Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

BÀI TIỂU LUẬN-Các giải pháp giảm thiểu hiệu ứng nhà kính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.02 KB, 25 trang )

GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới ngày càng phát triển đưa con nguời đến những tiến bộ mới về khoa học
kỹ thuật và công nghệ nhưng cũng làm con người phải đối mặt với những với
những thách thức mới.Một trong những thách thức lớn mang tính toàn cầu đó là
thách thức về môi trường.Thế giới ngày càng phát triển nhưng sự phối hợp quản lý
môi trường ở qui mô quốc tế luôn bị tụt hậu so với sự phát triển kinh tế xã
hội.Những thành quả về môi trường thu được nhờ công nghệ và những chính sách
mới đang không theo kịp nhịp độ và qui mô gia tăng dân số và phát triển kinh
tế.Thách thức về môi trường thể hiện ở:
• Hiệu ứng nhà kính đang gia tăng ;
• Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần suất thiên tai gia tăng;
• Sự suy giảm tầng ozon;
• Tài nguyên bị suy thoái ;
• Ô nhiễm môi trường đang xảy ra ở qui mô rộng và ngày càng nghiêm trọng;
• Sự gia tăng dân số mạnh mẽ ;
• Sự suy giảm tính đa dạng sinh học trên trái đất.
Trong đó hiệu ứng nhà kính là một vấn đề nóng bỏng,thực trạng cứ tiếp diễn sẽ
ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng tới tất cả các quốc gia.
Bài tiểu luận này em sẽ tìm hiểu về hiệu ứng nhà kính.Qua đó để giúp em hiểu
biết hơn về hiệu ứng nhà kính,những nguyên nhân gây nên hiệu ứng nhà kính,nó
có ảnh hưởng như thế nào đến môi trường,cuộc sống của con người và phản ứng
của thế giới cũng như Việt Nam đối với vấn đề này.
Bài tiểu luận gồm 4 phần: Phần 1: Hiệu ứng nhà kính là gì?;
Phần2: Nguyên nhân gây nên hiệu ứng nhà kính;
Phần3: Những ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính;
Phần 4: Các giải pháp giảm thiểu hiệu ứng nhà kính.
Tuy đã cố gắng nhưng chắc chắn bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót,em rất mong
được sự chỉ dẫn thêm của thầy để bài viết được hoàn thiện hơn!
1
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS


/>PHẦN 1
Hiệu ứng nhà kính là gì?
Theo một nghĩa hẹp cụ thể, hiệu ứng nhà kính là hiện tượng làm cho nhiệt độ của
không gian bên trong của một nhà trồng cây làm bằng kính tăng lên khi Mặt Trời
chiếu vào. Nhờ vào sức ấm này mà cây có thể phát triển mạnh,đâm chồi, ra hoa và
kết trái sớm hơn. Nhà kính hoạt động bằng cách hấp thu sức nóng của mặt trời.
Những tấm thủy tinh của nhà kính sẽ cho ánh sáng đi qua và giữ lại sức nóng của
chúng thoát ra. Bởi lý do đó nên nhà kính nóng lên, giống như là bên trong của
chiếc xe ô tô để dưới ánh sáng mặt trời, và giữ cho thực vật đủ ấm để sống vào
mùa đông. Hiệu ứng này đã được sử dụng từ lâu trong các nhà kính trồng
cây.Ngoài ra hiệu ứng nhà kính còn được sử dụng trong kiến trúc, dùng năng lượng
mặt trời một cách thụ động để tiết kiệm chất đốt sưởi ấm nhà ở.
Ngày nay người ta hiểu khái niệm này rộng hơn,xuất phát từ khái niệm đó để miêu
tả hiện tượng nghẽn nhiệt trong bầu khí quyển của Trái Đất được Mặt Trời chiếu
sáng là hiệu ứng nhà kính khí quyển.
2
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/> Như chúng ta đã biết,trái đất tiếp nhận năng lượng từ vũ trụ,chủ yếu là năng
lượng mặt trời.Theo tính toán,dòng năng lượng đến từ mặt trời ở tầng cao khí
quyển là 2 cal ∕cm
2
phút nhưng 30-40% bị khí quyển phản xạ vào vũ trụ,60-70% bị
khí quyển hấp thụ.Hàng năm trái đất nhận được 1,4.10
13
kcal năng lượng mặt
trời,khoảng 1-2% số lượng đó ứng với bước sóng 6700-7000 A
o
được cây xanh sử
dụng để tạo sinh khối.Trái đất trả lại vũ trụ một phần năng lượng từ mặt trời dưới
dạng bức xạ nhiệt sóng dài.Nhiệt độ bề mặt trái đất được tạo thành bởi sự cân

bằng giữa năng lượng mặt trời chiếu xuống trái đất và năng lượng bức xạ nhiệt của
mặt đất phản xạ vào khí quyển.Bức xạ mặt trời là bức xạ ngắn nên dễ dàng xuyên
qua các lớp khí CO
2
và tầng ozon rồi xuống mặt đất.Ngược lại,bức xạ nhiệt từ mặt
đất phản xạ vào khí quyển là bức xạ sóng dài,nó không có khả năng xuyên qua các
lớp khí CO
2
và lại bị các khí nhà kính hấp thụ,do đó nhiệt độ của khí quyển bao
quanh trái đất sẽ tăng lên làm tăng nhiệt độ bề mặt trái đất.Như vậy,kết quả của sự
trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa trái đất với không gian xung
quanh,dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển trái đất.Hiện tượng này diễn ra
theo cơ chế tương tự nhà kính trồng cây và được gọi là hiệu ứng nhà kính.Hiệu ứng
nhà kính được khám phá bởi nhà khoa học Joseph Fourier vào năm 1824, thí
nghiệm đầu tiên có thể tin cậy được là bởi nhà khoa học John Tyndall vào năm
1858, và bản báo cáo định lượng kĩ càng được thực hiện bởi nhà khoa học Svante
Arrhenius vào năm 1896.
Theo đánh giá của Ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu toàn cầu thì có bằng
chứng cho thấy về ảnh hưởng rất rõ rệt của hiệu ứng nhà kính đến khí hậu toàn
cầu.Các nhà khoa học cho biết rằng trong vòng 100 năm trở lại đây trái đất đã nóng
lên khoảng 0,5
o
C và trong thế kỷ này sẽ tăng từ 1,5
o
C-4,5
o
C so với nhiệt độ ở thế
kỷ XX.
3
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS

