BÀI TẬP NHÓM
Môn: Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.
ĐỀ TÀI:
CUỘC SỐNG KHÓ KHĂN, THIẾU THỐN THỜI KỲ BAO CẤP
Ở VIỆT NAM VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TỪNG PHẦN,
NỘI DUNG ĐỔI MỚI ĐẠI HỘI ĐẢNG VI
Thành viên:
1. Trương Thị Thùy Dung ( NT).
2. Nguyễn Tú Anh
3. Bạch Thái Bảo
4. Vũ Thị Dâng
5. Nguyễn Linh Đan
6. Nguyễn Thu Hằng
7. Nguyễn Thu Hồng
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Mục lục
2
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm 1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thăng
lợi, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Đất nước ta tạm thời bị
chia cắt thành hai miền Nam - Bắc. Miền Bắc nước ta hoàn toàn được giải
phóng và tiến bước lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi hoàn
thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, từ năm 1960 miền Bắc bắt đầu áp dụng cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Ngày 30/4/1975 cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước hoàn toàn thắng lợi, đất nước ta hoàn toàn thống nhất. Cả nước bước
vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội. Định hướng của Đảng và Nhà
nước: xây dựng nền kinh tế theo mô hình KHH tập trung.
Cơ chế này có những ưu điểm thích hợp cho hoàn cảnh hiện tại của đất
nước lúc đó, nhưng cũng có nhiều hạn chế kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất
nước sau này. Vậy cơ chế đó như thế nào ? Có ưu nhược điểm gì ? Sau đây
chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu.
1. Cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp
1.1. Tìm hiểu chung
1.1.1. Khái niệm
Cơ chế kế hoạch hóa tập trung: Được hiểu cơ chế trong đó nền kinh tế vận
động dưới sự kiểm soát của nhà nước về các yếu tố sản xuất cũng như phân
phối về thu nhập. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế,
không coi trọng các quy luật thị trường.
Kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo, các thành phần
kinh tế khác hầu như không được chú trọng.
1.1.2. Quy trình kế hoạch hóa
Quy trình kế hoạch hóa thực hiện theo công thức” Một lên, hai xuống”
Cái xuống thứ nhất: Bộ chính trị, Trung ương Đảng, Chính phủ giao cho
ủy ban kế hoạch nhà nước tinh toán “ số liệu kiểm tra” rồi phân bổ chỉ
tiêu cho các bộ, ngành, tỉnh. Sau đó, số liệu lại được chuyển xuống các
cấp thấp hơn là các cục, vụ, xí nghiệp, công ty, xã, phường
3
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Cái lên: Mỗi cơ sở phải tự xây dựng kế hoạch của mình và trình lên cấp
trên bằng cách cân đối giữa “ số liệu kiểm tra” được đưa xuống với số
liệu điều tra tai cơ sở.
Cái xuống thứ 2: Kế hoạch cuối cùng được đưa ra sau khi cấp trên xem
xét “ số liệu điều tra” và kế hoạch của cấp dưới. Kế hoạch này được trở
thành chỉ tiêu pháp lệnh và giao lại xuống dưới.
Quy trình kế hoạch hóa này thường được bắt đầu thực hiện từ cuối năm
trước đến khoảng tháng 3 năm sau thì có các chỉ tiêu, pháp lệnh cụ thể. Tuy
nhiên, cũng có khi xảy ra hiện tượng “ trễ” trong việc cân đối số liệu giữa các
cấp và phải đến tháng 6 hoặc tháng 7 chỉ tiêu mới được đưa xuống. Khi đó, thời
gian thực hiện kế hoạch sẽ ngắn hơn rât nhiều trong khi chỉ tiêu thường cao, gây
khó khăn cho các cấp thực hiện.
1.1.3. Đặc trưng cơ chế
Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu, pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới.
Tính pháp lệnh thể hiện ở chỗ: Nhà nước xây dựng các chỉ tiêu một cách
chủ quan, sau đó đưa xuống cho các doanh nghiệp, thậm chí cả hợp tác xã thưc
hiện. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở của các quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương
hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức nhà máy,
nhân sự, tiền lương đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Mọi sự thay đổi
trong kế hoạch và tổ chức thực hiện đều phải báo cáo lên cơ quan chủ quản, khi
nào được chấp nhận mới được triển khai.
Hệ thống chỉ tiêu thể hiện ở chỗ: sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu và
phân phối cho ai? Cấp phát vốn, vật tư doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp
sản phẩm cho nhà nước cũng đều nằm trong chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao
cho. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp đối với mọi đơn vị cấp dưới và doanh
nghiệp nhà nước, kể cả hợp tác xã. Đầu vào của các doanh nghiệp – các yếu tố
sản xuất do nhà nước cấp hoàn toàn. Do vậy toàn bộ sản phẩm làm ra đều phải
4
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
giao nộp lại cho nhà nước để nhà nước phân phối. Hợp tác xã cũng phải bán
toàn bộ sản phẩm cho nhà nước với giá rất rẻ.
Các doanh nghiệp chỉ quan tâm đên một vấn đề duy nhất đó là hoàn thành
chỉ tiêu, dù cho chỉ tiêu đó có phi lý đến đâu. Bởi vì, doanh nghiệp không phải
người định giá bán sản phẩm, không quan tâm đến cái gọi là lỗ hay lãi. Chế độ
tài chính của nhà nước thực hiện theo nguyên tắc thu đủ, chi đủ. Nghĩa là Nhà
nước sẽ thu lợi nhuận khi có lãi, và ngược lại cũng sẽ phải bù khi bị lỗ. Và trong
cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp này lỗ thì nhiều mà lãi chẳng
thấy đâu do không có sự gắn liền giữa quyền lợi và trách nhiệm của cấp thực
hiện.
Cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp
Can thiệp từ khâu cấp phát vốn, sản xuất đến khâu phân phối sản phẩm
nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối với các quyết
định của mình.
Những thiệt hại về vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì ngân
sách nhà nước phải gánh chịu. Các doanh nghiệp không có quyền tự chủ sản
xuất, kinh doanh, cũng không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất,
kinh doanh.
Quan hệ hàng hóa- tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ
yếu.
Các công cụ như giá cả, lãi suất, tiền lương chỉ áp dụng để tính toán một
cách hình thức. Vì vậy nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh
sáng chế, tư liệu sản xuất quan trọng, không được coi là hàng hóa về mặt pháp
lý.
Giá cả không phản ánh quan hệ cung cầu mà do Nhà nước đặt ra dùng để
tính toán cho việc cấp phát và giao nộp giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
Tiền lương được quy định theo cấp bậc hành chính và thâm niên, tính theo
chủ nghĩa bình quân chứ không phải là được tính theo hiệu quả lao động của
mỗi người.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian
5
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Bộ máy quản lý này vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ kém năng lực,
phong cách cửa quyền, quan liêu, nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn
người lao động. Hoạt động quản lý kém hiệu quả. Trong thực tế, bộ máy nhà
nước và doanh nghiệp quốc doanh còn xuất hiện tham ô và lãng phí ( tuy phạm
vi và mức độ khác với ngày nay ).
1.1.4. Hình thức bao cấp
Bao cấp qua giá
Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá
trị thực của chúng nhiều lần so với giá thị trường. Do đó hạch toán kinh tế chỉ là
hình thức.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu
Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công
nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức
giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật,
thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối
theo lao động.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách
Tuy dùng vốn ngân sách nhưng không có cơ chế ràng buộc trách nhiệm vật
chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó làm tăng gánh nặng đối với ngân
sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “ xin- cho”.
