầu của người gửi tiền, sản phẩm phù hợp sẽ làm khách hàng quan tâm và
thúc giục họ gửi tiền vào ngân hàng hơn là tiềm kiếm các đầu tư khác.
1.3.2.6. Chính sách phục vụ, quảng cáo
Trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ như ngày nay khó có thể duy trì sự
khác biệt về sản phẩm và giá cả nên chiến lược phục vụ và quảng cáo trở
thành yếu tố vô cùng quan trọng để thu hút khách hàng đặc biệt là đối tượng
khách hàng cá nhân. Thái độ phục vụ thân thiện là điều kiện để thu hút khách
hàng, chiến lược quảng cáo phù hợp sẽ giúp ngân hàng giữ chân được khách
hàng cũ và góp phần tìm kiếm thêm nhiều khách hàng mới.
Để tạo được hình ảnh đẹp trong mắt khách hàng thì NHTM cần phải
đồng bộ nhiều yếu tố. Trong đó không chỉ chú trọng đến công tác quảng cáo
như: quảng cáo trên báo chí, internet, áp phích… mà còn cần có sự kết hợp
với các chính sách như: chính sách khách hàng, chính sách sản phẩm… Việc