/>PHẦN 2
Tác nhân gây hiệu ứng nhà kính

Khí nhà kính là những khí có khả năng hấp thụ các bức xạ sóng dài được phản
xạ từ bề mặt trái đất khi được chiếu sáng bằng ánh sáng mặt trời, sau đó phân tán
nhiệt lại cho trái đất, gây nên hiệu ứng nhà kính. Các khí nhà kính chủ yếu bao
gồm: hơi nước, CO
2
, CH
4
, NO
x
, O
3
, các khí CFC.Khí nhà kính ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nhiệt độ của Trái Đất, nếu không có chúng nhiệt độ bề mặt Trái Đất trung bình
sẽ lạnh hơn hiện tại khoảng 30
o
C.
Sự nóng lên toàn cầu đã được khẳng định là chủ yếu do hoạt động của con
người:
* Sử dụng năng lượng:
- Do sử dụng năng lượng như than đá dầu hoả, khí đốt ở các nhà máy điện, lọc
dầu…Nguồn thải này phát ra khí CO
2
,CH
4
, O
3


* Giao thông vận tải:
- Các phương tiện giao thông thải ra các khí CO
2
, NO
x
, N
2
O, CFC.
- Khoảng 20% CO
2
toàn cầu sinh ra từ khí thải giao thông vận tải.
- NO
x
do giao thông vận tải phát ra chiếm 2/3 khí thải NO
x
toàn cầu.
* Sự phá rừng: phát ra khí CO
2
và các khí khác là N
2
O và CO.
*Hoạt động công nghiệp:
- Thải ra các khí CFCs, trong công nghiệp làm lạnh do nó là tác nhân làm lạnh cho
tủ lạnh, chất tạo xốp cho sản xuất đệm, chất trong các bình xịt.
-Thải ra các khí CO
2
trong quá trình sản xuất vật liệu xây dựng, quá trình luyện
4
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>kim, đốt nhiên liệu.

*Hoạt động nông nghiệp và các nguồn thải khác: thải ra các khí như CH
4
, NO
2
,
CO
2…
Theo tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc (FAO) thì ngành chăn nuôi tạo ra
nhiều khí thải gây hiệu ứng nhà kính hơn ngành vận tải. Gia súc cũng là một trong
những tác nhân chính gây thoái hóa đất nông nghiệp và làm ô nhiễm nguồn nước.
Báo cáo của FAO ghi rõ: "Nếu quy đổi ra khí CO
2
, ngành chăn nuôi tạo ra lượng
khí gây hiệu ứng nhà kính nhiều hơn tất cả những xe ôtô cộng lại;Nếu tính theo khí
CO
2
, lượng khí gây hiệu ứng nhà kính mà gia súc trên toàn thế giới thải ra chiếm
tới 18% tổng lượng khí thải;Nếu tính cả những khí thải do việc sử dụng đất gây ra,
gia súc trên hành tinh phải chịu trách nhiệm về 9% lượng khí CO
2
toàn cầu, nhưng
tỷ lệ các loại khí thải khác mà chúng tạo ra còn lớn hơn nhiều".Cụ thể, gia súc tạo
ra 65% lượng đinitơ oxit N
2
O. Đây là loại khí có khả năng hấp thụ năng lượng mặt
trời cao gấp 296 lần so với CO
2
và phần lớn được tạo ra từ phân động vật. Động
vật nuôi cũng thải ra khoảng 37% lượng khí methane CH
4

- có khả năng giữ nhiệt
cao gấp 23 lần CO
2
- và 64% khí amoniac NH
3
, thủ phạm chính của những trận
mưa axit.Nhu cầu sữa và thịt ngày càng cao là nhân tố chính dẫn đến tình trạng
trên. Năm 2001, loài người tiêu thụ 229 triệu tấn thịt. Nhưng tới năm 2050, theo dự
đoán của FAO, con số này sẽ tăng gấp đôi, đạt 465 triệu tấn. Lượng sữa tiêu thụ
cũng sẽ tăng từ 580 triệu tấn lên 1.043 triệu tấn trong cùng thời kỳ.
Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng
ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch (than,
dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu
ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất.
5
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>
Những số liệu về hàm lượng khí CO
2
trong khí quyển được xác định từ các lõi
băng được khoan ở Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và
tan băng (khoảng 18.000 năm trước), hàm lượng khí CO
2
trong khí quyển chỉ
khoảng 180 -200ppm (phần triệu), nghĩa là chỉ bằng khoảng 70% so với thời kỳ
tiền công nghiệp (280ppm). Từ khoảng năm 1.800, hàm lượng khí CO
2
bắt đầu
tăng lên, vượt con số 300ppm và đạt 379ppm vào năm 2005, nghĩa là tăng khoảng
31% so với thời kỳ tiền công nghiệp, vượt xa mức khí CO

2
tự nhiên trong khoảng
650 nghìn năm qua.Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí mêtan (CH
4
), ôxit
nitơ (N
2
O) cũng tăng lần lượt từ 715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền
công nghiệp lên 1774ppb (151%) và 319ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các chất
khí chlorofluoro carbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng lên
toàn cầu lớn gấp nhiều lần khí CO
2
, vừa là chất phá hủy tầng ôzôn bình lưu, chỉ
mới có trong khí quyển do con người sản xuất ra kể từ khi công nghiệp làm lạnh,
hóa mỹ phẩm phát triển.Từ năm 1840 đến 2004, tổng lượng phát thải khí CO
2
của
các nước giàu chiếm tới 70% tổng lượng phát thải khí CO
2
toàn cầu, trong đó ở
Hoa Kỳ và Anh trung bình mỗi người dân phát thải 1.100 tấn, gấp khoảng 17 lần ở
Trung Quốc và 48 lần ở Ấn Độ.
Riêng năm 2004, lượng phát thải khí CO
2
của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng khoảng
20% tổng lượng phát thải khí CO
2
toàn cầu. Trung Quốc là nước phát thải lớn thứ
2 với 5 tỷ tấn CO
2

, tiếp theo là Liên bang Nga 1,5 tỷ tấn, Ấn Độ 1,3 tỷ tấn, Nhật
Bản 1,2 tỷ tấn, CHLB Đức 800 triệu tấn, Canada 600 triệu tấn, Vương quốc Anh
580 triệu tấn. Các nước đang phát triển phát thải tổng cộng 12 tỷ tấn CO
2
, chiếm
42% tổng lượng phát thải toàn cầu so với 7 tỷ tấn năm 1990 (29% tổng lượng phát
6
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>thải toàn cầu), cho thấy tốc độ phát thải khí CO
2
của các nước này tăng khá nhanh
trong khoảng 15 năm qua. Một số nước phát triển dựa vào đó để yêu cầu các nước
đang phát triển cũng phải cam kết theo Công ước Biến đổi khí hậu.