1.2. “Đêm trước Đổi mới”
1.2.1. Đời sống của cán bộ, công nhân viên nhà nước
Lương bổng: Tiền lương được quy định theo cấp bậc hành chính và thâm niên,
tính theo chủ nghĩa bình quân chứ không phải là được tính theo hiệu quả lao
động của mỗi người. Các doanh nghiệp khi không có tiền trả lương cho công
nhân thì trả bằng sản phẩm. Đơn vị có cao su trả bằng cao su, xí nghiệp có mũ
cứng thì trả lương bằng mũ cứng, hay sản xuất sứ tích điện thì trả bằng sứ tích
điện…Những lúc như vậy lĩnh lương xong cũng không biết đem về để đâu, làm
gì?
6
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Tem, phiếu: . Mỗi lần đến kỳ đong gạo thì nhà nhà xếp hàng, người người chen
chúc. Ai không may mất sổ gạo trông mới thảm hại làm sao, bởi cả tháng đó
phải chạy ngược chạy xuôi để lo tạm cấp, trước khi làm được sổ mới. Gạo mậu
dịch cũng ngày một thiếu, rất nhiều nhu yếu phẩm khác cũng vậy.
Giáo viên thời bao cấp: Nghề giáo rất khổ. Lương nhà nước cấp không bao giờ
đủ sống mà thường là phải xin thêm tiền ở nhà. Nhiều khi không có tiền sống,
mấy anh em trong nhà tập thể cùng góp tiền để một người nào đó có thể về quê
xin tiền ở nhà mang lên. Thường thì người đó sẽ về nhà của mình khoảng chừng
ba ngày, khi trở lại thường là mang theo một khoản tiền nào đó. Số tiền tuy
không nhiều nhưng cũng để mọi người cùng trang trải cho cuộc sống. Hôm nào,
có anh đi quá ba ngày là mọi người ở lại biết ngày thứ tư chỉ có chết đói. Mà
một người nào đó về được nhà mình, có muốn mang lên cái gì cho anh em đỡ
tiền mua cũng không phải là chuyện dễ dàng. Chỉ có khoảng 10-20 kg gạo mà
mỗi lần muốn mang đi là mỗi lần khó vô cùng. Muốn không bị bắt lại ở các
trạm kiểm soát phải đi xin giấy phép, mà giấy phép thì không phải chỉ xin một
lần ở một nơi là được. Chú nói phải đi xin từ dưới lên trên, làm sao phải được
cái mộc đỏ thì mới “ăn tiền”. Có lẽ người ta nghĩ mình đi buôn, mà đi buôn phải
buôn nhiều chứ chỉ có ít gạo như mình thì ăn cũng không có chứ lấy gì để buôn.
Đời sống kinh tế thời đó dường như chi phối tất cả mọi thứ. Người giáo
viên cũng bị cuốn vào cái vòng xoáy của cơm áo gạo tiền. Thời Bao cấp mọi cái
đều khó khăn từ chuyện ăn uống, quần áo cho đến giải trí này nọ. Hạt cơm lúc
ấy nhìn hạt nào hạt ấy như con dòi. Nhìn hạt cơm to như con dòi là biết nó nở
như thế nào. Người ta không nấu bình thường như bây giờ mà cho vào cái chõ
để hấp. Họ hấp cho đến khi nào hạt cơm to ra bằng con dòi mới lấy ra, đến khi
lấy cơm, múc một chén nhìn thì đầy mà chẳng được bao nhiêu. Còn canh thì
nhìn không thấy một “ông sao” nào. Canh Bao cấp nấu chỉ với nước lã, chẳng
có chút dầu mỡ, thịt thà gì nên nói nhìn bát canh Bao cấp không thấy “ngôi sao”
nào là vậy. Người ta thường gọi canh hồi đó là “canh toàn quốc” tức là canh
toàn nước hoặc có rau thì cũng chỉ là mấy cọng rau dền dại.
7
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Về việc dạy học, do điều kiện đất nước lúc đó còn khó khăn, giáo dục
không được đầu tư nhiều. Cơ sở vật chất lúc đó rất kém, phòng ốc rất thiếu
thốn. Để khắc phục tình trạng này, nhà trường chia giáo viên dạy theo ca. Vì số
lượng học sinh đông mà phòng ốc lại thiếu nên ngày nào cũng phải dạy ba ca:
sáng, chiều, tối. Về chất lượng giáo dục không được quan tâm bao nhiêu còn
thành tích thì lại được chú ý rất nhiều. Hầu như lúc nào người ta cũng đề ra chỉ
tiêu và cố gắng thu được những thành tích nào đó.
1.2.2. Đời sống nhân dân
Hàng cung cấp, phân phối "mua như cướp, bán như cho": Nhà nước quy
định mỗi gia định được giữ 60% sản lượng lúa, số dư phải bán cho nhà nước.
Sau đó phải khổ sở đi mua gạo theo chế độ tem phiếu. Nhất là giá bán thấp hơn
tiền vốn bỏ ra nên mới có chuyện người dân tìm cách giấu lúa và nhiều chuyện
dở khóc dở cười. Có chuyện người dân giấu gạo cất đi, đến khi mở ra thì chuột
đã ăn mất quá nửa, hay người nhà nước đến đo bồ thóc để bắt bán ngay thóc
thừa hay phạt vì không chịu nộp đủ.
Năm 1978 giá thành 1m2 vải caliot sản xuất tại Công ty Dệt Thành
Công là 1.5 đồng, nhưng phải bán cho Nhà nước với giá 1.2đ/m2. 1m2 vải dệt
kiểu oxford hết 10đ, phải bán cho Nhà nước với giá 9đ/m2. Trong khi giá trên
thị trường cao gấp 10-12 lần.
Sản xuất hợp tác xã
Muốn làm ăn phải vào hợp tác xã để cùng góp vốn làm tập thể chứ không
được phép làm với hình thức tư nhân. Nhỏ nhất là tổ hợp từ 5-10 người, lớn hơn
nữa là hợp tác xã từ 10-50 người. Tuy nhiên cũng có một số hợp tác xã rất lớn,
số lượng người có khi lên tới hàng trăm người. Dưới mô hình hợp tác xã, nền
kinh tế lúc bấy giờ có hai loại hình chính là loại hình kinh tế quốc doanh và loại
hình kinh tế tập thể.
Loại hình kinh tế quốc doanh, mặc dù có nhiều điều kiện thuận lợi hơn (do
nhà nước đầu tư, có thể vay vốn từ ngân hàng) nhưng hiệu quả kinh tế thường
8
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
rất thấp nếu không muốn nói là thường xuyên thua lỗ. Ngược lại, làm ăn theo
dạng kinh tế tập thể tuy có khó khăn hơn vì nguồn vốn phải do tự lực các cá
nhân góp vào, nhưng có vẻ khấm khá hơn.
Loại hình kinh tế quốc doanh là loại hình có vốn đầu tư 100% là của nhà
nước. Ở loại hình này, nhà nước chỉ định những người sẽ đứng ra lãnh đạo quá
trình sản xuất. Vì là sự chỉ định nên nhiều khi không nhận được sự đồng tình
của tập thể. Điều này dẫn đến khả năng gây mất đoàn kết trong nội bộ vì các cá
nhân không nể phục người lãnh đạo của mình. Trái lại, ở loại hình kinh tế tập
thể, các cá nhân tự góp vốn làm ăn với nhau và họ cũng có quyền bầu lên những
người mà họ tin tưởng. Những người này thường được đánh giá là giỏi quản lí,
có năng lực, biết cách làm ăn. Họ được chính các cá nhân trong tập thể đó bầu
lên và thành lập ban điều hành. Thông thường, ban điều hành gồm có một chủ
nhiệm, một phó chủ nhiệm, một thư kí, một kế toán. Ở nhiều tập thể, người ta
cũng lập cả ban kiểm sát để theo dõi quá trình sản xuất của tập thể. Vả lại, khi
cùng góp vốn với nhau, cùng lời ăn lỗ chịu nên những thành viên trong tập thể
cũng cố gắng để làm việc chứ không ỷ lại như khi có nhà nước bao cấp. Tuy
nhiên, hoạt động kinh tế của các tập thể lúc bấy giờ gặp rất nhiều khó khăn.
