Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC-GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.87 KB, 18 trang )

Chương I: Khái quát về giá trị thặng dư
1.Mâu thuẫn của công thức tư bản
Chủ nghĩa tư bản ra đời gắn với sự phát triển ngày càng cao của sản xuất hàng
hóa.Tuy nhiên sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa khác với sản xuất hàng hóa
giản đơn không chỉ về trình độ mà còn khác cả về chất nữa.Trong sản xuất hàng
hóa giản đơn, tiền là sản vật cuối cùng của lưu thong hàng hóa, nhưng nó còn là
hình thức biểu hiện đầu tiên dưới hình thức một số tiền nhất định.Nhưng bản thân
tiền không phải tư bản và nó chỉ trở thành tư bản trong một điều kiện nhất định.
Các Mác đã chỉ ra rằng nếu sản xuất hàng hóa giản đơn có công thức vận động
chung là H-T-H thì công thức vận động của tư bản lại khác biệt ở chỗ nó vận động
theo công thức T-H -T.Tức là công thức vận động của tư bản không đầu hàng hóa
mà từ bắt đầu từ Tiền.Nhà tư bản dùng tiền của mình để mua hàng hóa rồi sau đó
đem bán hàng hóa đó để thu giá trị và không chỉ là giá trị mà còn là giá trị tăng
thêm.Như vậy nếu mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng để
thỏa mãn nhu cầu ( nên các hàng hóa phải có giá trị sử dụng khác nhau) thì mục
đích cua tư bản lại là giá trị tăng thêm, tức là nếu số tiền thu về phải lớn hơn số tiền
ứng ra, nếu bằng hoặc nhỏ hơn thì quá trình vận động lưu thông trở nên vô
nghĩa.Điều đó cũng có nghĩa là thực chất công thức vận động đầy đủ của tư bản
phải là :T –H- T’ trong đó T’=T+ ΔT.ΔT được gọi là giá trị thặng dư.Vậy giá trị
thặng dư đó ở đâu ra mà có???
Các nhà kinh tế học tư sản đã cố tình chứng minh rằng quá trình lưu thông
hàng hóa đẻ ra giá trị thặng dư nhằm mục đích che giấu nguồn gốc làm giàu của
các nhà tư bản.Nhưng Thực ra trong lưu thông dù người ta trao đổi ngang giá hay
không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị mới, dó đố cũng không tạo ra giá trị
thặng dư.
-Trường hợp trao đổi ngang giá:
Nếu hàng hóa được trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái trị, từ tiền
thành hàng và từ hàng thành tiền còn tổng giá trị cũng như một phần giá trị nằm
trong tay mỗi bên tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi.Tuy nhiên về
mặt giá trị sử dụng, thì cả hai bên đều trao đổi đều có lợi vì có được những hàng
hóa thích hợp với nhu cầu của mình.


-Trường hợp trao đổi không ngang giá:
Có thể có 3 trường hợp xảy ra đó là:
+ Trường hợp thứ nhất: giả định rằng có một nhà tư bản nào đó có hành vi bán
hàng hóa cao hơn giá trị 10% chẳng hạn.GTHH(giá trị hàng hóa ) của anh ta là 100
đồng sẽ được bán cao lên 110 đồng và do đó thu được 10 đồng giá trị thặng
sư.Nhưng trong thực tế không có nhà tư bản nào lại chỉ đóng vao trò là người bán
hàng hóa, mà lại không phải mua các yếu tố sản xuất để sản xuất ra hàng hóa
đó.Vì vậy đến lượt anh ta là người mua, anh sẽ phải mua hàng hóa cao hơn giá trị
10% vì các nhà tư bản khác cũng muốn bán hàng hóa của mình cao hơn giá trị
10% để có lãi.Thế là 10% nhà tư bản thu được khi là người bán sẽ mất đi khi anh
ta là người mua.Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị đã không hề mang lại một
chút giá trị thặng dư nào.
+Trường hợp thứ hai, giả định rặng lại có một nhà tư bản nào đó có hành vi mua
hàng hóa thấp hơn giá trị 10% để đến khi bán hàng hóa theo giá trị anh ta thu được
10% là giá trị thặng dư.Trong trường hợp này cũng vậy, cái mà anh ta thu được do
mua rẻ, sẽ bị mất đi khi anh ta là người bán vì cũng phải bán thấp hơn giá trị thì
các nhà tư bản khác mới mua.Rút cục giá trị thặng dư vẫn không được đẻ ta từ
hành vi mua rẻ.
+Trường hợp thứ 3: Gỉa định trong xã hội tư bản lại có một số kẻ giỏi bịp bợm, lừa
lọc bao giờ hắn cũng được mua rẻ bán được đắt.Nếu khi mua, hắn ta đã mua rẻ
được 5 đồng và khi bán hắn cũng bán đắt được 5 đông.Rõ ràng 10 đồng giá trị
thặng dư mà hắn thu được la do trao đổi không ngang giá.Sự thực thì 5 đồng thu
được di mua rẻ và 5 đồng hắn kiếm được do bán đắt cũng chỉ là số tiền hắn lường
gạt được của người khác.Nhưng nếu xét chung cả xã hội, thì cái giá trị thặng dư mà
hắn thu được lại chính là cái mà người khác mất đi, do đó tổng số giá trị hàng hóa
trong xã hội không có hành vi cướp đoạt, lường gạt của hắn mà tăng lên.Giai cấp
tư sản không thể làm giàu trên lưng bản thân mình.
Trong thực tiễn dù có lật đi lật lại vấn đề này đến mấy đi nữa thì kết quả vẫn
vậy.Các Mác đã chỉ rõ: “ Lưu thong hay trao đổi hàng hóa không sáng tọa ra một
giá trị nào cả”.