Nồng độ CO
2
trong khí quyển, đo tại Maunaloa Sự thải khí CO
2
toàn cầu từ năm1751đến năm 2004
Năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO
2
. Năm 2004, phát thải 98,6
triệu tấn CO
2
, tăng gần 5 lần, bình quân đầu người 1,2 tấn/năm (trung bình của thế
giới là 4,5 tấn/năm, Singapo 12,4 tấn, Malaysia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, Trung
Quốc 3,8 tấn, Inđônêxia 1,7 tấn, Philippin 1,0 tấn, Myanma 0,2 tấn, Lào 0,2 tấn).
Như vậy, phát thải các khí CO
2
của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15 năm qua,

song vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong khu vực. Dự
tính tổng lượng phát thải các khí nhà kính của Việt Nam sẽ đạt 233,3 triệu tấn CO
2

tương đương vào năm 2020, tăng 93% so với năm 1998.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi các nước giàu chỉ chiếm 15% dân số thế
giới, nhưng tổng lượng phát thải của họ chiếm 45% tổng lượng phát thải toàn cầu;
các nước châu Phi và cận Sahara với 11% dân số thế giới chỉ phát thải 2%, và các
nước kém phát triển với 1/3 dân số thế giới chỉ phát thải 7% tổng lượng phát thải
toàn cầu.Đó là điều mà các nước đang phát triển nêu ra về bình đẳng và nhân
quyền tại các cuộc thương lượng về Công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto.
Vào thời điểm năm 2004, khí quyển Trái Đất chứa khoảng 0,038% theo thể tích
(380 µL/L hay ppmv) hoặc 0,053% theo trọng lượng là CO
2
. Nó tương đương với
2,7 × 10
12
tấn CO
2
.Mặc dù nồng độ thấp nhưng CO
2
trong khí quyển Trái Đất,nó
hấp thụ bức xạ hồng ngoại và làm tăng hiệu ứng nhà kính.Điôxít cacbon nguyên
thủy trong khí quyển của Trái Đất được tạo ra trong hoạt động của các núi lửa; nó
có vai trò chủ yếu để làm ấm và ổn định khí hậu dẫn đến sự sống.
7
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/> Hoạt động núi lửa ngày nay giải phóng khoảng 130-230 triệu tấn điôxít cacbon
mỗi năm. Lượng khí này xấp xỉ 1% lượng điôxít cacbon do các hoạt động của con
người tạo ra. Từ đầu thời kỳ cách mạng công nghiệp,nồng độ CO

2
trong khí quyển
đã tăng khoảng 110 µL/L hay khoảng 40%, phần lớn trong số này được giải phóng
từ năm 1945 đến nay.Theo các nghiên cứu, chỉ ra sự tăng từ 316 µL/L từ năm 1958
tới 376 µL/L năm 2003, tổng thể tăng 60 µL/L trong lịch sử 44 năm đo đạc.
Các nhiên liệu hóa thạch như than và dầu mỏ bị đốt là nguyên nhân chính trong
sự gia tăng của CO
2
do con người tạo ra; Đánh giá khoa học của Ban liên chính
phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) cho thấy, việc tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên
liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận
tải, xây dựng… đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá
rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9% các ngành
sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các hoạt động
khác.Sự tàn phá rừng là nguyên nhân thứ hai. Ví dụ:Năm 1997, các đám cháy than
bùn ở Indonesia giải phóng khoảng 13%–40% lượng điôxít cacbon do nhiên liệu
hóa thạch tạo ra các đám cháy than bùn.
Mêtan là thành phần chính của khí tự nhiên, khí dầu mỏ, khí bùn ao, đầm lầy. Nó
được tạo ra trong quá trình chế biến dầu mỏ, chưng cất khí than đá,hoạt động nông
nghiệp Mật độ của nó đã tăng khoảng 150% từ năm 1750 và đến năm 1998, mật
độ trung bình của nó trên bề mặt Trái Đất là 1745 ppb. Mật độ ở bán cầu Bắc cao
hơn vì ở đó có nhiều nguồn mêtan hơn (cả thiên nhiên lẫn nhân tạo). Mật độ của
mêtan thay đổi theo mùa, thấp nhất vào cuối mùa hè.Mêtan trong khí quyển là một
khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh trung bình cứ 100 năm mỗi kg mêtan làm ấm Trái
Đất gấp 23 lần 1 kg CO2.
Ở áp suất lớn, ví dụ như ở dưới đáy đại dương, mêtan tạo ra một dạng sàng rắn
với nước, được gọi là mêtan hydrat. Một số lượng chưa xác định nhưng có lẽ là rất
nhiều mêtan bị giữ lại dưới dạng này ở đáy biển. Sự giải phóng đột ngột của một
thể tích lớn mêtan từ những nơi đó vào khí quyển là một giả thuyết về nguyên nhân
dẫn tới những hiện tượng Trái Đất nóng lên trong quá khứ xa, đỉnh cao là khoảng

55 triệu năm trước.
Một tổ chức đã ước tính trữ lượng quặng mêtan hydrat dưới đáy đại dương vào
khoảng 10 triệu triệu tấn. Giả thuyết rằng nếu Trái Đất nóng lên đến một nhiệt độ
nhất định, toàn bộ lượng mêtan này có thể một lần nữa bị giải phóng đột ngột vào
8
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>khí quyển, khuếch đại hiệu ứng nhà kính lên nhiều lần và làm Trái Đất nóng lên
đến mức chưa từng thấy.
CFCs: Gồm CFC-11 (CCl
3
F), CFC-12 (CCl
2
F
2
), CFC-113 (C
2
Cl
3
F
3
),CFC-115
(C
2
ClF
5
)…Trong các khí CFC trên thì CFC-11 và CFC-12 là khí có nồng độ lớn
nhất trong khí quyển đóng góp vào hiệu ứng nhà kính rất lớn CFC-11 là 0.280ppm,
CFC-12 là 0.484ppm. Hằng năm các khí CFC tăng 4%(năm 1992).
N
2

O: là chất khí không màu ít hoạt động hoá học nên có thời gian lưu trong tầng
đối lưu lớn,phân bố khắp trong tầng này. Hằng năm tăng khoảng 2%, có nồng độ
trung bình khoảng 0.3ppm.
Hơi nước: Mặc dù khả năng hấp thụ bức xạ hồng ngoại nhiều hơn các khí khác
nhưng do nồng độ của nó trong tầng đối lưu hầu như không thay đổi. Do đó, hơi
nước không phải là yếu tố chính gây nên hiệu ứng nhà kính.
P HẦN 3
Ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính
Phần lớn các nhà khoa học cho rằng việc tăng nồng độ các khí nhà kính do loài
người gây ra, hiệu ứng nhà kính nhân loại, sẽ làm tăng nhiệt độ trên toàn cầu (sự
nóng lên của khí hậu toàn cầu) và như vậy sẽ làm thay đổi khí hậu trong các thập
kỷ và thập niên kế đến.Một số hậu quả liên đới với việc thay đổi khí hậu do hiệu
ứng nhà kính thể gây ra:

(Sóng thần tại Nhật Bản ngày 11∕3∕2011)
9
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>1.Tác động của hiệu ứng nhà kính đến môi trường:
• Các nguồn nước: Chất lượng và số lượng của nước uống, nước tưới tiêu,
nước cho kỹ nghệ và cho các máy phát điện, và sức khỏe của các loài thủy
sản có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi sự thay đổi của các trận mưa rào
và bởi sự tăng khí bốc hơi. Mưa tăng có thể gây lụt lội thường xuyên hơn.
Khí hậu thay đổi có thể làm đầy các lòng chảo nối với sông ngòi trên thế
giới;
• Các tài nguyên bờ biển: Chỉ tại riêng Hoa Kỳ, mực nước biển dự đoán tăng
50 cm vào năm 2100, có thể làm mất đi 5.000 dặm vuông đất khô ráo và
4.000 dặm vuông đất ướt;
• Nhiệt độ tăng lên làm tăng các quá trình chuyển hóa sinh học cũng như hóa
học trong cơ thể sống, gây nên sự mất cân bằng;
• Nhiệt độ trung bình toàn cầu đến năm 2050 sẽ cao nhất trong vòng 150.000

năm gần đây;
• Trong thế kỷ XXI tốc độ thay đổi nhiệt độ trung bình toàn cầu sẽ cao nhất so
với 10.000 năm gần đây;
• Những khối băng ở Bắc cực và nam cực đang tan nhanh trong những năm
gần đây và do đó mực nước biển sẽ tăng quá cao, có thể dẫn đến nạn hồng
thủy.Một số quốc gia và các đảo nhỏ, các vùng đất thấp ven bờ sẽ bị nhấn
chìm trong nước (ví dụ Hà Lan). Những thay đổi này dự đoán có thể xẩy ra
trong thế kỷ XXII; Băng tan, lượng nước cung cấp cho các sông cũng sẽ bị
ảnh hưởng. Ở Châu Âu, 8/9 khu vực phủ băng đã bị thu hẹp trông thấy.
Trong thời kỳ 1850-1980, các dải băng trên các dãy núi ở Châu Âu đã mất
gần 1/3 diện tích và 1/2 số lượng. Ở Trung Quốc, Viện Hàn lâm khoa học
Trung Quốc cho rằng có đến 7% các sông băng trên toàn nước này bị biến
mất hằng năm, đến năm 2050, sẽ có đến 64% sông băng của Trung Quốc
biến mất. Ước tính hiện có khoảng 300 triệu dân sống ở miền tây khô cằn và
phụ thuộc vào nguồn nước từ các sông băng để duy trì cuộc sống của họ;
10
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>• Mực nước một số hồ sẽ bị giảm đáng kể do tốc độ bay hơi tăng;một số hồ sẽ
biến mất:125 hồ ở Bắc Cực đã biến mất trong vài thập kỷ qua. Điều này
càng khiến người ta tin rằng hiệu ứng nhà kính đã tác động tới hai địa cực
của Trái Đất. Các nghiên cứu chỉ ra rằng các hồ biến mất vì tầng băng vĩnh
cửu bên dưới chúng đã tan chảy. Khi lớp băng dưới hồ - vốn đã tồn tại từ
hàng triệu năm - tan chảy, nước sẽ thấm qua đất, khiến hồ cạn đi. Khi các hồ
biến mất, các hệ sinh thái phụ thuộc vào chúng cũng biến mất theo;
• Nhiều công trình biến dạng: hiệu ứng
nhà kính không chỉ làm tan chảy băng ở địa
cực, mà dường như còn làm biến mất lớp
băng vĩnh cửu bên dưới bề mặt Trái Đất.
Tình trạng này khiến cho hiện tượng co rút
của mặt đất xảy ra thường xuyên hơn, tạo ra

nhiều vết nứt và làm biến dạng nhiều
công trình cơ sở hạ tầng như đường sắt,
đường cao tốc và nhà cửa. Những tác
động của hiện tượng tan chảy lớp băng vĩnh cửu dưới lòng đất có thể gây lở
đá và sạt đất ở trên đồi, núi;
11
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>• Sự ấm lên toàn cầu sẽ xảy ra không đồng nhất cả về không gian lẫn thời
gian. Lục địa sẽ bị ấm lên mạnh hơn đại dương, đặc biệt đáng lưu ý ở các vĩ
tuyến cao ở phái bắc vào mùa đông, do đó làm giảm sự chênh lệch nhiệt độ
giữa các cực với vùng xích đạo có thể dẫn đến sự suy giảm các dòng đối lưu
của trái đất;
• Sự thay đổi thời tiết của địa phương hay khu vực, phạm vi tác động của các
cơn bão nhiệt đới và tần suất bão ở khu vực vĩ tuyến trung bình;
• Thay đổi điều kiện sống bình thường của các sinh vật trên trái đất:
Nhịp sinh học của động vật thay đổi
Hiệu ứng nhà kính khiến mùa xuân bắt đầu sớm hơn nên chim có thể sẽ không có
sâu mà bắt. Do thực vật nở hoa sớm hơn, những động vật ăn cây cỏ, dưới tác động
của nhịp sinh học, sẽ không kịp sinh con vào thời gian mà lượng thức ăn dồi dào.
Chỉ những loài điều chỉnh được nhịp sinh học để bắt nhịp với chu kỳ sinh sản của
cây cối mới có cơ hội duy trì nòi giống và truyền thông tin di truyền cho thế hệ
sau.
Động vật di cư lên đồi núi
Các nhà khoa học phát hiện ra rằng nhiều loài động vật đã di chuyển lên những
vị trí cao hơn để sinh sống, có lẽ là do những thay đổi khí hậu ở môi trường. Tiêu
biểu cho sự thay đổi vị trí sống là chuột, sóc chuột và sóc.
Những biến động khí hậu cũng đang là mối hiểm họa đối với những động vật ở
vùng cực, chẳng hạn như chim cánh cụt hay gấu Bắc Cực, trong bối cảnh băng
đang tan dần đi. Loài gấu bắc cực cần những hành lang băng biển tốt trong mùa
xuân cho sự sinh tồn nhưng trong suốt 2 thập kỷ qua, các điều kiện cho gấu trưởng