Ở nông thôn, việc làm ăn theo mô hình tập thể dưới sự quản lí của nhà
nước lúc bấy giờ có vẻ như không mấy hiệu quả. Nếu lấy mục tiêu và cách thức
để phát triển nông nghiệp của hai thời kì trước và sau đổi mới ra so sánh thì có
thể người ta sẽ thấy hai chính sách này khác nhau khá nhiều. Nếu như bây giờ
nhà nước chỉ đóng vai trò là người hỗ trợ trong việc phát triển nông nghiệp thì
trước đây nhà nước lại tham gia vào quá trình này như một người quản lí và
luôn luôn quán xuyến, bao quát tất cả tình hình. kinh tế ngày xưa là kinh tế
hoạch định cứng rắn chứ không phải là kinh tế hoạch định mềm dẻo như bây
giờ. Người ta làm theo giờ, đến giờ thì đi làm, hết giờ lại về. Thời bao cấp cái gì
cũng giả, giả làm, giả trả lương. Nhà nước giả trả lương thì người dân cũng giả
làm. Giả làm, giả trả lương ở đây có nghĩa là cái gì cũng có nhưng lại không có
thật. Nhà nước trả công người dân với mức lương như thể không trả còn người
9
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
dân thì làm như thể chẳng làm gì. Từ những cái trông thật mà giả đó kéo lê nền
kinh tế Việt Nam trong sự trì trệ. Người ta nhìn cuộc sống bây giờ lại nghĩ về
trước đó. Tại sao cũng từng đó ruộng đất mà ngày xưa thì đói kém mà bây giờ
lại có thể xuất khẩu gạo?
Trước đó, ruộng là của người nông dân, đến thời bao cấp thì ruộng đất
cũng như con người được đưa vào hợp tác xã hết. Hồi đó, khi ruộng là của từng
hộ gia đình, người ta tự chăm sóc cho tài sản của mình. Họ tìm phân bón, làm
ngày làm đêm để mong thu được lợi nhuận cao. Còn vào thời bao cấp, khi
người ta đem tất cả ruộng đất vào của chung thì lại nảy sinh ra tình trạng “cha
chung không ai khóc” Còn khi làm theo kế hoạch của nhà nước thì cứ làm theo
giờ, hết giờ thì về. Sự cứng nhắc về giờ giấc đó làm mất đi sự linh hoạt trong
cách gieo trồng dựa trên kinh nghiệm của người nông dân. Hồi đó, thay vì một
miếng ruộng của một gia đình chỉ có hai đến ba người làm vẫn có hiệu quả thì
bây giờ, khi cho vào hợp tác xã có đến cả trăm người làm mà cũng không xong.
Cách làm này không những mang lại hiệu quả sản xuất không cao mà còn uổng
phí nguồn lao động.
Đó là chuyện ở những vùng có ruộng. Ở thành phố và một số nơi không có
ruộng, người ta tham gia vào một số hoạt động sản xuất khác. Tuy nhiên, dù là
hoạt động nào thì vẫn dưới hình thức tổ hợp hay hợp tác xã. Thông thường, các
tập thể và nhà nước liên kết với nhau thông qua các hợp đồng. Nhưng việc kí
được hợp đồng cũng không phải dễ dàng. Một số tập thể “mánh mung” được thì
có thể kí hợp đồng để làm gia công cho nhà nước. Giữa hai bên nhà nước và tập
thể nếu thấy thuận lợi thì kí hợp đồng giá cả với nhau. Thường thì cái nào nhà
nước không làm được sẽ chuyển qua cho tập thể làm. Hàng hóa do tập thể làm
chủ yếu là hàng gia công cho nhà nước. Các tập thể nhận nguyên liệu của nhà
nước làm thành sản phẩm rồi lại trả hàng hóa về cho nhà nước chứ không được
bán tự do ra thị trường bên ngoài. Ví dụ như nhà nước cung cấp bột mì còn tập
thể thì tổ chức thành những tổ hợp hay hợp tác xã để làm thành mì sợi. Sau đó,
10
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
số mì sợi này lại được trả về cho nhà nước rồi từ nhà nước lại phân phối cho
dân.
Mua bán hợp tác xã: Nhà nước bán hàng dưới giá thành và thấp hơn giá chợ.
Để mua được thì rất khó khăn vì hàng hóa không đủ để cung cấp. Các cửa hàng
mậu dịch luôn ở tình trạng thiếu hàng, mọi người xếp hàng chầu chực chờ hàng
về để được mua đầu tiên.
Nhiều khi không mua được hoặc có mua cũng là đồ không ngon, không
chất lượng, hoặc là bị cân thiếu. Đồ chất lượng ở cửa hàng còn dành cho cấp
trên, người nhà, người quen, người trong cửa hàng mậu dịch. Bán ai trước, bán
đúng cân hay thiếu cân, hàng nguyên chất hay đầu thừa đuôi thẹo đều thuộc
quyền cô mậu dịch. Thế nên mới có chuyện thời này tất cả các mậu dịch viên
nếu không giàu có cũng không khi nào túng thiếu. Lấy được mấy cô này khác gì
chuột sa chĩnh gạo. Nhà nào kiếm được cô dâu là mậu dịch viên thật mừng hết
lớn. Cả họ mừng chứ không riêng gì nhà đó mừng.
Các nghề thời bao cấp: Thời bao cấp khốn khó đã làm nảy sinh những nghề
khá “đặc biệt”
Áo may bằng vải bột mì: Thời bao cấp rất khan hiếm vải may mặc, một
số người có "sáng kiến" tháo các bao vải đựng bột mì viện trợ dùng để may áo,
ít thì may tự dùng, còn có dư thì đem bán. Áo quần mặc thời ấy rất dễ rách vì
vải không bền, ít xà-phòng giặt. Rách đến đâu, vá đến đó, chẳng ai chê cười cả.
Bán đá cục: Thời bao cấp có cái sướng là giá điện lại rẻ nhưng xài hạn chế
theo định mức số KWH theo đầu nhân khẩu. Ai có được “tiêu chuẩn” xài điện
cơ quan hay các khu quân đội lại nảy ra ý làm nước đá cục tủ lạnh bán cho các
quán cà phê. Mùa hè nóng nực, một cái tủ lạnh trong gia đình có thể đủ tiền chợ
cho cả nhà.
Bơm mực bút bi: Người hành nghề đặt tất cả đồ nghề trên chiếc xe đạp
gồm ống tiêm, cồn tẩy mực, mực bút bi, đầu viết bi, đầu bi, ống ruột viết,…
Chiếc bút bi khi hết mực sẽ được rửa sạch ruột, nếu đầu bi hỏng sẽ được thay
11
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
bằng một đầu bi… cũ khác nhưng có thể còn xài được. Sau đó, bơm mực vào
ống ruột viết bi để dùng tiếp.
Bơm quẹt ga: Giống như viết bi, hộp quẹt ga khi hết cũng có thể sửa lại,
nạp ga vào và xài tiếp.