Như vậy lưu thông đã không đẻ ra giá trị thặng dư.Vậy phải chăng GTTD có thể
đẻ ra ngoài lưu thông.?
Trở lại ngoài lưu thông chúng ta xem xét 2 trường hợp:
+Ở ngoài lưu thông ,nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với hàng hóa của anh
ta, thì giá trị của những hàng hóa ấy không hề tăng lên mọt chút nào.
+Ở ngoài lưu thông, nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm giá trị mới cho hàng
hóa thì phải bằng lao động của mình.Chẳng hạn người thợ giầy đã tạo ra một giá
trị mới bằng cách lấy da thuộc để làm ra giầy.Trong thực tế, đôi giày có giá trị lớn
hơn thuộc da vì nó đã thu hút nhiều lao động hơn, còn gía trị của bản thân da thuộc
vẫn như trước, không hề tự tăng lên.
Như vậy là trong lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư đúng như Các Mác chỉ
rõ: “ Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện
ngoài lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”.Đó chính là mâu thuấn
chứa đựng trong công thức chung của tư bản.Để giải quyết những mâu thuẫn
này.Các Mác chỉ rõ : “Phải lấy những quy luật nội tại của lao động hàng hóa làm
cơ sở” để giải thích.
2.Hàng hóa sứ c lao động
Sự biến đổi giá trị của số tiền cần phải chuyển thành tư bản không thể xảy ra
trong bản thân số tiền mà chỉ có thể xảy ra từ hàng hóa được mua vào (T- H).Hàng
hóa đó không thể là một hàng hóa thông thường mà phải là một hàng hóa đặc biệt,
mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị.Thứ hàng hóa đó
là sức lao động à nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.

3.Nguồn gốc KN GTTD(sgk)(sau phần trên này đây)
4.Trình độ bóc lột.Phương pháp nâng cao tỉ suất GTTD (SGK)
Chương 2: Sự vận dụng học thuyết giá trị thặng dư
1. Phạm trù sở hữu và cơ cấu sở hữu trong giai đoạn trước đây (Trước
1986)
a/ Sớ hữu là gì ? Quá trình phát triển của nó.
Theo quan điểm của Mác: ”sở hữu được biểu hiện trong những hình thái