thành ở khu vực vịnh Hudson, Canada đang suy giảm kéo theo là giảm từ 15 đến
26% trọng lượng cơ thể trung bình của gấu trưởng thành và số lượng con non được
sinh ra (từ 1981-1998). Một số kiểu loại khí hậu được tiên đoán có thể làm biến
mất toàn bộ các vùng băng trong mùa hè ở khu vực Bắc cực cuối thế kỷ này. Nếu
12
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>vậy, loài gấu bắc cực chắc chắn không thể sống sót với tính cách đặc trưng của
loài.
Thực vật bùng nổ ở Bắc Cực
Tình trạng tan chảy băng ở Bắc Cực có thể gây ra vô số vấn đề với động vật và
thực vật ở vĩ độ thấp,nhưng nó lại tạo điều kiện thuận lợi cho thực vật sống ở vĩ độ
cao, ngay cả tại vùng cực. Cây cối ở Bắc Cực thường bị vùi dưới băng trong phần
lớn thời gian của năm. Ngày nay, băng tan chảy sớm hơn vào mùa xuân, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của chúng.
Một số nghiên cứu gần đây phát hiện, nồng độ của sắc tố chlorophyll - được tạo
ra trong quá trình quang hợp của thực vật - ở Bắc Cực ngày nay cao hơn nhiều so
với trước kia. Điều này cho thấy số lượng thực vật ở đây ngày càng tăng lên;
• Các kỳ quan,công trình đứng trước nguy cơ bị hủy diệt: trên khắp thế giới,
đền chùa, kỳ quan thiên nhiên, các công trình cổ - từ trước tới nay luôn
được coi là biểu tượng của sự trường tồn đang phải chịu đựng những thử
thách của thời gian. Nhưng những tác động trực tiếp của hiệu ứng nhà kính
có thể phá hủy chúng với tốc độ nhanh khủng khiếp. Sự dâng cao của mực
nước biển và sự khắc nghiệt của thời tiết có thể gây thiệt hại nghiêm trọng
đối với những địa điểm được cho là không thể thay thế. Những trận lũ đã
phá hỏng Sukhothai, một thành phố 600 tuổi và từng là kinh đô của vương
quốc Thái Lan;
• Lâm nghiệp:
13
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>Nhiệt độ cao hơn tạo điều kiện cho nạn cháy rừng dễ xảy ra hơn.Cháy rừng

xảy ra thường xuyên hơn: hiệu ứng nhà kính cũng làm tăng số vụ cháy rừng
ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là Mỹ. Các nhà khoa học cho rằng sự tăng
lên của nhiệt độ và tình trạng tan sớm của tuyết là nguyên nhân chính khiến
lửa dễ xuất hiện và lan ra các khu rừng. Mùa xuân đến sớm khiến tuyết tan
sớm, làm cho tình trạng kho hanh ở các khu rừng ngày càng trầm trọng,
khiến chúng dễ bắt lửa hơn;
• Chiều cao của các dãy núi tăng lên:
Những người leo núi có thể không để ý, nhưng dãy Alps và nhiều dãy núi khác
đã cao dần lên trong suốt một thập kỷ qua nhờ sự tan chảy của những lớp băng
trên đỉnh của chúng. Trong suốt 4.000 năm qua, sức nặng của những lớp băng
này tác động xuống bề mặt Trái Đất, khiến các dãy núi lún xuống. Khi chúng
tan chảy, sức nặng đó được dỡ bỏ, và vùng đất bên dưới đã nhô lên. Sự ấm lên
của khí hậu làm tăng tốc độ tan chảy của những lớp băng trên đỉnh, nên các dãy
núi cũng đang vươn lên với tốc độ nhanh hơn.
2. Tác động đến cuộc sống và sức khoẻ con người:
• Nhiều loại bệnh tật mới xuất hiện,dịch bệnh lan tràn.Sự thay đổi lượng mưa
và nhiệt độ có thể đẩy mạnh các bệnh truyền nhiễm;
14
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>• Là nguyên nhân chính làm tăng nạn đói và nguy cơ thiếu nước, đặc biệt ở
các nước đang phát triển.Đến năm 2080, thế giới sẽ có thêm 600 triệu người
bị suy dinh dưỡng;
• Số người chết vì nóng có thể tăng do nhiệt độ cao trong những chu kì dài
hơn trước. Rất nhiều nước đang phải chứng kiến những mùa hè nóng hơn.
Năm 2003, Pháp đã có khoảng 15.000 người chết do đợt nóng- mà đợt nóng
này đã gây nên cái chết của khoảng 35.000 trên khắp châu Âu.
3.Năm bước thụt lùi do biến đổi khí hậu gây ra (xuất phát từ hiệu ứng nhà kính):
• Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến lượng mưa, nhiệt độ và nước dùng cho
nông nghiệp;
• Đến năm 2080, sẽ có khoảng 1,8 tỉ người sống trong tình trạng khan hiếm

nước, đặc biệt là Bắc Trung Quốc, Trung Đông, Nam Mỹ và phía Bắc Nam
Á;
• Khoảng 330 triệu người sẽ mất chỗ ở tạm thời hoặc vĩnh viễn do lũ lụt nếu
nhiệt độ trái đất tăng thêm 3
o
C-4
o
C;
• Tốc độ tuyệt chủng của các loại sẽ tăng lên cùng với sự tăng nhiệt độ;
• Các căn bệnh chết người sẽ lan rộng. Có thể có thêm 400 triệu người bị
bệnh sốt rét.
Biến đổi khí hậu sẽ làm giá lương thực cao lên, số người nghèo gia tăng, người
suy dinh dưỡng ngày càng nhiều Các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội sẽ khó
lòng đạt được Ông John Hendra, điều phối viên thường trú của Liên Hiệp Quốc tại
VN, đã thẳng thắn nêu ra thực trạng tại hội thảo “Biến đổi khí hậu và phát triển con
người” do Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và môi trường, Cục Bảo vệ môi
trường, Viện Chiến lược- Chính sách tài nguyên và môi trường phối hợp tổ chức,
ngày 5-12-2007 tại TPHCM:“Nếu nhiệt độ trung bình tăng lên với mức như hiện
nay sẽ có thêm 600 triệu người ở tiểu khu vực châu Phi bị đói, hơn 300 triệu người
phải rời bỏ nhà cửa do bão lũ và có thêm 400 triệu người bị bệnh truyền nhiễm như
sốt rét, viêm màng não, sốt xuất huyết. Nói cách khác, thất bại trong việc giải
15
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>quyết vấn đề thay đổi khí hậu sẽ có hậu quả nghiêm trọng đến con người và sẽ cản
trở mọi nỗ lực giảm nghèo của chúng ta”.

