I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY HỢP DANH.
1. Sự thành lập công ty hợp danh.
Công ty Hợp Danh (CTHD) là một trong những hình thức công ty ra đời
sớm nhất trong lịch sử hình thành công ty. Khái niệm về “hợp danh” bắt đầu
xuất hiện và tồn tại từ thời Babylone, Hy Lạp và La Mã cổ đại, khi con người
bắt đầu hợp tác với nhau. Đến các thời kì Trung đại, đến cuối thế kỉ XVII, rồi
ở Thụy Điển, dần dần hình thành hình thức “hợp danh” rõ ràng hơn. Năm
1776, Mỹ giành được độc lập và áp dụng hệ thống luật thông lệ của Anh. Từ
đó, luật pháp về CTHD bắt đầu được áp dụng ở Mỹ. Đến đầu thế kỷ XIX,
CTHD trở thành loại hình kinh doanh quan trọng nhất ở Mỹ. Ngày nay, hệ
thống pháp luật thông lệ điều chỉnh, CTHD được thay thế bằng đạo luật
CTHD hay còn gọi là Luật thống nhất về CTHD. Thêm nữa, CTHD được hình
thành và phát triển từ những nguyên tắc của chế định đại diện xuất phát từ
những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường về liên kết kinh doanh; tập trung và
tích tụ tư bản ở những mức độ và dưới những dạng thức khác nhau.
Tại Việt Nam thì ngược lại. Loại hình công ty này ra đời muộn do điều
kiện kinh tế, lịch sử, xã hội…Vốn là 1 nước trọng về nông nghiệp nên trước
kia không coi trọng hoạt động thương mại và sau đó lại trải qua một thời gian
dài thực hiện kinh tế tập thể. Cuối thế kỷ XIX, Pháp áp dụng 3 Bộ Luật: Dân
Luật Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ vào Việt Nam cho nên xuất hiện các hình
thức Doanh Nghiệp tư nhân, công ty Trách nhiệm hữu hạn và hình thức, khái
niệm CTHD đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam với hình thức Hội buôn. Năm
1954 nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung lấy kinh tế quốc
doanh làm chủ đạo thì các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được
thừa nhận. Pháp luật về công ty nói chung và CTHD nói riêng thời kỳ này
không tồn tại, Nhà nước cũng chưa có những định hướng về lĩnh vực này. Ở
Miền Nam, trước 1975, loại hình CTHD được ghi nhận trong Bộ Luật Thương
Mại, cơ bản giống những quy định của pháp luật Pháp. Đến thời kỳ đổi mới,
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần nước ta đã công nhận sự tồn tại của các
thành phần kinh tế cá thể và tư doanh trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân và đã
cho ra đời Luật công ty 1990, Luật doanh nghiệp tư nhân và LDN 1999 đến
LDN 2005 với 11 điều về CTHD đã cung cấp cho giới thương nhân thêm một
mô hình để lựa chọn cho phù hợp với ý tưởng kinh doanh của họ.
2 . Khái niệm, đặc điểm của công ty hợp danh.
Theo Điều 130 Luật doanh nghiệp (LDN) Việt nam 2005 thì công ty hợp
danh là doanh nghiệp, trong đó:
1
- Phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sỡ hữu chung của công ty, cùng nhau
kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), ngoài các thành
viên có thể có thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh (TVHD) phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ công ty.
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- CTHD có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh (ĐKKD).
- Trong quá trình hoạt động, CTHD không được phát hành bất kỳ loại
chứng khoán nào.
Như vậy, ta có thể thấy những đặc điểm cơ bản của CTHD là:
- Đặc điểm về thành viên: CTHD có thể có 2 loại thành viên với địa vị
pháp lý khác nhau là TVHD và TVGV.
TVHD là thành viên chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về
các nghĩa vụ của công ty. TVHD chỉ có thể là cá nhân. Tất cả các TVHD đều
có quyền quản lý công ty, tiến hành các hoạt động nhân danh công ty và như
vậy cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty bằng toàn bộ
tài sản của mình.
TVGV là cá nhân hoặc tổ chức. TVGV có quyền được chia lợi nhuận
theo tỷ lệ quy định tại điều lệ công ty. TVGV không được tham gia quản lý
công ty và không hoạt đông nhân danh công ty. TVGV chỉ chịu trách nhiệm
về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty.