của QHSX”. Sở hữu là nội dung bên trong của chính thể mang tính thống
nhất. Tính hiện thực của sở hữu chỉ được nhận thức một cách gián tiếp thông
qua các quan hệ giữa các thành tố của QHSX chứ không thể nhận thức một
cách trực tiếp vì sở hữu là tổng hoà giữa các QHSX.
Sở hữu bắt đầu từ sự chiếm hữu giới tự nhiên, mang tính chất cộng đồng,
hình thái đầu tiên của QHSX trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đến hình
thái kinh tế xã hội sơ tính cá nhân đối lập với cộng đồng và dẫn đến sự tách
biệt về sở hữu. Đó là tiến trình từ chế độ sở hữu thị tộc, bộ lạc trong xã hội
cộng sản nguyên thuỷ đến chế độ sở hữu cá nhân.
Sở hữu được hình thành từ sự chiếm hữu đối tượng để tiến hành sản xuất
thoả mãn với nhu cầu của con người. Do đó sở hữu mang tính chất tất nhiên,
sự chiếm hữu mang lại quyền hạn cho chủ sở hữu. Sản xuất phát triển thì
quan hệ sở hữu ngày càng phát triển.
Như vậy sở hữu là mối quan hệ con người với con người trong việc chiếm
hữu TLSX cùng với các điều kiện sản xuất. Do đó sở hữu là một mặt của
QHSX. Sự hình thành và phát triển của sở hữu là một quá trình lịch sử tự
nhiên tuân theo quy luật sản xuất, phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất XH thì nội dung và phạm vi
của sở hữu ngày càng được mở rộng.
b/ Cơ cấu sở hữu trong giai đoạn trước đây (trước 1986):
Lịch sử loài người đã từng trải qua hai loại hình sở hữu cơ bản đối với
TLSX đó là sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
Sở hữu xã hội là loại hình sở hữu mà trong đó những TLSX chủ yếu thuộc
về mọi thành viên trong xã hội. Trên cơ sở đó vị trí bình đẳng trong tổ chức
lao động xã hội và phân phối sản xuất. Mục đích sản xuất dưới chế độ công
hữu là để đảm bảo đời sống và vật chất của người lao động được nâng cao.
Sở hữu xã hội điển hình có hai hình thức cơ bản: Sở hữu của thị tộc, bộ lạc
trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ trong phương thức SX cộng sản nguyên
thuỷ. Sở hữu tập thể ( sở hữu hợp tác xã )và sở hữu toàn dân( sở hữu quốc
doanh ) trong phương thức SX cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu của

CNXH.
Trước đây nước ta với nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung quan liêu, bao
cấp, nền kinh tế tự cung, tự cấp. Do đó nó chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu
chính tương ứng với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể. Trong nền
kinh tế này con người không được tự do buôn bán, trao đổi hàng hoá, do đó
chưa xuất hiện sở hữu tư nhân mà chỉ tồn tại hai hình thửc sở hữu đó là sở
hữu tập thể, quôc doanh dưới sự điều tiết giá cả của nhà nước. .Đây chính là hiện
tượng quan hệ sản xuất "tiên tiến " hơn trình độ lực lượng sản xuất 1 cách giả
tạo bởi chúng ta đã kéo quá dài cơ chế chính sách kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp với tư tưởng nôn nóng muốn đưa nước ta tiến nhanh lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn qứôc, trong khi chúng ta vừa thoát khỏi cuộc chiến
tranh, tần dư chế độ phong kiến còn đang tồn tại và hậu quả chiến tranh còn
nặng nề, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp, khả
năng quản lý kinh tế còn yếu, lực lượng sản xuất thấp kém trong khi đó
chúng ta ồ át xây dựng một quan hệ sản xuất ở trình độ không tương xứng,
cụ thế trong nông nghiệp xây dựng HTX cấp cao, thực hiện duy có hai hình
thức sở hữu là tập thể và sở hữu Nhà nước, thực hiện sở hữu toàn dân…do
đó đã làm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất, không khuyến khích
được người lao động, chưa huy động được nguồn lực trong xã hội, như ta
biết sự phù hợp hay không giữa quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng
sản xuất là quy luật phổ biến tác động tới toàn bộ quá trình vận động và phát
triển của xã hội.

Suốt từ 1975 – 1985 là suốt một thời kì mà chúng ta nhầm tưởng rằng cứ
có QHSX CNXH (với hai thành phần kinh tế chính là nhà nước và tập thể )
là có CNXH mà quên đi rằng QHSX phải sựa trên LLSX chúng ta có, chúng
đã đã nhầm tưởng , đánh đồng giữa khái niệm QHSX với sở hữu Tư liệu sản
xuất, từ đó đã xác định nhầm bước đi, nỏng vội chủ quan duy ý chí trong
việc chọn lựa các hình thức tổ chức kinh tế.Kết quả là khủng hoảng kinh tế
kéo dài.Kinh tế đất nước kiệt quệ, đời sống nhân dân cực khổ.