Ngày 28/11∕2007 tại Hà Nội, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đã
công bố Báo cáo Phát triển con người 2007-2008 ở 100 nước trên toàn thế giới,
trong đó có Việt Nam. Với chủ đề “Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu: Đoàn kết
nhân loại trong một thế giới phân cách”, đây là dịp để thảo luận các vấn đề biến

đổi khí hậu trên phạm vi toàn cầu, khu vực và từng quốc gia, nếu nhiệt độ trái đất
tăng hơn 2°C, mực nước biển dâng 1m thì có thể làm tan biến những núi băng ở
Himalaya vốn là nguồn cung cấp nước và lương thực cho hơn hai tỷ người, các rạn
san hô ở Inđônêxiasẽ bị tan vỡ, các quốc đảo nhỏ như Phigi, Samoa và Vanuatu sẽ
bị thiệt hại hàng năm lên tới 7% GDP, một số quốc gia có thể mất đi hoàn toàn.

16
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>Việt Nam đang nóng lên
Ông Nguyễn Thành Lam, Cục Bảo vệ môi trường, cho biết tổng lượng phát thải
khí nhà kính của VN mỗi năm khoảng 120,8 triệu tấn. Khí nhà kính của VN gồm 4
loại chủ yếu:CO
2
, CH
4
, NO
2
, NO và phát thải chủ yếu do các hoạt động trong các
lĩnh vực năng lượng, công nghiệp, giao thông. Trong đó, giao thông chiếm tới 85%
khí CO
2
,công nghiệp chiếm 95% khí NO
2
Với đà phát triển như hiện nay, ông
Lam cho rằng lượng phát thải khí nhà kính của nước ta sẽ còn tăng mạnh. Theo đó
hiện tượng nóng lên của khí hậu sẽ đến sớm hơn cả dự báo. Tại TPHCM và Cần
Thơ, số liệu đo đạc cho thấy nhiệt độ đang tăng lên: từ năm 1960 đến 2005 tăng
khoảng 0,02
o
C từ năm 1991 đến 2005 tăng lên khoảng 0,033

o
C. Riêng tại TP Vũng
Tàu, từ năm 1960 đến nay đã tăng lên 2
o
C. Điều đó không chỉ thể hiện sự ấm lên
về nhiệt độ mà sẽ kéo theo nhiều thứ như nước biển dâng, hiện tượng khí hậu cực
đoan và thiên tai bão, lụt, hạn hán tăng nhanh Theo đà tăng nhiệt độ trên toàn thế
giới, từ năm 1920 đến nay nhiệt độ tại VN cũng tăng lên từ 0,2
o
C đến 1
o
C nhưng
tăng nhanh chủ yếu là từ năm 1980 đến nay.Nhưng điều mà nhiều nhà khoa học
thế giới như ông John Hendra nhận định là “VN chịu nhiều tác động khí hậu hơn
so với lượng CO
2
thải ra”.

Thiên tai gia tăng
17
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/> Biến đổi khí hậu tại VN ảnh hưởng lên đời sống của người dân ngày càng rõ
ràng. Nếu nhiệt độ trái đất tăng hơn 2°C, mực nước biển dâng 1m thì 22 triệu người
phải di dời, khoảng 1/5 dân số sẽ mất nhà và 45% diện tích đất nông nghiệp ở
Đồng bằng sông Cửu Long bị phá hủy, Việt Nam sẽ mất hơn 12% diện tích đất
trồng. Việt Nam sẽ là quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương.Khảo sát của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn
và môi trường cho biết, tại Bến Tre, mực nước biển đã dâng lên khoảng 20 cm so
với cách đây 10 năm, hiện tượng thời tiết cực đoan xuất hiện ngày càng nhiều.
“Trước đây vùng này không hề có bão nhưng năm 2007 đã có bão ”. Do biến đổi

khí hậu, ô nhiễm mặn đã tăng lên khoảng 20% so với trước đó 10 năm. Tại Thừa
Thiên - Huế, thay đổi khí hậu còn đậm nét hơn, cường độ mưa tăng rõ rệt. Từ năm
1952 đến 2005 đã có 32 cơn bão ảnh hưởng trực tiếp và lũ lụt thường xuyên hơn
nửa đầu thế kỷ trước. Không những thế, mực nước biển và đỉnh lũ lần sau luôn cao
hơn lần trước. Chỉ riêng năm 1999, mực nước biển tháng 11 đã lên đến mức cao
nhất so với trước đây.
Ông Christophe Bahuet, Phó đại diện Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc
(UNDP) tại VN, khẳng định: “Thay đổi khí hậu làm gia tăng thiên tai ở nhiều vùng
miền của VN. Điều này được thể hiện rõ qua hiện tượng bão lụt xảy ra liên tiếp tại
khu vực duyên hải miền Trung VN những năm gần đây”.
Phát biểu tại lễ công bố Báo cáo ở Hà Nội ngày 28∕11∕2007, ông John Hendra,
điều phối viên thường trú Liên Hiệp Quốc (LHQ) tại Việt Nam, nói: “Chúng ta đã
thấy rõ hệ quả của việc tăng nhiệt độ ở Việt Nam. Bão lụt ngày càng diễn biến
phức tạp, triều cường đang đạt mức đỉnh trong vòng 50 năm qua, gây thiệt hại
18
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>nhiều tại các tỉnh duyên hải và Nam bộ. Việt Nam là một nước dễ bị ảnh hưởng bởi
sự biến đổi khí hậu vì có 1 bờ biển dài ”.
Những cảnh báo đáng lo ngại
Báo cáo phát triển con người 2007/2008 của ông Christophe Bahuet cảnh báo
rằng nếu nhiệt độ vẫn tiếp tục tăng lên theo xu hướng như hiện nay, các quốc đảo
nhỏ và các nước đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi mực nước biển
dâng lên khoảng 1 m, VN sẽ có khoảng 22 triệu người bị mất nhà cửa,vùng trũng
Ai Cập có khoảng 6 triệu người mất nhà cửa và 4.500 km
2
đất ngập lụt,ở
Bangladesh có khoảng 18% diện tích đất ngập úng, tác động tới 11% dân số Tuy
nhiên, ông Christophe Bahuet cũng cho rằng không chỉ những nước đang phát triển
ảnh hưởng mà những nước đã phát triển cũng không tránh khỏi thảm họa biến đổi
khí hậu. Trước mắt, băng tan sẽ đe dọa hơn 40% dân số toàn thế giới. Mặt khác,