Như vậy, nếu căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm
tài sản thì CTHD theo LDN được chia làm 2 loại. Loại 1 là loại chỉ gồm
những TVHD. Loại 2 là công ti có cả TVHD và thành viên góp vốn (TVGV),
loại hay gọi là công ti hợp vốn đơn giản (hợp danh hữu hạn) và cũng là một
loại hình của công ti đối nhân. Tuy nhiên luật Việt Nam lại quy định 2 “loại”
này lại vào chung với nhau, không tách bạch. Đây là điều không hợp lý vì 2
loại này tuy gần như hoàn toàn giống nhau về quy chế pháp lý nhưng trong
thực tế sẽ phát sinh những điểm không thỏa đáng, nhất là trong việc giải thể
công ty. Điều này chứng tỏ sự cứng nhắc của pháp luật hiện hành. Trong khi
đó pháp luật hầu hết các nước đều coi hợp danh đơn giản chỉ là một nhóm
người, một hội, không phải là loại hình công ti như quy định của Việt Nam.
- Đặc điểm về hoạt động đại diện cho CTHD trong các giao dịch pháp lý.
Theo Khoản 1 điều 137 LDN 2005 mọi thành viên hợp danh đều có
quyền đại diện cho công ty, đều tham gia vào quan hệ nhân danh công ty.
- Đặc điểm về trách nhiệm của công ty.
2
CTHD chịu trách nhiệm về hoạt động của mình không giới hạn trong
phạm vi số vốn điều lệ được đăng kí tại cơ quan ĐKKD. Các TVHD cùng
nhau chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty bằng toàn bộ tài sản riêng của
mình. Vì vậy CTHD là DN chịu trách nhiệm vô hạn.
- Về đặc điểm tư cách pháp nhân.
Một vấn đề mà nhiều người bàn cãi là: Tại sao Luật doanh nghiệp 2005
lại quy định CTHD là pháp nhân? Điều này có mâu thuẫn với quy định của
Luật dân sự không?
Việc quy định CTHD là pháp nhân được coi một trong những điểm mới
so với Luật doanh nghiệp 1999. Việc thừa nhận Công ty hợp danh là pháp
nhân không mâu thuẫn với Luật dân sự.
Điều 84 Bộ Luật Dân sự 2005 quy định 4 đặc điểm của pháp nhân gồm:
1) Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập,
đăng ký hoặc công nhận.
2) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
3) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó.
4) Nhân danh mình tham gia các quan hệ Pháp luật một cách độc lập.
Đối chiếu theo các đặc điểm trên, thì CTHD được quy định trong LDN 2005
có đủ bốn điều kiện nói trên.
Một số ý kiến cho rằng CTHD không thể là pháp nhân với lý do là thành
viên CTHD có trách nhiệm vô hạn, do đó Công ty không thể có tài sản độc
lập, ý kiến này đã vô tình đồng nhất khái niệm “tài sản độc lập” và “trách
nhiệm hữu hạn”. “Tài sản độc lập” của pháp nhân không gắn với trách nhiệm
hữu hạn hay vô hạn của thành viên. Một tổ chức có tài sản độc lập có nghĩa là
tài sản của nó được hình thành theo quy định tương ứng của Pháp luật và
đương nhiên thuộc về sở hữu của tổ chức; tất cả các tài sản của tổ chức đều
mang danh của tổ chức đó.
Trách nhiệm vô hạn của thành viên chỉ phải thực hiện khi toàn bộ tài sản
của công ty không đủ để thanh toán các khoản nợ; trong trường hợp này, chủ
nợ sau đó có thể yêu cầu thành viên công ty thanh toán nợ cho mình bằng tài
sản cá nhân của họ (tài sản không đưa vào kinh doanh).
Thực tế hiện nay, có CTHD đã nhân danh mình đăng ký sở hữu tài sản
mà pháp luật quy định phải đăng ký như quyền sử dụng đất, công trình xây
dựng, phương tiện vận tải... Các tài sản đó đương nhiên thuộc sở hữu của công
ty và hoàn toàn tách biệt với tài sản của cá nhân từng thành viên. Như vậy
thừa nhận CTHD là pháp nhân không trái với quy định của Bộ Luật dân sự.
II . VẤN ĐỀ THÀNH LẬP VÀ QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH CTHD.
3
1 – Vấn đề thành lập CTHD.
CTHD được thành lập và bắt đầu cuộc sống của nó với tư cách là một
pháp nhân độc lập sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh
(ĐKKD) theo khoản 2 Điều 130 LDN 2005. LDN 2005 nhấn mạnh ý nghĩa
của hành vi ĐKKD. Trong khi đó, luật lệ nhiều nước lại xem hợp danh như
khế ước, bởi vậy hợp danh có thể được thành lập thông qua thỏa thuận,
ĐKKD chỉ có ý nghĩa công khai hóa. Lý do của vấn đề này có thể luận giải
như sau: vì hợp danh trước hết là liên kết của 2 hay nhiều người, luật pháp các
nước thường đề cao thỏa thuận giữa các thành viên. Hợp danh về nguyên tắc
được thiết lập nếu các thành viên đã thỏa thuận cách thức hùn vốn, tạo tài sản
chung, chia quyền điều hành và lỗ, lãi. Nói cách khác, khế ước giữa các bên
đã xác lập nên hợp danh chứ không phải giấy chứng nhận của cơ quan ĐKKD.