Trong những năm 1975 – 1980, Sản xuất đình trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4 %/
năm (kế hoạch là 13-14 %) trong khi tỷ lệ tăng dân số hàng năm trên 2,3 %.
Tình trạng thiếu lương thực diễn ra gay gắt, năm 1980 phải nhập 1,576 triệu
tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá cả tăng hàng năm 20 %, nhập
khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh
tế, nhiều công trình phải bỏ dở, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu trầm trọng.
Đại hội IV ĐCS VN đã quyết định cải tạo XHCN trong cả nước với mục tiêu
lớn: xây dựng chế độ làm chủ tập thể và sản xuất lớn. Do các mục tiêu đề ra
quá lớn nên trong kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985) nền kinh tế thiếu
cân đối và lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Sản xuất đình trệ thể hiện trên
tất cả các lĩnh vực. Nạn lạm phát tăng nhanh, đầu những năm 80 tăng
khoảng 30-50 % hàng năm, cuối năm 1985 lên đến 587,2 % và siêu lạm phát
đạt đến đỉnh cao vào năm 1986, với 774,7 %. Đời sống nhân dân hết sức khó
khăn.
2.Tính tất yếu của nền kinh tế thị trường ở nước ta
Thực trạng đất nước những năm 1985 buộc chúng ta không còn phương án nào
khác là Cải cách.Lúc này không Cải cách tức là “ Chết”.Chính vì thế tại Đại hội
Đảng lần thứ VI (12/1986) đã khởi xướng và thông qua đường lối Đổi mới.Theo
đó, Đảng chủ trường xây dựng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề lý luận và thực tiễn hết
sức mới mẻ và phức tạp. Nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa việc nhận thức sâu sắc tính quy luật
khách quan với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chủ thể là Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và
nhân dân lao động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là sự lựa chọn con đường và mô hình phát
triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đáp ứng yêu cầu "đi tắt, đón đầu" đang đặt ra
như một yếu tố sống còn. Sự hình thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình tìm tòi thể nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ chưa
đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện.
Nếu như trong văn kiện Đại hội VI và Hội nghị Trung ương 6 khoá VI, Đảng ta mới đề ra quan điểm
phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi đây là vấn

đề "có ý nghĩa chiến lược và mang tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội", thì đến Đại hội
VII, Đảng đã khẳng định: "phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Tới Đại hội Đảng IX, kinh tế thị
trường nhiều thành phần lại được khẳng định một cách sâu sắc, đầy đủ hơn như là mô hình kinh tế tổng
quát hay mô hình mới của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, bắt
nguồn từ bối cảnh thời đại và điều kiện lịch sử – cụ thể của đất nước và đó như là một điều tất yếu.
Bởi Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX
cũng đã khẳng định tính đúng đắn của việc sử dụng và cải tạo dần dần đối với những thành phần
kinh tế của xã hội cũ mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch ra. Nhận thấy chính sách cộng sản thời
chiếnkhông còn thích hợp trong điều kiện đất nước đã hoà bình, V.I.Lênin đã dũng cảm thừa
nhận: “Chúng ta đã thất bại trong cái ý định dùng phương pháp “xung phong”, nghĩa là dùng con
đư ờng ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và phân phối theo nguyên
tắc xã hội chủ nghĩa”(1). Từ đó, V.I.Lênin khẳng định cần phải thay thếchính sách cộng sản thời
chiến bằng chính sách kinh tế mới (NEP). Một trong những nội dung cơ bản của NEP là lý luận
về nền kinh tế nhiều thành phần. V.I.Lênin viết: “Không còn nghi ngờ gì nữa, ở một nước trong
đó những người sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân cư, chỉ có thể thực hiện cách mạng
xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở
những n ước t ư bản phát triển”(2). Một trong các biện pháp quá độ đặc biệt mà V.I.Lênin nói ở
đây chính là việc sử dụng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Điều đó được V.I.Lênin
giải thích rõ như sau: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó
có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có”(3).
Cơ sở của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xét
đến cùng, là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực l ượng sản
xuất quy định. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là ở các nư ớc tiểu nông, do
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn nhiều hạn chế và không đồng đều nên tất yếu còn
tồn tại nhiều loại hình sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; hơn nữa, một số thành phần kinh tế của
phư ơng thức sản xuất cũ còn có tác dụng tích cực nhất định đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Điều đó cho thấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải thích rất rõ tại