Buôn lậu: trên thế giới, có buôn là có lậu nhưng thời bao cấp, có những
món hàng bình thưòng cho nhu cầu hàng ngày của người dân như gạo, thịt, vải,
thuốc,… nhưng khi đã được Nhà nước quản lý thì mang đi đâu, từ quê ra chợ thì
đều gán cho là… buôn lậu. Một số người làm nghề “buôn lậu” chỉ với các món
hàng như vậy. Mua chổ rẻ và bán chỗ cao hơn. Nhờ thời bao cấp mà giới tài xế,
lơ xe … lên đời - lên mặt, cho hành khách để hàng trên xe như là … ban phước
vậy.
Cắt sắt ấp chiến lược: Các thanh sắt “ấp chiến lược” còn khá dồi dào ở
miền Nam sau 1975. Sắt được các thợ cơ khí thu gom ở các căn cứ quân sự cũ,
hàng rào nhà dân, đem về dập thằng và dùng máy cắt ra từng thanh dẹp dài. Các
thanh dẹp này lại được gia công và hàn thành cửa sắt, lan can, đồ gia dụng, …
Nghề này sống dài dài cho đến lúc … hết nguyên liệu là “sắt ấp chiến lược”.
Cò: “Cò” là một nghề sống “khoẻ” đến tận bây giờ, không phải là “săn cò”
đâu mà là chạy giúp làm việc gì đó để nhận thù lao. Nhiều loại “cò” lắm, như
“cò cơm”, “cò xe”, “cò bệnh viện”, “cò khách sạn”, “cò giấy tờ”, “cò nhà
đất”, Có “cò” rất giàu từ nghề này, có người chỉ vừa đủ “kiếm cháo” theo kiểu
“anh có cơm ăn thì tôi có cháo húp”. Giá cả thì “tùy mặt, tùy việc, tùy cơ”. Bây
giờ, nghề này càng ngày càng đa dạng, phong phú và phứt tạp hơn như “cò dự
án”, “cò visa”, “cò tòa án”,… Nhóm cò này không “bay” mà “chạy” là chính.
Hiện nay, người ta dùng một từ “văn hóa” hơn một chút là “nghề môi giới” hay
cao hơn và Tây một chút là “nghề vận động hành lang”, “lobbyist”. Đi đâu,
nhóm cò “cao cấp” cũng có danh thiếp cả xấp, sẵn sàng phân phát cho mọi
người bất kể xa lạ hay thân quen.
Chạy xe đạp ôm: Xe ôm, hay xe thồ, ở miền Nam trước kia không thiếu,
duy chỉ có xe Honda ôm hoặc gọi đúng là xe (gắn) máy ôm. Sau 1975, xăng dầu
khan hiếm, xe gắn máy trở nên xa xỉ. Người ta xoay qua hành nghề chạy xe đạp
12
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
ôm. Nghề này được người dân ở các thị xã, thành phố từ Quảng Trị đến Cà Mau
chấp nhận dù có lúc bị công an rượt đuổi, bắt bớ. Ở Ô Môn (Cần Thơ) có thêm
nghề chạy xe ba gát chở người kèm chở hàng, chở heo, Thuê gì chở nấy
Dán bọc giấy: bọc sách thời đó thường làm bằng giấy báo hoặc tập vở cũ
vì bao nylon khó kiếm. Giấy được thu gom về, cắt lại theo hình vuông hoặc chữ
nhật theo nhiều kích cỡ rồi dán thành các bọc xách đựng hàng.
Dập đinh: Thời bao cấp, cây đinh cũng … khó kiếm. Có người nghĩ ra
“kế” gom các dây kẽm gai ở các hàng rào trại lính, tháo ra từng sợi, rồi đem vào
máy dập để tạo ra cây đinh 3 phân. Đóng vào tường hay gỗ cứng thì trung bình
cứ 5 cây đóng, bị cong hết … 3 cây.
Diễn chui: hay hát chui. Một số ca sĩ, nghệ sĩ phải diễn chui, ca chui vì
không được giấy phép trình diễn của bên Văn hóa - Thông tin. Họ đi diễn lưu
động về đêm ở các rạp hát, tụ điểm ca nhạc hoặc đình miễu mà nơi đó người
dân “đói” văn hóa và dễ tính. Nếu chính quyền nơi đó lơ qua cho thì cũng hát
được vài ba đêm (nhưng phải gởi cho chính quyền sở tại một hai chục vé vào
cửa miễn phí), nhưng khi có chính quyền đến đình chỉ, thì Đoàn hát “Sống
Vang” thành … “sáng dông”.
Đứng chợ trời: Nghề này “lạ”, chẳng cần có hàng quán gì cả. Chỉ đứng lơ
thơ ngoài chợ trời, hút thuốc là, uống cà phê, nói dóc nhưng mắt phải láo liên
coi ai có ghé vào chợ liền xáp lại hỏi “mua gì? bán gì?”. Tùy theo “con mồi”
(tiếng lóng trong giới này chỉ người vào chợ trời mua bán) cần gì thì sẵn sàng
“mua gì cũng bán, bán gì cũng mua”. Nghề này cần biết giá các mặt hàng khan
hiếm đang ở đâu trên thị trường chợ đen, mà thời bao cấp nhiều thứ khan hiếm
lắm. Nếu “trúng mánh”, có thể sống được vài ngày hoặc cả tuần. Nghề này ít sợ
hụt vốn vì “ngưòi mua lầm chứ người bán chẳng lầm”.
Gò tole làm ống: Tole lợp nhà loại dày 0.5 mm được đập thẳng, gò cuốn
lại và hàn thành từng đoạn ống để làm khung xe đạp, ống nước, hàng rào. Đi xe
đạp với loại sườn tole gò này thì có ngày "sườn một nơi, bánh một chỗ", nhẹ
thì … té lọi tay chân, u đầu sứt trán, còn xui xẻo nặng hơn thì Trời kêu ai nấy
dạ
13
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hàn dép mủ: Dép làm bằng mủ cao su hay nhựa khi bị đứt thì bạn có thể
thuê những người hành nghề “hàn dép” để “hàn” lại chỗ đứt. Dùng một thanh
sắt như cái vít ốc nung nóng và các mẫu nhựa vụn đủ màu, họ có thể làm “lành”
các vết đứt trên dép. Ai hành nghề khéo tay, bảo đảm không để “sẹo lồi”. Chỗ
đứt được làm liền bằng phẳng. Giá bình dân, chờ 5 phút lấy liền.
Làm dép râu: Dép râu là một sản phẩm cho bộ đội hay cán bộ miền Bắc.
Đế dép thường được làm bằng vỏ xe cũ, nhất là vỏ xe nhà binh. Quai dép làm
bằng ruột xe. Vỏ xe và ruột xe được cắt nhỏ, gọt theo dạng bàn chân, xỏ lỗ để
luồn quai bằng ruột xe. Dép râu khá chắc chắn, mang ít mòn, ít hư chỉ tội là hay
bị đen chân do ruột cao su và kiểu dáng nặng nề, xấu xí nhưng có hề gì vào cái
thời mà “ăn chắc, mặc bền” đứng ưu tiên xa hơn “ăn ngon, mặt đẹp”. Nghề này
tồn tại khá dài lúc đó.
Lãnh quà biếu: Lãnh quà (đồ) cần phải hiểu như là một công việc nuôi
sống của nhiều người có thân nhân vượt biên, định cư ở nước ngoài. Hàng
tháng, họ chờ thư báo có hàng về là mừng rỡ chạy đến các kho lưu hàng ở phi
trường hay bưu điện đề nhận quà của thân nhân gởi về, thường là quần áo, vải,
thuốc tây, thực phẩm, radio cassette, vật dụng gia đình, … để xài một ít trong
nhà, còn bao nhiêu đem bán ra chợ trời. Nghề này nuôi sống nhiều người, ngoài
người nhận hàng, còn có những người thu mua hàng quanh nơi phát đồ, các bà ở
chợ trời, nuôi sống các ông thuế vụ và cả cho người phát thư nữa. Thỉnh thoảng,
chính quyền địa phương gởi thư xin các gia đình Việt kiều “yêu nước” ủng hộ
tiền cho phường khóm mặc dầu nhiều lúc họ từng gây khó khăn những người
trong gia đình này.