biến đổi khí hậu sẽ làm cho năng suất nông nghiệp giảm, thời tiết cực đoan tăng,
thiếu nước ngọt trầm trọng trên toàn thế giới, hệ sinh thái tan vỡ và bệnh tật gia
tăng Những nước như VN, Bangladesh, Ai Cập sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Nguy cơ bão lụt, thiên tai sẽ làm cho những nước này rất khó khăn để phát triển
kinh tế, đẩy lùi đói nghèo.
PHẦN 4
Các nỗ lực hiện tại để giảm trừ Hiệu ứng nhà kính nhân loại
19
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>• Nghị định thư Kyoto:
Một trong những cố gắng đầu tiên của nhân loại để giảm mức độ ấm dần do khí
thải là việc các quốc gia đã tham gia bàn thảo và tìm cách kí kết một hiệp ước có
tên là Nghị định thư Kyoto.Nghị định thư kyoto là một nghị định liên quan đến
Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu (Framework Convention on
Climate Change) mang tầm quốc tế của Liên hiệp quốc với mục tiêu cắt giảm
lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo được kí kết vào ngày 11 tháng
12 năm 1997 tại Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba (3rd Conference of the
Parties) khi các bên tham gia nhóm họp tại Kyoto, và chính thức có hiệu lực vào
ngày 16 tháng 2 năm 2005.Kể từ tháng 11/2007 đã có khoảng 175 nước kí kết
tham gia chương trình này. Trong đó có khoảng 36 nước phát triển (với liên minh
Châu Âu được tính là một) được yêu cầu phải có hành động giảm thiểu khí thải
nhà kính mà họ đã cam kết cụ thể trong nghị trình (lượng khí này chiếm hơn 61.6%
của lượng khí của nhóm nước cần cắt giảm). Nghị định thư cũng được khoảng 137
nước đang phát triển tham gia kí kết trong đó gồm Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ
nhưng không chịu ràng buột xa hơn các vấn đề theo dõi diễn biến và báo cáo
thường niên về vấn đề khí thải.
Trong đó những quốc gia tham gia kí kết phải chấp nhận việc cắt giảm khí CO
2

và năm loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác, hoặc có thể tiến hành biện pháp thay

thế như Emission trading nếu không muốn đáp ứng yêu cầu đó.Nghị định thư đại
diện cho sự thống nhất giữa các quốc gia công nghiệp trong vấn đề cắt giảm khí
thải trên 5.2% so với năm 1990 (lưu ý rằng mức độ cắt giảm theo đó đến năm 2010
20
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>phải đạt được thì chỉ tiêu này là khoảng 29%). Mục tiêu hướng đến việc giảm thiểu
các loại khí carbon dioxide, methane, nitơ ôxít, lưu huỳnh hexafluorua,
clorofluorocarbon và perflourocarbon trong khoảng thời gian 2008-2021. Mức trần
đã được qui định cho các nước tham gia cụ thể là 8% mức cắt giảm cho Liên minh
Châu Âu và 7% cho Hoa Kỳ, 6% với Nhật Bản, 0% với Nga trong khi mức hạn
ngạch cho phép tăng của Úc là 8%, và 10% cho Iceland .
Nghị định thư Kyoto được mong đợi sẽ là một thành công trong vấn đề cắt giảm khí gây hiệu
ứng nhà kính
Nghị định thư giờ đây có hiệu lực với hơn 170 quốc gia, chiếm khoảng 60% các
nước liên quan đến vấn đề khí thải nhà kính. Tính đến tháng 12 năm 2007, Hoa Kỳ
và Kazakhstan là hai nước duy nhất không tiến hành các biện pháp cắt giảm dù có
tham gia kí kết nghị định thư. Hiệu lực của bản hiện tại sẽ hết vào năm 2012, để
vun đắp thành công cho nghị trình hiện tại, nhiều hội nghị quốc tế với sự tham gia
của các bên liên quan đã được tiến hành từ tháng 5/2007 .Tuy nhiên, về phía nội bộ
nước Mỹ và các nước tiên tiến khác, nhiều nỗ lực để giảm khí độc mà chủ yếu thải
ra từ xe máy nổ và các nhà máy kỹ nghệ đã được áp dụng khá mạnh mẽ. Ở Hoa
Kỳ, hầu hết các tiểu bang đều có luật bắt buộc các phương tiện giao thông dùng
động cơ nổ phải có giấy chứng nhận qua được các thử nghiệm định kì về việc đạt
tiêu chuẩn nhả khói của hệ thống xe ;

• Giải pháp mới:
21
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/> Trong tháng 3∕2011 tại Copenhagen, thủ đô của Đan Mạch sẽ diễn ra Hội nghị
toàn cầu chống biến đổi khí hậu với sự tham gia của hơn 100 nguyên thủ quốc gia

và người đứng đầu chính phủ các nước. Mục tiêu của Hội nghị là tìm được một
thoả thuận thay thế cho Nghị định thư Kyoto sẽ hết hiệu lực vào năm 2012, để hạn
chế lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính làm trái đất nóng lên. Trong số các loại
khí gây hiệu ứng nhà kính, CO
2
là thủ phạm chủ yếu.

Để hạn chế thải CO
2
, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều đề xuất như hạn chế sử
dụng nguồn năng lượng hoá thạch như than đá, dầu mỏ, khí đốt… hay việc cất giữ
khí CO
2
không cho chúng bày vào bầu khí quyển.

Các nhà khoa học đã đưa ra một ý tưởng, có thể sẽ là một giải pháp cho vấn đề
trong tương lai là thay vì cứ thả các đám mây đen CO
2
lên bầu khí quyển, người ta
thu nó lại và đem “hạ thổ”. Công nghệ trên có thể được triển khai trên quy mô
công nghiệp vào năm 2020. Denis Clodic, chuyên gia về các vấn đề năng lượng
thuộc trường Đại học Mỏ Paris cho biết: “Hướng nghiên cứu này đang được đầu tư
rất nhiều tiền nên công việc có thể tiến triển rất nhanh. Hiện nay, chúng ta đang ở
giữa một cuộc đua công nghệ”.

Trên thế giới hiện nay có bốn khu công nghiệp đang vận hành kiểu công nghệ
này - hai khu ở Biển Bắc, một khu ở Algeria và một khu nữa ở Canađa. Từ mười
năm qua, ở ngoài khơi biển Na Uy, công ty dầu lửa Statoil vẫn bơm vào lớp trầm
tích dưới đáy biển một triệu tấn CO
2

/năm.