sao phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất, tính kế thừa trong phát triển, cũng như đặc
điểm cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, v.v. quy định sự tồn tại đa
dạng, đan xen của các hình thức sở hữu và tương ứng với đó là sự tồn tại của nền kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta hiện nay. Trong cơ cấu nền kinh tế đó, kinh tế nhà nước được Đảng xác
định là thành phần đóng vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác góp phần quan trọng trong
việc huy động mọi tiềm năng, nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh, phát triển lực lượng sản xuất.
Đặc biệt sự xuất hiện của thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong nền kinh tế nước ta được thừa
nhận, đây là bộ phận kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, bộ phận kinh tế này đã đóng góp tích cực vào
việc phát triển lực lượng sản xuất, huy động vốn, tạo việc làm cho người lao động, đồng thời là
một trong những thành phần kinh tế năng động, thích ứng khá nhanh với sự biến đổi của thị
trường quốc tế và trong nước dưới cơ chế hoạt động của nước ta.Chính điều đó mà khối lượng
sản phẩm,vật chất mà khu vực kinh tế này tạo ra trong nền kinh tế nước ta là không thể phủ nhận
và ngày càng được Đảng và nhà nước khuyến khicsch phát triển tạo những động lực cơ bản cho
nền kinh tế nước ta trong thời kì hôi nhập, đồng thời là cơ sở cho quá trình tích lũy, xây dựng cơ
sở vật chất trong thời kì mang tính chất quá độ như hiện nay.
*Tính tất yếu của sự xuất hiện thành phần kinh tế tư nhân
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính chất dự
báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng trước z\tối thiểu, sản
xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa; và trong chừng mực mà
kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của những người công
nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong cái nguyện vọng
muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi phí ít nhất về sức lực và
tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy cho loài người biết chi phí
sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích sản xuất với một chi phí ít
nhất về tư liệu"
Trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó, quan hệ
bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ cứng

cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng nào
quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.
Thành phần kinh tư bản tư nhân là một bộ phận cần thiết của nền kinh tế quốc dân, nó trở thành
một mắt khâu không thể thiếu trong hệ thống phân công lao động xã hội. Mác: “Chúng ta rất khổ
sở vì chủ nghĩa tư bản nhưng cũng rất khổ sở nếu không có nó”. Muốn có thêm lao động thặng
dư, sản xuất thăng dư thì suy đến cùng chỉ có cách khai thác lao động trên cả 3 mặt: Thời gian
lao động, cường độ lao động, năng xuất lao động. 2 mặt trên liên quan đến giá trị thặng dư tuyệt
đối, mặt thứ 3 liên quan đến giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch. Song biện
pháp chủ yếu là năng cao năng xuất lao động, nhất là trong những ngành nông nghiệp, công
nghiệp sảm xuất hàng tiêu dùng. Cần vận dụng những hình thức của chủ nghĩa tư bản nhằm
hướng các nhà tư bản trong nước đi theo quỹ đạo của CNXH. Đó là một hệ thống chính sách góp
phần thực hiện xã hội hóa sản xuất về mặt quan hệ sản xuất từ đó phát huy vai trò của nó trong
nền kinh tế thời kì quá độ ở nước ta.
Như vậy, Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại, vừa là sự tiếp thu
các giá trị truyền thống của đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ
nghĩa xã hội kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan với mong muốn chủ quan, giữa
tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương sử dụng hình thái
kinh tế thị trường nhiều thành phần để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp khoảng cách tụt hậu
và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
3. Nội dung xây dựng và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần (từ sau
đổi mới)
a. Hệ thống pháp luật
Xác định rõ tầm quan trọng và yêu cầu của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm qua, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa - xã hội, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội

nhập kinh tế quốc tế. Pháp luật đã trở thành công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước, quản lý xã
hội. Nguyên tắc pháp quyền từng bước được đề cao và phát huy hiệu quả trên thực tế. Nếu chỉ
tính riêng về luật, pháp lệnh do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, chúng ta có thể
thấy rằng, chất lượng và số lượng các văn bản quy phạm pháp luật này ngày càng được nâng cao.
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, Quốc hội thông qua 41 luật và bộ luật, Quy chế hoạt động
của các cơ quan của Quốc hội, Nội quy Kỳ họp Quốc hội; Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông
qua 44 pháp lệnh. Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa X, Quốc hội thông qua 35 luật và bộ luật; Ủy
ban Thường vụ Quốc hội thông qua 44 pháp lệnh. Từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI đến nay,
Quốc hội thông qua 26 luật và bộ luật, 3 quy chế hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, 1 nội
quy kỳ họp Quốc hội; Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 21 pháp lệnh.Cụ thể là Luật đầu tư
nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị
trường tại Việt Nam. Năm 1991 Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời. Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã
khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền kinh tế thị trường đã
được hình thành tại Việt Nam như Luật đất đai, Luật thuế, Luật phá sản, Luật môi trường, Luật lao động và hàng
trăm các văn bản pháp lệnh, nghị định của chính phủ đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được hình thành. Chính phủ đã chủ
trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lý
kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng, hình thành các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ,
thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường đất đai… Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao
tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi
nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Chiến lược cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 là một quyết tâm của Chính
phủ Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế… để tạo ra
một thể chế năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới
Các luật, pháp lệnh thuộc lĩnh vực dân sự - kinh tế được ban hành đã góp phần tích cực vào
việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quy định chế độ sở hữu và
các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, thương gia, quyền tự do kinh doanh
và tự do hợp đồng, các cơ chế khuyến khích và bảo hộ đầu tư, khai thác và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực xã hội. Nhìn chung, các thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa đã từng bước được hình thành. Pháp luật trong lĩnh vực hành chính, nhà nước đã có
những đổi mới tích cực. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn
của cán bộ, công chức, nội dung và trách nhiệm công vụ được phân định rõ ràng hơn; thủ tục
hành chính bước đầu được cải cách theo hướng đơn giản, công khai, dễ tiếp cận, dễ kiểm tra,
giám sát hơn; các dịch vụ công đang dần dần được xác lập, từng bước đáp ứng nhu cầu của
nhân dân và yêu cầu của cải cách hành chính; lần đầu tiên hoạt động giám sát của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp được luật hóa đã góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám sát
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Pháp luật về lao động, an sinh xã hội và các lĩnh
vực xã hội khác đã được quan tâm xây dựng, góp phần phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết
các vấn đề xã hội, hạn chế những tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Pháp luật trong lĩnh vực
quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được tăng cường, góp phần giữ vững ổn định chính
trị, xã hội, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Pháp luật phục vụ việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và bảo vệ môi
trường đã và đang được tăng cường. Chủ trương dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội đã được
thể chế hóa một bước quan trọng. Nhà nước ta đã ký kết hoặc tham gia nhiều điều ước quốc tế
phục vụ cho chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
b.Cơ chế chính sách với mỗi thành phần kinh tế.
Để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước ta
luôn luôn tạo điều kiện ở mức tối đa để mỗi thành phần kinh tế có thể phát triển,
phát huy tiếng nói của mình trong nền kinh tế.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các tài nguyên quốc
gia và các tài sản sở hữu nhà nước như hầm mỏ, đất đai, rừng, biển, ngân sách, các quỹ dự trữ
ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phần vốn nhà nước góp
vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác…
Đại hội VIII của Đảng, chỉ rõ, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở "làm đòn bẩy
mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các
thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức
năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới".
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ
để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then

chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và
chấp hành pháp luật.
Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh càng gay gắt thì những người lao động riêng rẽ,
các hộ cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có yêu cầu phải liên kết, hợp tác với nhau để
tồn tại và phát triển. Vì thế, phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã là con đường để giải quyết
mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ manh mún với sản xuất hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu của nền kinh
tế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế hợp tác là hình thức kinh tế mang tính tập thể, xã hội hóa, là nhân tố quan trọng để xây
dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nó
giáo dục ý thức cộng đồng, tinh thần hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên xã hội, giữa các
thành phần kinh tế để sản xuất, kinh doanh đúng pháp luật.
Hợp tác xã kiểu mới đã khắc phục những hạn chế của hợp tác xã kiểu cũ. Nó do các thành viên
bao gồm cả thể nhân và pháp nhân (người lao động, hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp vừa và
nhỏ…), cả người ít vốn và người nhiều vốn, người góp sức hoặc góp vốn xây dựng nên, trên cơ
sở tự nguyện, tôn trọng các nguyên tắc, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Hợp tác xã
không tập thể hóa mọi tư liệu sản xuất của các thành viên mà dựa trên sở hữu của các thành viên
và sở hữu tập thể. Tổ chức và hoạt động của hợp tác xã không bị giới hạn bởi quy mô, lĩnh vực
và địa bàn, hoàn toàn tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị
trường. Hình thức phân phối vừa theo lao động, vừa theo cổ phần và mức độ tham gia, dịch vụ…
Với những ưu việt như vậy, Đại hội IX của Đảng xác định: Kinh tế tập thể phát triển với nhiều
hình thức hợp tác xã đa dạng. Nhà nước phải giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa
học – công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường… để cùng với kinh tế nhà nước ngày
càng giữ vai trò nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội IX của
Đảng coi kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Loại hình kinh tế này xuất hiện và
phát huy tác dụng ở cả thành thị và nông thôn, cả trong nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp,
thương mại và dịch vụ. Sự phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa
gắn với thị trường có vai trò quan trọng trước mắt cũng như lâu dài trong việc thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh phát triển.
Qua thực tế hơn 20 năm đổi mới cho thấy, kinh tế hộ cá thể, tiểu chủ là loại hình tổ chức sản