Lột bố vỏ xe: Bên trong vỏ xe nhà binh GMC, xe tải, xe hơi, … là các lớp
sợi dây bố gai rất chắc để tăng sức chịu căng của cao su làm vỏ. Thời đó có một
số người đi gom các vỏ xe lại, cắt ra từng khoanh, từng lớp mỏng rồi kiên nhẫn
dùng kềm rút dần các sợi dây bố gai ra, sau đó nối lại thành từng cuộn tròn để
bán. Dây bố gai được các người bán củi lẻ mua lại để cột củi thành từng bó nhỏ.
Vài người còn dùng dây bố gai để tếch lại thành dây thừng nhỏ.
14
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Mài ti bơm: Trong các béc bơm dầu của xe tải, các ti bơm đóng vai trò
quan trọng, ti bị mòn (do động cơ bơm hoạt động lâu ngày) thì phải thay, nếu
không xe sẽ chạy yếu và hao dầu. Thời bao cấp, các ti bơm khá mắc và khan
hiếm, thế là các thợ tiện lành nghề nghĩ ra cách thu mua các thanh chốt của các
tấm gi sắt lót ở các căn cứ sân bay trực thăng quân sự, cắt thành từng đoạn bằng
ti bơm, tiện nhỏ lại và đưa vào máy mài với bột mài cho đến khi vừa khít bằng
cái ti bơm. Nghề này phải khéo tay và biết cách dùng thước kẹp chuẩn xác. “Có
công mài sắt, có ngày nên … ti”. Nghề này còn giúp tạo thêm nghề thu mua gi
sắt, đem về bán gi và chốt gi.
Mò sông: trước kia và gần đây, đồ đạc bị rơi xuống sông coi như … cúng
Hà Bá. Có trường hợp tàu chìm nhưng chi phí thuê trục vớt mắc quá nên khổ
chủ bỏ luôn. Thời ấy, có người nảy ra ý lặn xuống đáy sông để mò hàng chìm
dưới đáy, nếu sông cạn thì chỉ cần một sợi dây buộc bên mình rồi nín thở lặn,
mò mẫm dưới đáy sông, nếu sông sâu thì phải có ống thở nối trên thuyền. Sau
này, họ “phát minh” ra loại lưới cào đáy, cào hú họa sát đáy sông, vừa bắt cá
vừa tìm phế liệu. Đôi khi, “trúng mánh” được nguyên cái máy tàu, nhưng có
trường hợp mò được cả khẩu … súng đại liên đã rỉ sét.
Nhuộm quần áo: Hà nội 36 phố phường có Phố Nhuộm. Nghề “thợ
nhuộm” đã có từ lâu ở miền Bắc, miền Nam thì hiếm hơn. Sau 1975, nghề này
có cơ hội phát lên ở miền Nam do nhiều người có nhu cầu nhuộm đen quần áo
cho… sạch hoặc chí ít cũng “đỡ thấy dơ” hơn, tiện cho công việc lao động, hoặc
có người đi nhuộm đồ trắng hay màu thành đen để … che mắt người khác như
thể tôi đây cũng thuộc nhóm … người lao động (?!). Đồ được đem đi nhuộm
nhiều nhất là áo quần quân đội, thôi thì đủ thứ binh chủng, từ áo quần kaki vàng
của sĩ quan, đến đồ xanh, đồ rằn ri lính trận, đồ trắng cảnh sát,… đều được biến
thành màu đen tuốt luốt. Quý bà thì chuộng nhuộm đen áo bà ba, quần tây. Thời
kỳ đầu, mỗi đợt "lao động nghĩa vụ", mọi người giống như một đoàn quân đồng
phục đen.
Nuôi heo: nuôi heo vốn là một nghề nông nghiệp ở nhiều quốc gia trên thế
giới nhưng trong thời bao cấp ở thành phố, nơi khu dân cư đông đúc như chung
15
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
cư, nhà tập thể, khu phố, nhiều người xem “nuôi heo” là một nghề phụ nhưng
“thu nhập” chính. Họ có thể là công nhân viên, thầy cô giáo, y tá, y sĩ, bộ đội,
… Hình ảnh thấy rất điển hình là chiều chiều về trên chiếc xe đạp, nhiều công
nhân viên có đèo thêm bó rau muống to tướng hoặc bao cám. Lắm người khi
đau ốm không dám uống thuốc nhưng heo bệnh thì quýnh quáng tìm thuốc trị
ngay. Nghề này kéo theo các nghề thiến heo, chích thuốc heo dạo, đỡ đẻ heo và
nghề thu mua heo … lậu. Dù chuyện nuôi heo gây nhiều ô nhiễm, khó chịu
nhưng ai cũng rán nín thở, chịu đựng mà … thông cảm.
Phân kim: Muốn hành nghề “phân kim” phải học bài bản một chút. Nghề
này nguyên là của các thợ bạc, ngoài chuyên gia công chế tác nữ trang. Sau
1975, đôi người nhảy vào, thu mua đồ xưa, bạc cũ, hàng mỹ nghệ mạ vàng, răng
vàng, gọng kiếng vàng, đồng hồ vàng, phim phổi,… đem phân kim để lấy chút
bụi vàng, bụi bạc rồi đánh thành các khâu, chỉ. Nghề này ít ai giàu lên nhưng
sống “được” lúc đó.
Quấn thuốc lá: Nghề này “phục vụ” cho dân nghiện thuốc hút mà ít tiền.
Chỉ với một bàn quấn nhỏ bằng gỗ chỉ bằng một cuốn tự điển loại trung, giấy
thuốc, sợi thuốc thì mua trôi nổi ngoài chợ, có thể tự gia giảm thêm bớt chút ít
cho sợi thuốc. Nghề này dễ làm, sẵn mọi lúc mọi nơi, chủ yếu trong gia đình.
Chịu khó còng lưng làm chừng 8 - 10 giờ/ngày và có mối nhận mua đều đều thì
…“sống” đủ.
Quay đường: Đường ở đây là đường chảy, đường mật được ép từ các lò
đường ra. Sau đó, đường chảy được đưa vào các lò nấu đường trong các cối
đường thủ công để nấu chảy. Dùng hóa chất tẩy màu và tinh luyện theo kiểu ly
tâm ta sẽ được đường cát. Nghề này thay vì làm trong nhà máy đường lại phân
tán nhỏ ở các lò thủ công trong các hẻm. Mật đường còn sót lại thì làm “rượu
cồn”. Người làm công trong lò suốt ngày ở trần, quần đùi, mồ hội nhễ nhại vì
làm việc cật lực, nhất là ở khâu nấu đường. Lơ đễnh thì hỏng cả cối đường.
Nghề này khá cực khổ.
Rà phế liệu: Ở đây là nghề rà tìm phế liệu chiến tranh ở các khu quân sự
hay các cánh đồng đã từng có chiến sự. Tất cả những thứ còn sót lại dưới đất
16
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
như chiến cụ, quân phục, vũ khí như súng hỏng, đạn dược đến cả bom mìn cũng
không từ. Không vốn thì dùng cuốc xẻng đào bới, khá hơn thì trang bị một máy
rà kim loại tự chế. Làm nghề này phải có gan, rất liều mạng. Nhiều tai nạn thảm
thương do cuốc nhằm mìn, cưa bom, đã xảy ra.