Mặc dù vậy, ở Việt Nam thỏa thuận thành lập hợp danh cũng rất quan
trọng. Nội dung các thỏa thuận này được ghi nhận trong điều lệ công CTHD
và giấy đề nghị ĐKKD (điều 17, 21, 22 Luật DN). Ngoài các quy định của
LDN, các quy định chung từ điều 388 đến điều 411 của Bộ Luật dân sự
(BLDS) 2005 vẫn có thể được dẫn chiếu để xem xét hiệu lực của thỏa thuận
hợp danh, việc tuân thủ các nghĩa vụ đã cam kết của các thành viên cũng như
trách nhiệm pháp lí nếu có vi phạm. Ngoài ra các TVHD cần có chứng chỉ
hành nghề (ví dụ thẻ luật sư, thẻ kiểm toán viên) đối với những dịch vụ cần có
chứng chỉ và các điều kiện hành nghề khác theo quy định của pháp luật
chuyên ngành. Cụ thể hồ sơ ĐKKD của CTHD được quy định tại điều 17
LDN năm 2005 như sau:
1. Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng
ký kinh doanh có thẩm quyền quy định.
2. Dự thảo Điều lệ công ty.
3. Danh sách thành viên, bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu
hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của mỗi thành viên.
4. Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
đối với công ty hợp danh kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp
luật phải có vốn pháp định.
5. Chứng chỉ hành nghề của thành viên hợp danh và cá nhân khác đối với
công ty hợp danh kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải
có chứng chỉ hành nghề.
2 – Quản lý điều hành trong công ty hợp danh.
a )Tổ chức quản lý trong Công ty hợp danh.
Về cơ bản, các thành viên có quyền tự thỏa thuận về việc quản lý, điều
hành công ty. Tuy nhiên luật quy định quyền quản lý CTHD chỉ thuộc về các
4
TVHD, các TVGV không có quyền quản lý công ty. Cơ cấu tổ chức quản lý
CTHD do các TVHD thỏa thuận trong điều lệ của công ty, tuy nhiên phải tuân
thủ một số quy định cơ bản sau đây:
Trong CTHD thì Hội đồng thành viên (HĐTV) là cơ quan quyết định cao
nhất bao gồm tất cả các thành viên. HĐTV bầu một TVHD là chủ tịch đồng
thời kiêm giám đốc hoặc tổng giám đốc (nếu điều lệ công ty quy định khác).
Việc họp HĐTV do chủ tịch hội đồng thành viên triệu tập hoặc theo yêu
cầu của TVHD nếu thấy cần thiết (khoản 1 điều 135, khoản 1 điều 136 LDN).
Thể thức triệu tập cuộc họp, quy định gửi tài liệu trước cuộc họp, điều hành,
biểu quyết và ghi biên bản các cuộc họp HĐTV của CTHD tương đối đơn
giản, tùy thuộc vào thỏa thuận của các thành viên trong điều lệ công ti. Quyết
nghị của HĐTV được thông qua nếu 2/3 tổng số TVHD của công ti chấp
thuận, trừ những quyết định quan trọng cần có sự chấp thuận của 3/4 tổng số
TVHD (Điều 135 LDN).
b )Đại diện cho Công ty hợp danh:
Khác với mô hình công ti TNHH và công ti Cổ phần, về nguyên tắc tất cả
các TVHD đều có quyền nhân danh tên hãng chung và đại diện cho CTHD
trong các giao dịch. TVHD phân công nhau đảm nhận các chức danh quản lý
và kiểm soát công ty; khi một số hoặc tất cả thành viên cùng thực hiện một số
công việc kinh doanh thì quyết định được thông qua theo đa số. Hành vi của
một TVHD có thể xác lập nghĩa vụ cho công ti; nếu công ti thua lỗ, hành vi ấy
có thể dẫn tới trách nhiệm trả nợ vô hạn và liên đới của tất cả TVHD khác.