Tại Pháp, Công ty Total đã được phép thử nghiệm quy trình thu và giữ CO2 tại
trung tâm nhiệt điện Lacq, vùng Pyrénées-Atlantique. Trung Quốc là nước có
nguồn than đá còn khá dồi dào và họ sẽ vẫn phải sử dụng nhiều than để phục vụ
cho công cuộc phát triển. Các phòng thí nghiệm công nghệ cao của nước này cũng
bắt đầu lao vào cuộc chạy đua nghiên cứu công nghệ thu giữ CO
2
. Công nghệ này
hiện không nhằm vào lượng khí xả ra từ phương tiện giao thông trên đường, mà
chỉ dùng để thu hồi khí thải ra từ các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than, dầu mỏ
hay khí đốt, cũng như các nhà máy luyện thép hay xi măng. Đối với các công ty
dầu mỏ và khí đốt cũng như các công ty điện lực sử dụng than thì công nghệ đó có
sức hấp dẫn rất lớn. Bởi vì việc bơm khí CO
2
vào lòng đất sẽ giúp cho họ có thể
tiếp tục khai thác nguồn năng lượng hoá thạch mà vẫn không làm thay đổi bầu khí
quyển;
22
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>• Các chuyên gia đã đưa ra những lời khuyên tưởng như rất nhỏ nhưng lại rất
hữu ích như tắt điện mỗi khi ra ngoài, sử dụng các loại bóng đèn tiết kiệm
điện, không để đồ ăn còn nóng vào tủ lạnh Những hành động nhỏ như vậy
hoàn toàn không khó khăn gì nhưng lại có thể mang lại lợi ích rất lớn trong
việc tiết kiệm năng lượng;
• Trồng nhiều cây xanh (nhất là những loại cây hấp thụ nhiều CO
2
trong quá
trình quang hợp) nhằm làm giảm lượng khí CO
2

trong bầu khí quyển, từ đó
làm giảm hiệu ứng nhà kính khí quyển.Từ Việt Nam tới Úc, từ Kenya tới
Mexico, mọi người đang cùng nhau trồng cây, rất nhiều người trong số họ
tham gia chương trình Trồng cây cho hành tinh của UNEP - chiến dịch hàng
tỷ cây trồng. Các cây này có thể giúp làm chậm lại sự biến đổi khí hậu qua
việc hấp thụ khí CO2 khi chúng lớn lên. Chúng cũng giúp làm giảm ô
nhiễm, giữ thành phố mát mẻ, bảo vệ nơi chứa nước và giảm xói mòn đất;
• Sử dụng các nguồn nguyên liệu,nhiên liệu sạch và thân thiện với môi
trường.Cắt giảm và tiết kiệm tiêu thụ năng lượng. Nghiên cứu sản xuất nhiên
liệu phục vụ cho giao thông vận tải ít gây ảnh hưởng đến môi trường:
23
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/> Các nhà khoa học đã tính được trên 30% lượng khí phát thải gây hiệu ứng nhà
kính bắt nguồn từ các phương tiện giao thông.Để tiết kiệm năng lượng và hạ tỷ lệ
đó xuống thì giải pháp trước mắt có lẽ là hạn chế sử dụng xe hơi. Giải pháp tiếp
theo là phần của các nhà khoa học là tối ưu hóa công nghệ chế tạo ôtô theo hướng
giảm thiểu khí thải như xe chạy bằng điện, nhiên liệu sinh học hay nhiên liệu tái
sinh. Tuy nhiên, trước mắt, sự tham gia tích cực của mỗi cá nhân vẫn là hiệu quả
nhất.
Liên quan vấn đề năng lượng, nhiên liệu xanh chế biến từ thực vật như xăng
ethanol, methanol hay dầu diesel sinh học được coi là hiện tượng đáng chú ý nhất
trong ngành năng lượng hiện nay. Chúng cho phép một số quốc gia giảm bớt mức
độ lệ thuộc vào các nguồn cung cấp năng lượng như dầu lửa của Trung Đông, hay
khí đốt của Nga. Ở Brazil, ethanol tạo ra từ mía đường đã thay thế khoảng 40%
nhu cầu xăng dầu của đất nước.
Nỗ lực chuyển đổi sang các nguồn tài nguyên tái tạo được và ít carbon như năng
lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh học và năng lượng địa nhiệt.Năng
lượng hạt nhân cũng đóng một vai trò quan trọng. Năm 1995, sản lượng năng
lượng gió trên toàn cầu đạt được 4.800MW điện năng. Vào cuối năm 2005, con số
này tăng gấp 12 lần với tổng lượng đạt trên 59.000MW. Hội đồng năng lượng gió

toàn cầu ước tính rằng hơn 1/3 sản lượng điện của thế giới có thể được cung cấp
nhờ năng lượng gió vào năm 2050. Trên thế giới hàng triệu hộ gia đình hiện đang
sử dụng mặt trời để làm nóng nước, với khối lượng năng lượng mặt trời được khai
thác để sản xuất điện năng ngày càng tăng lên. Ở Iceland, năng lượng địa nhiệt và
thuỷ điện chủ yếu đang được chuyển đổi sang phát triển hidrogen từ nước như một
nguồn năng lượng chính yếu để thay thế nhiên liệu hoá thạch;
• Đối với các nhà máy sản xuất cần phải xữ lý khí thải trước khi đưa ra môi
trường;
• Dùng chính sách thuế khí thải ô nhiễm đối với các nhà máy công nghiệp;
• Ngăn chặn và kịp thời xử lý cháy rừng, phá rừng bừa bãi, phát động phong
trào trồng cây gây rừng.
Về phần mình Việt Nam cũng rất nỗ lực trong việc tìm ra các giải pháp,chung tay
cùng với cộng đồng quốc tế nhằm làm giảm sự phát thải các khí nhà kính và tác
động tiêu cực của hiệu ứng nhà kính. Tham dự lễ công bố của Chương trình Phát
triển Liên Hợp Quốc (UNDP) với chủ đề “Cuộc chiến chống biến đổi khí hậu:
Đoàn kết nhân loại trong một thế giới phân cách”,ngày 28∕11∕2007 tại Hà Nội,Thứ
24
GV: Phạm Đình Thắng – HVKTQS
/>trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Công Thành phát biểu: “Cuộc chiến
chống lại biến đổi khí hậu, ngăn ngừa những tác động có hại của nó là một cuộc
chiến đấu chung, đòi hỏi mọi người, mọi quốc gia phải chung tay góp sức. Ý thức
được là một trong những nước chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, Việt Nam
đã sớm tham gia, phê chuẩn và thực hiện Công ước Khung của LHQ về biến đổi
khí hậu, trong đó Nghị định thư Kyoto của công ước nhằm góp phần tích cực vào
những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong cuộc chiến chống biến đổi khí
hậu”.
Từng người,từng quốc gia khó làm được, tuy nhiên, trong khi chờ đợi sự phát
triển của khoa học để làm điều đó, chúng ta có thể thay đổi cách sống để làm nên
điều khác biệt. Một điều chúng ta hướng tới là ý thức trong các hành động. Mọi
người cùng chung tay, chúng ta sẽ tạo ra một sự thay đổi to lớn, một nơi tuyệt vời,

nhưng nếu chúng ta chỉ chú ý đến sự phát triển để hành động thì thật là một vấn đề
lớn đối với khí hậu.%
25

×