Rang bắp: Rang bắp không phải để ăn “bắp rang” mà làm … cà phê.
Nghề này rộ lên từ sau 1975 và còn sống dài dài. Tùy nhà chế biến mà tính
chuyện trộn thêm bắp rang, xay nhuyễn vào cà phê, cộng thêm một ít hương vị,
dầu bơ cho thơm. Nhiều ông chỉ làm chuyện rang bắp, trộn cà phê bỏ mối mà có
tiền nuôi 2-3 đứa con ăn học cả nhiều năm trời. Nhiều người ngày nay uống cà
phê pha bắp rang riết rồi quen vị, uống cà phê nguyên chất lại chê chẳng ngon
vì không thấy … mùi bắp rang.
Soạn thư mướn: Nghề này có “trình độ văn hóa” hơn. Đối tượng “phục
vụ” là các cô, các bà hoặc các ông nông dân ít học. Họ viết thư giúp “gởi ra
nước ngoài” để xin tiền, xin hàng, xin bảo lãnh định cư, tâm tình để kiếm chồng
ngoại, hỏi thăm,… Người viết thư còn phụ trách luôn khâu đọc thư để tìm lời
văn để trả lời cho thích hợp. Thư viết bằng tiếng Anh, tiếng Tây, tiếng Tàu có
giá cao hơn năm ba lần thư thường viết bằng tiếng Việt. Thư gởi đi, nếu có may
mắn được phản hồi nhanh chóng, người viết thư mướn còn được “bo” lần sau.
Nhiều khi, nội dung các thư “tâm sự - tình yêu” na ná như nhau, hoặc giống y
như các câu văn cóp được trong quyển “Các bức thư tình hay nhất thế giới”.
Thử hàng: hàng hóa thời bao cấp như thuốc tây, hóa chất, mỹ phẩm, vải
vóc, máy móc như động cơ, đồng hồ đeo tay, radio,… gồm đồ thiệt, đồ giả, đồ
tân trang lẫn lộn. Tiền không có mà mua nhằm đồ giả thì … tức lộn ruột. Tốt
hơn là nhờ các tay làm nghề thử hàng. Họ khẳng định giá trị món hàng và cho
lời khuyên mua bán. Mua được, bán được xin chút huê hồng. Nghề này, bây giờ
không còn nhưng hiện diện ở dạng cao cấp với tên là "nghề thẩm định” hàng
hóa và giá cả.
Trồng xuyên tâm liên: “Xuyên tâm liên” là tên của một loại cây thuốc
Nam, vị đắng có dược tính sát trùng, chống viêm, … Thời bao cấp, “xuyên tâm
liên” là danh mục thuốc đứng hàng đầu khi được bác sĩ kê toa. Nghề trồng
17
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
xuyên tâm liên được khuyến kích và Nhà nước thu mua hết để bào chế ra viên
“Xuyên tâm liên”.
Ủ rượu lậu: Có thời, rượu đế cũng bị Nhà nước quản lý, chỉ có “rượu
quốc doanh” làm từ đường công nghiệp, uống vào rất nhức đầu. Có lão nông
tuyên bố “Đế quốc Pháp, tao chẳng sợ, đế quốc Mỹ tao cũng chẳng sợ. Tao chỉ
sợ đế … quốc doanh!”. Chiều chiều, nông dân miền Đồng bằng sông Cửu Long
mà thiếu rượu để nhậu lai rai chút đỉnh thì buồn quá. Có cầu ắt có cung. Nghề ủ
rượu lậu phát triển âm thầm. Có dạo, bị lùng bắt quá, người dân nảy ra "sáng
kiến" nấu rượu lậu trên ghe, nhất là về mùa nước nổi. Nếu bị công an, quản lý
thị trường, thuế vụ đuổi bắt, họ chỉ việc quăng tất cả đồ nghề nấu rượu xuống
sông để phi tang là xong. Ngoài ra, hèm ủ rượu còn được dùng để nuôi heo.
Ai mà hành nghề này, suốt vài năm mà không bị bắt, thì có thể cất cái nhà …
vườn được.
Vớt trùn chỉ: “Nghề” này chỉ sống được một thời, đặc biệt khi phong trào
nuôi “cá trê phi” phát triển mạnh mẽ. Một lon sữa bò, một cái vợt lưới nhỏ là
đủ. Mỗi ngày chịu khó đi dọc theo các cống rãnh, đường mương để vớt trùn chỉ,
loại trùn màu đỏ như sợi chỉ sống ở các dòng nước thải nơi thành thị, ven đô, …
Giai đoạn đó, nếu mỗi ngày vớt được chừng 2 lon sữa bò thì đủ tiền đi chợ
kiểu nhà nghèo.
Xếp hàng mua vé xe đò: Xếp hàng mua vé xe, vé hát ở các nước phát
triển không phải là chuyện lạ nhưng họ xếp hàng mua vé để chính họ đi đường,
xem nhạc, xem phim. Còn ở ta, xếp hàng mua vé để bán cho người khác. An ủi
là bên Tây đôi lúc cũng có: FIFA World Cup 2006 ở Đức cũng có mấy tay mua
vé bóng đá rồi bán cho người kiếm lời, nhưng không là một “nghề”. Thời bao
cấp, thời gian “lý tưởng” để hành nghề mua vé xe đò là phải thức dậy từ 1 - 2
giờ sáng. Thức trễ đến 5 - 6 giờ sang thì chỉ có nước … nằm nhà húp cháo.
Chuyện xếp hàng mua vé để bán “chợ đen”, ngoài chỗ hành nghề ở bến xe, bến
tàu, còn ở rạp hát, sân vận động bóng đá,… nữa. Nghề này còn tồn tại đến ngày
nay ở các thành phố lớn.
18
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Xe chạy bằng than đá: Thời nhiên liệu, xăng dầu khan hiếm, giới xe đò
có sáng kiến "cải tiến" (hay "cải lùi"?) xe chạy dầu, xăng thành xe chạy bằng
nhiên liệu là than. Một lò đốt than đá to đùng được gắn sau xe, dùng nhiệt năng
của than đá bị đốt thành động năng cho xe chạy. Trên đường đi loại xe này,
thỉnh thoảng một cục than cháy dở rơi xuống đường đỏ lòm là chuyện bình
thường. Ai chạy xe cán nhầm cục than này hay đi đạp nhầm coi như là gặp xui.
Phàn nàn với ai bấy giờ?
1.2.3. Tình hình kinh tế
Tình trạng tranh mua, tranh bán làm cho giá của hàng hoá bị đẩy lên cao, Chi
ngân sách nhà nước cho tiền lương tăng vọt, nhưng thu ngân sách lại không tăng
bao nhiêu do giá vật tư không tăng bằng mức Ban Chỉ đạo đề nghị. Lạm phát
bùng nổ. Tiền phát hành nhiều mà vẫn không đủ. Lương công nhân không có.
Vật tư, hàng hóa khan hiếm. Giá bán lương thực dù tăng 10 lần vẫn không đủ bù
đắp chi phí. Sản xuất nông nghiệp sa sút. Đầu tư trong công nghiệp giảm. Chỉ số
giá bán lẻ của thị trường xã hội năm 1986 tăng 587,2% so với năm 1985. Do
đồng tiền mất giá, người ta quay sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng
vọt, còn nhanh hơn cả tăng giá hàng hóa. Tình trạng khan hiếm hàng hóa khiến
cuộc sống chật vật không những về số lượng mà cả về phẩm chất của nhiều mặt
hàng.