Tuy nhiên, các TVHD có thể thỏa thuận hạn chế quyền đại diện của một số
thành viên; các hạn chế này chỉ có giá trị với bên thứ 3 khi người đó biết về
hạn chế đó (điều 137 LDN). Ngoại lệ này có thể giúp các TVHD giới hạn
trách nhiệm liên đới của mình; việc áp dụng chúng trên thực tế sẽ phụ thuộc
đáng kể vào quyền giải thích pháp luật của các thẩm phán, nhất là những
trường hợp bên thứ 3 biết hay buộc phải biết về hạn chế quyền đại diện. Nếu
các bên thứ 3 không thể biết về các hạn chế mang tính nội bộ đó, thẩm quyền
nhân danh và đại diện cho hợp danh của các TVHD về nguyên tắc là đại diện
toàn quyền, không bị hạn chế. Các TVHD có thể cử ra một người làm chủ tịch
HĐTV, người này có thể đồng thời kiêm chức danh quản lý khác trong công ti
(khoản 1 điều 135 LDN). Người chủ tịch này đại diện cho CTHD trong các
quan hệ với cơ quan nhà nước, đặc biệt trong tranh tụng (K4 Đ137 LDN 2005)
III – QUY ĐỊNH VỀ THÀNH VIÊN CÔNG TY HỢP DANH.
Theo quy định của Pháp luật Việt Nam hiện hành thì CTHD có 2 loại
thành viên: thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
1 – Thành viên hợp danh.
5
- Quyền và nghĩa vụ của TVHD.
CTHD bắt buộc phải có TVHD (ít nhất là 2 thành viên). TVHD phải là cá
nhân, có nghĩa là pháp nhân không thể góp vốn thành lập CTHD. Vậy tại sao
LDN năm 2005 cho rằng thành viên của CTHD chỉ có thể là cá nhân? Có lẽ
nhà làm luật nghĩ, TVHD của CTHD phải chịu trách nhiệm vô hạn định đối
với các khoản nợ của công ty nên buộc phải là cá nhân, vì xem điểm b, khoản
1, Điều 130 của LDN năm 2005 có bóng dáng của những nhận thức như vậy.
Chịu trách nhiệm vô hạn định có nghĩa là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình hiện có hoặc sẽ có trong tương lai. Vậy cả cá nhân và pháp
nhân đều phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các
khoản nợ của họ, chỉ có điều khác biệt là pháp nhân khi đã bị thanh lý hết tài
sản thì có thể không tồn tại nữa, còn cá nhân thì vẫn có cơ hội để làm ăn, có
nghĩa là có thể có tài sản trong tương lai. Xuất phát từ việc TVHD chính là
những người trực tiếp thành lập và quản lý CTHD nên họ không thể là những
đối tượng quy định tại điều 13 LDN 2005 như: cán bộ, công chức, người chưa
thành niên...
Trách nhiệm tài sản của các TVHD đối với các nghĩa vụ của công ty là
trách nhiệm vô hạn và liên đới. Chủ nợ có quyền yêu cầu bất kì TVHD nào
thanh toán các khoản nợ của công ti đối với chủ nợ. Mặt khác TVHD phải
phải bằng toàn bộ tài sản của mình (tài sản đầu tư vào kinh doanh và tài sản
dân sự) chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty.
Ví dụ: giả định một trường hợp đơn giản là CTHD có 2 thành viên góp
vốn lần lượt là 2 tỷ và 3 tỷ. Lúc giải thể công ty nợ 2 tỷ. Vậy thì số nợ này phải
chia thế nào ? Với câu hỏi trên thì chắc chắn 2 thành viên trên là thành viên
sáng lập – tức TVHD (vì CTHD phải có tối thiểu 2 thành viên), và không có ai
là TVGV. Vậy câu trả lời sẽ là cả 2 thành viên đó phải chịu trách nhiệm vô
hạn cho tất các nghĩa vụ của công ty, cả 2 người sẽ phải lấy toàn bộ tài sản của
mình khi tiến hành giải thể hoặc làm thủ tục phá sản để thanh toán khoản nợ 2
tỷ. Sau thanh toán xong các khoản nợ thì phần còn lại các thành viên mới tiến
hành để thương lượng và chia cho nhau (Luật không điều chỉnh việc chia này).
Trường hợp nếu 1 người không có khả năng thanh toán thì người còn lại có
phải trả nợ thay thành viên đó không? Cũng theo cách xác định nghĩa vụ như ở
trên, thì nghĩa vụ của TVHD là các khoản nợ của công ty (Điểm b - K1 - Đ130
- LDN 2005). TVHD ở đây được hiểu là bất kỳ thành viên nào. Khoản nợ 2 tỷ
là của công ty, do vậy chủ nợ có quyền đòi toàn bộ số nợ và đòi bất cứ thành
viên nào của CTHD, trên cơ sở chế độ đại diện đương nhiên được quy định tại
khoản 1 điều 137 LDN năm 2005. Như vậy nếu 1 người không có khả năng
6