xuất, kinh doanh mang tính chất của một xí nghiệp gia đình chứa đựng những khả năng lớn của
sáng kiến cá nhân. ở đây, nguyên tắc kinh doanh, theo đuổi mục tiêu doanh lợi kết hợp hài hòa
với các giá trị gia đình. Những thành viên trong hộ gắn bó với nhau bằng quan hệ ruột thịt, nên
có tính cộng đồng, trách nhiệm cao dễ thống nhất. Ngoài các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chủ
hộ còn quan tâm đến việc học hành, giáo dục truyền thống, đạo đức, pháp luật cho các thành viên
để hướng tới sự thành đạt. Quan hệ sản xuất ở đây là trực tuyến, bỏ qua các khâu trung gian, nên
việc quản lý rất chặt chẽ, hiệu quả. Chất lượng sản phẩm, thương hiệu hàng hóa được quan tâm
đầu tiên, bởi nó tạo nên chữ tín của gia đình. Mọi tiềm năng trí tuệ, kinh nghiệm quản lý, tay
nghề, bí quyết, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh… được tích lũy qua nhiều đời là tiềm năng"
chất xám" quan trọng của kinh tế cá thể, tiểu chủ được phát huy. Quy mô của kinh tế cá thể, tiểu
chủ vừa và nhỏ nên dễ tổ chức sản xuất, kinh doanh, ít tốn kém, dễ thích nghi. Nó có khả năng
huy động mọi nguồn lực phân tán như vốn, lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, thiết bị kỹ
thuật… kết hợp lại với nhau, qua đó giải quyết việc làm cho đông đảo người lao động, tăng thu
nhập, tăng tích lũy, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo cơ hội cho người lao động tham gia vào quá trình sản xuất, tái
sản xuất và hưởng thụ các thành quả tăng trưởng nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ góp phần
tích cực xóa đói giảm nghèo, nâng cao mặt bằng kinh tế – xã hội, cải thiện đáng kể bộ phận đông
đảo dân cư ở thành thị và nông thôn.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta, thành phần kinh tế này có vai trò quan
trọng xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, về phát triển nền sản xuất hàng hóa, về
giải quyết các vấn đề xã hội. Đại hội VIII của Đảng khẳng định: "Kinh tế tư bản tư nhân có khả
năng góp phần xây dựng đất nước. Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm
làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng
cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh". Văn kiện Đại hội
IX của Đảng cũng khẳng định rõ hơn vai trò vị trí của kinh tế tư bản tư nhân và Nghị quyết
Trung ương 5, khóa IX, xác định: "Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung

tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực của đất nước trong
hội nhập kinh tế quốc tế".
Theo V.I. Lê-nin, chủ nghĩa tư bản nhà nước là con đường hữu hiệu nhất để cải tạo các quan hệ
tiểu nông, để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư bản nhà nước là
thành phần kinh tế bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản
tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. V.I. Lê-
nin cũng nhấn mạnh: Chủ nghĩa tư bản nhà nước là chủ nghĩa phục tùng sự điều tiết của nhà
nước (giám sát, kiểm tra, quy định các hình thức trật tự, v.v)
(1)
. Chủ nghĩa tư bản nhà nước gắn
liền với nhà nước, phụ thuộc vào bản chất của nhà nước, khả năng điều tiết của nhà nước và phụ
thuộc vào sự vững mạnh của nhà nước. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
chúng ta hoàn toàn có khả năng làm được những điều nêu trên. Vì vậy, Đảng ta chủ trương phát
triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà
nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước trong việc khai thác các nguồn vốn, máy
móc, thiết bị, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường
v.v , để mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước.
Từ Đại hội IX Đảng ta khẳng định thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, phản ánh
đúng thực tế đang diễn ra trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Việc triển khai thực hiện các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra một khối lượng đáng kể
năng lực sản xuất, đã tiếp nhận được một số kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong một số ngành
kinh tế như thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, sản xuất phụ tùng, lắp ráp xe máy, hóa chất,
trồng trọt theo công nghệ tiên tiến, nuôi tôm nước lợ theo công nghệ mới, xây dựng khách sạn
cao cấp, sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm có chất lượng cao… Đồng thời đã tiếp
thu được một số phương pháp quản lý tiến bộ, một số kinh nghiệm về tổ chức sản xuất, kinh
doanh.
Đảng, Nhà nước ta đã tạo điều kiện thông thoáng nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài vào
những mục tiêu trọng điểm và lĩnh vực ưu tiên phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, như sản xuất hàng xuất khẩu; nuôi trồng, chế biến nông – lâm – thủy sản; sử dụng công
nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư, chế biến nguyên liệu và sử dụng