Cơ chế xin cho: Người cho có thể cho ít, có thể cho nhiều và cũng có thể không
cho. Bên xin thì phải phụ thuộc vào bên cho và không thể tự quyết, tự tìm ra
giải pháp để đáp ứng nhu cầu của mình mà phải trông chờ vào bên cho. Nhiều
thủ tục hành chính rườm rà hành dân để thể hiện quyền lực nhà nước. Không
dựa trên sự cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân trong xã hội trong
việc tiếp cận những dịch vụ nhà nước cung cấp; không dựa trên những tiêu chí,
biểu mẫu và quy trình cụ thể có thể theo dõi được để những cá nhân, tổ chức xã
hội có nhu cầu có thể đăng ký với cơ quan để thực hiện quyền của mình.
Giữa cơ quan hành chính - trực tiếp tham gia vào quá trình lên chỉ tiêu kế hoạch
và các doanh nghiệp - thưc hiện chỉ tiêu , thì lại không có bất kỳ sự ràng buộc
19
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
pháp lý nào với hành động của mình tức là dù có làm sai đi chăng nữa thì họ
cũng không có vấn đề gì cả vì vậy mà không có lý do nào khiến họ thực hiện kế
hoạch một cách tối ưu nhất. Mà vấn đề cả hai bên quan tâm đó là chạy theo và
chạy đua với với chỉ tiêu được ấn từ trên xuống, làm thế nào cho thật đẹp sổ
sách báo cáo, và cuối cùng là nhận được tấm bằng khen vì đã hoàn thành xuất
sắc chỉ tiêu đề ra. Khi mà chỉ tiêu không được hoàn thành đồng nghĩa với việc
số phận chính trị của ban lãnh đạo doanh nghiệp, đồng lương của cán bộ công
nhân viên, và thành tích của doanh nghiệp cũng bị đe dọa theo.
Ở giai đoạn bao cấp chỉ coi trọng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Từ
đó hạn chế sự phát triển và đóng góp vào nền kinh tế của các thành phần kinh tế
khác. Ở giai đoạn này không có khái niệm cạnh tranh. Do đó không khuyến
khích doanh nghiệp tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã, phát triển mặt
hàng mới một cách thực sự.
1.2.4. Cải cách giá – lương – tiền
Cải cách giá - lương - tiền hoặc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền là cuộc
cải cách kinh tế tại Việt Nam vào năm 1985 nhằm xóa bỏ cơ chế tập trung quan
liêu - bao cấp, chuyển hẳn nền kinh tế sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, được thực hiện theo Nghị quyết Trung ương 8, khóa V, Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nhưng khi áp dụng thì cuộc cải cách này đã đưa nền kinh tế Việt
Nam vào tình trạng hỗn loạn. Tháng 8 năm 1985, phương án cải cách được đưa
ra như sau.
- Về giá, phải tính toán đầy đủ giá các mặt hàng Nhà nước cung cấp và giá các
mặt hàng Nhà nước mua của nông dân, thợ thủ công theo giá sát với chi phí sản
xuất. Để tiện cho tính toán, các mức giá trên được quy ra thóc. Còn giá thóc
được xác định bình quân là 25 đồng/kg, dựa trên tính toán thực tế của các
chuyên gia. Các địa phương khác nhau thì mức giá thóc quy đổi này có thể cao
hoặc thấp hơn. Nhà nước ban hành mức giá mới của một số vật tư, như xăng,
20
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
dầu, xi măng, sắt, theo đó giá sắt 6 tăng 11,5 lần so với mức giá cũ, giá xi măng
tăng 12,5 lần.
- Về lương, Ban chỉ đạo đề nghị tăng lương thêm 20%.
- Về tiền, để đáp ứng giá mới và lương mới, phải in thêm tiền, để tổng tiền trong
lưu thống là 120 tỷ đồng. Nhưng thời điểm đó, Việt Nam không tự in được tiền
mà phải nhờ nước ngoài in. In nhiều tiền sẽ tốn thời gian. Vì lẽ đó, để in ít tiền
mà vẫn có sức mua lớn, Ban chỉ đạo đưa ra chủ trương đổi tiền. Một đồng mới
sẽ đổi lấy 10 đồng hiện hành. Như vậy 12 tỷ đồng in mới và đem đổi sẽ tương
đương 120 tỷ đồng hiện hành.
Cuộc cải cách Giá - lương - tiền được đề ra theo Nghị quyết Trung ương 8,
khóa V vào tháng 6 năm 1985. Giá - lương - tiền bắt đầu được thi hành từ quyết
định tháng Chín năm 1985, để củng cố mãi lực của đơn vị tiền tệ Việt Nam.
Đây cũng là động lực đưa tới vụ đổi tiền năm 1985 với hối xuất 1 đồng mới ăn
1 đồng, 2 đồng, 6, đồng, 9 đồng hoặc 10 đồng cũ tùy theo thời gian ký thác tiền
trong trương mục tiết kiệm. Chủ ý việc đổi tiền là để giảm lượng tiền lưu hành
và như thế tăng giá trị của tiền nhưng cũng có những hậu quả tai hại trầm trọng
là cơn khủng hoảng kinh tế sau đó. Nhà chức trách đã suy luận sai lầm rằng
bằng cách đổi tiền với hối xuất trên, giá trị của đồng tiền sẽ tăng gấp 10 lần.
21
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hnh 1: Tỉ lệ lạm phát Việt Nam giai đoạn 1980 - 2010
Mỗi gia đình chỉ được phép đổi lấy 2000 đồng tiền mới. Số tiền vượt con
số quy định thì phải nộp vào trương mục ngân hàng đợi nhà chức trách xét
sau. Quyết định này cũng xóa sổ vốn tích trữ của nhiều người. Hơn nữa hành
động này gây ra cảnh khan hiếm tiền. Có những vụ cơ quan phải trả lương bằng
chính loại hàng sản xuất vì không có tiền trả cho nhân công: người làm mũ thì
được phát mũ thay tiền lương. Để trả lương, nhà nước lại phải in thêm tiền với
khối lượng 1,38 lần so với trước nên hậu quả là vật giá lại tăng mạnh. Sang năm
1986 thì mức lạm phát lên đến 774,7% làm kiệt quệ kinh tế. Riêng các nông
sản, so sánh vật giá năm 1986 với năm 1976 thì tăng 2000%.
Để cung ứng nhu yếu phẩm với giá thấp hơn, nhà nước phải mở rộng
chương trình tem phiếu nhưng vẫn không đủ nên phải hạn chế theo từng ngạch
của đối tượng (công nhân hay học sinh, công chức hay bộ đội, v.v.). Mỗi hạng
được phép mua sáu loại hàng với một số lượng ở giá nhất định gồm có gạo,thịt
lợn, nước mắm, đường, chất đốt (than, củi, dầu) và xà phòng giặt.
Áp dụng quy chế này cũng buộc nhà nước thu mua hàng hóa từ giới sản
xuất ở giá thật thấp, gây phản cảm khiến người sản xuất muốn bán giá cao hơn
phải bán bán ra chợ đen, làm thất thoát thêm số lượng hàng ít ỏi. Nhà nông theo
22
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
quy định chỉ được giữ 60% sản lượng còn 40% phải bán cho nhà nước với giá
rẻ theo dạng "thu mua". Vì nhà nước mua ở giá quá rẻ, có khi là dưới giá thành
nên dân gian có câu là "mua như cướp".Ngay cả những nông phẩm căn bản
là gạo cũng thiếu hụt trầm trọng khiến dân chúng phải ăn độn bằng những thực
phẩm trước kia chỉ dùng nuôi gia súc.
Phương thức Giá - lương - tiền lúc bấy giờ chú trọng đến việc kiểm soát
lượng tiền để kềm hãm giá mặc dù lý do vật giá tăng là vì thiếu hàng hóa và sản
xuất thấp chứ không phải vì lượng tiền lưu hành. Mặt khác giá - lương - tiền cố
ấn định giá cả và hạn chế lương bổng nhưng cả ba khía cạnh đều thất bại, không
khắc phục được lạm phát.
Tuy kế hoạch cải cách giá - lương - tiền không diễn ra như kế hoạch do sự
chắp vá giữa cải cách với mô hình cũ, gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong
thời gian cuối năm 1985 và năm 1986, song chính sự khủng hoảng này đã làm
cho các cấp các ngành nhận ra rằng đã cải cách là phải cải cách triệt để. Mô
hình cũ phải bị đoạn tuyệt hoàn toàn. Trên cơ sở đó cùng với những biến
chuyển chính trị toàn cầu như việc Khối Warszawa sụp đổ,, Đại hội Đại biểu
Toàn quốc lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12 năm 1986 đã đưa ra
những chủ trương cải cách, đổi mới lịch sử
2. Quá trình đổi mới từng phần
2.1. Từ “Khoán chui”
Có thể nói, Bí thư Tỉnh uỷ Kim Ngọc được coi là người khởi xướng, là
“cha đẻ” của chủ trương “khoán hộ” – một người “có tầm nhìn trước thời cuộc”.
Vào những năm 1960, ở tỉnh Vĩnh Phúc đã có một vài hợp tác xã nông
nghiệp như Hòa Loan, Văn Quán, Tiên Hường… mạnh dạn tổ chức khoán việc
cho nhóm, từng lao động và khoán cho hộ trong từng khâu công việc. Tuy chưa
thật hoàn chỉnh nhưng đã hé ra tia sáng ở cuối đường hầm cho cách làm ăn của
hợp tác xã nông nghiệp ngày ấy.
Với nhãn quan nhạy cảm, ông Kim Ngọc đã nhìn thấy hướng đi cho hợp
tác xã qua việc thay đổi cách khoán của các hợp tác xã nói trên. Việc thường
23
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
xuyên gặp gỡ trao đổi với nông dân, cộng với khảo sát của số cán bộ trong cơ
quan được cử đến các hợp tác xã, ông Kim Ngọc rút ra được những kết luận hết
sức quan trọng. Cùng với ông, đồng chí Tôn tổ chức một tổ công tác xuống hợp
tác xã thôn Thượng, xã Tuân Chính làm thí điểm, giao khoán công việc cho
nhóm, cho lao động và cho hộ thực hiện trong vụ mùa 1966. Mặc dù có những ý
kiến trái ngược nhau nhưng cuối cùng tỉnh ủy cũng thông qua nghị quyết “Về
một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong các hợp tác xã hiện nay”.
Nghị quyết mang số 68 do ông Trần Quốc Phi, phó bí thư tỉnh ủy, trưởng
ban công tác nông thôn, ký. Sau này bà con nông dân thường gọi tắt là nghị
quyết 68 hoặc là nghị quyết khoán hộ.
Nghị quyết 68 đề ra nhiều cách khoán như: a) Khoán cho hộ làm một khâu
hoặc nhiều khâu sản xuất trong một thời gian dài. b) Khoán cho hộ các khâu dài
ngày hoặc suốt vụ. c) Khoán sản lượng cho hộ, cho nhóm. d) Khoán trắng ruộng
đất cho hộ. Hình thức khoán trắng đơn giản, dễ tính toán nên được nông dân
hưởng ứng rầm rộ và tự nó đã thành phong trào quần chúng rộng rãi trong toàn
tỉnh Vĩnh Phúc.
"Mặc dù chiến tranh ác liệt nhưng trải qua hai vụ sản xuất với hình thức
khoán mới, nền nông nghiệp Vĩnh Phúc đã có bước tiến vượt bậc. Xin dẫn ra
những con số sau đây để nhớ đến ơn người đã dám vượt lên chông gai vất vả
đem lại no ấm một thời cho bà con nông dân. Năm 1967 tuy chiến tranh ác liệt,
hạn hán kéo dài nhưng toàn tỉnh đã có hai huyện, 46 xã và 160 hợp tác xã (hơn
70% số hợp tác xã) đạt năng suất bình quân từ 5 tấn đến trên 7 tấn/ha. Trong đó
có bảy xã, 23 hợp tác xã đạt trên 6 tấn, bốn hợp tác xã đạt trên 7 tấn. Tổng sản
lượng quy thóc năm 1967 toàn tỉnh đạt 222.000 tấn, tăng hơn năm 1966 là 4.000
tấn. Tổng đàn lợn có 307.000 con, tăng 20% so với năm 1966 và 38% so với
năm 1965."
Đứng trước tình hình khó khăn đó, tháng 10-1968 Tỉnh ủy Vĩnh Phú ra
nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế và triển khai một số nhiệm vụ
lớn trong năm 1969. Mặc dù có đôi ba ý kiến phản đối gay gắt nhưng “khoán
hộ” vẫn được áp dụng ở phần đất thuộc Phú Thọ cũ. Cũng như ở tỉnh Vĩnh Phúc
24
Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
trước đây, nhờ áp dụng “khoán hộ” nên huy động được lực lượng lao động đông
đảo thay thế cho người ra mặt trận, khuyến khích mọi người hăng hái sản xuất,
năng suất lúa ngày một tăng, đời sống nông dân ngày càng được cải thiện. Để
tránh tình trạng cha chung không ai khóc, một số hợp tác xã còn mạnh dạn bán
lại những vật tư thô sơ như xe cải tiến, cày bừa, cào cải tiến, bình bơm thuốc trừ
sâu… cho hộ xã viên.
Tuy nhiên, ngay lúc đó, quan điểm này vẫn chưa được chấp nhận. Đồng
chí Kim Ngọc còn bị kiểm điểm vì đi ngượ với đường lối chủ trương của nhà
nước. Dù vậy, các hình thức “khoán chui” ở Vĩnh Phú vẫn diễn ra, chẳng bao
lâu lan sang Hợp tác xã Đoàn Xá ở Hải Phòng và sau đó lan khắp miền Bắc.
Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã từng ghi nhận công lao của Kim Ngọc:
“Nông dân ta no ấm, trước hết là nhờ ơn Đảng, ơn Bác Hồ. Nhưng trong quá
trình xây dựng đất nước thì chúng ta phải cảm ơn Kim Ngọc, một đảng viên
sáng tạo, dám chịu trách nhiệm đến cùng trước nhân dân Đất nước phải biết
ơn anh Kim Ngọc. Một người tâm huyết dám đưa ra cái mới, đến bây giờ đất
nước có phát triển là nhờ có lúa gạo mà anh Ngọc đã đi tiên phong ”
2.2. Đến “Khoán 10”, “khoán 100”
Có thể coi hội nghị TW 6 (Khóa IV) (T8/1979) với chủ trương quyết tâm
làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới tư
duy của Đảng . Tiếp đó, chỉ thị 100-CT/TW, ngày 31/1/1981 của Ban Bí Thư về
cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
trong Hợp tác xã Nông nghiệp đã tạo ra một động lực mới trong sản xuất Nông
nghiệp. Trên lĩnh vực công nghiệp, bước đầu xác định quyền tự chủ của cơ sở
trong sản xuất kinh doanh, với chủ trương “ba phần kế hoạch” theo Quyết định
25/CP ngày 21/1/1981 và Quyết định 26 cùng ngày của chính phủ về việc mổ
rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền
thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Các quyết định của Chính phủ với
những điểm mới trong quản lý CN đã góp phần làm giảm tình trạng trì trệ trong
25