có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; tập trung ở các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có
điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.
Trong xu thế toàn cầu hóa, để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, với chính sách kinh tế mở,
chúng ta đang tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Dòng vốn nước ngoài
vào Việt Nam ngày một tăng, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong cơ cấu GDP. Cho nên việc tạo
điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây
dựng kết cấu kinh tế – xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm là chủ
trương đúng của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển nền kinh tế nước
ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
c.Chính sách điều chỉnh khu vực kinh tế Nhà nước và sở hữu Nhà nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sự sở hữu toàn dân về tư lieuj sản xuất.Vai trò của
thành phần kinh tế này có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta.
Đại hội Đảng lần thứ VII, đồng thời với nhận thức về chế độ đa dạng hóa các loại hình sở hữu đã rõ nét
hơn, Đảng đã chuyển sang quan điểm công hữu giữ vai trò chủ đạo, nhưng chưa phân biệt rõ doanh
nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước, nên còn gọi chung sở hữu nhà nước dưới thuật ngữ “kinh tế quốc
doanh”. Cùng với đổi mới quan điểm về chế độ sở hữu, Đại hội Đảng lần thứ VII cũng đưa ra quan điểm
rõ ràng hơn về KTTT: "Đổi mới về kinh tế, chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc với cơ chế
quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước”; “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách và các công cụ khác”
(2)
; và phân định rõ phạm vi quản lý của Nhà nước và phạm vi tác động của cơ
chế thị trường.
Tới Đại hội Đảng lần thứ VIII, ngoài sự khẳng định rõ ràng mục tiêu vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN do Đại hội VII nêu ra, lần đầu tiên Đảng
đưa ra khái niệm kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: "Kinh tế nhà nước thực hiện
tốt vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng trong nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể. Kinh tế nhà nước dưới các hình thức khác nhau tồn
tại phổ biến"

(3)
. Đại hội VIII đồng thời cũng có một số thay đổi đối với các thành phần kinh tế khác, các
thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành cùng tồn tại lâu dài, tư tưởng kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, cùng kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng đã cơ bản được hình thành ở Đại hội Đảng lần thứ
VIII.
Tới Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên mô hình KTTT định hướng XHCN được chính thức đưa vào văn
kiện của Đảng: " Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN"
(4)
. Sự khẳng định mô hình
KTTT định hướng XHCN là mục tiêu của đất nước ta trong Đại hội IX có hai ý nghĩa sâu sắc: một là,
khẳng định tính nối tiếp của quá trình đổi mới của nước ta từ Đại hội VI; hai là, xác định rõ tính chất thị
trường, tính chất nhiều thành phần, trong đó Nhà nước không những thực thi vai trò chính trị mang bản
chất XHCN, mà còn là một thành phần kinh tế cùng với thành phần kinh tế tập thể tạo nền tảng của chế
độ kinh tế mới. Đồng thời, Đại hội IX cũng phân định kinh tế nhà nước có nội hàm rộng lớn hơn so với
doanh nghiệp nhà nước, phân định sở hữu, thành phần và hình thức tổ chức kinh doanh, phân định
quyền chủ sở hữu của Nhà nước và quyền kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Với việc chính thức
hoá các đặc điểm nêu trên, Đại hội IX đã đưa ra quan điểm mới về thành phần kinh tế nhà nước. Thứ
nhất, thành phần kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu nhà nước; thứ hai, sở hữu nhà nước có thể
nằm trong tài sản của doanh nghiệp, có thể nằm dưới hình thức khác như ngân sách nhà nước, tài sản
công…; thứ ba, chỉ với toàn bộ sức mạnh của sở hữu nhà nước hậu thuẫn cho chính sách kinh tế của
Nhà nước, cho quản lý của Nhà nước, cho doanh nghiệp nhà nước thì Nhà nước mới có thể định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế…, tức thực thi vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước. Ngoài ra, Đại hội Đảng lần thứ IX một lần nữa lại khẳng định tư tưởng công hữu phải là nền
tảng của chế độ kinh tế XHCN, nhưng quá trình hình thành nền kinh tế XHCN phải dần dần, trong đó cần
phát huy tối đa khả năng sản xuất của các thành phần kinh tế khác nhằm xây dựng nước ta thành một
nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Cùng với quá trình đổi mới, phát triển kinh tế của đất nước, sự nhận thức về tổ chức kinh tế nhà nước
của Đảng ngày càng hoàn thiện, thể hiện rất rõ nét tại Đại hội Đảng lần thứ X dưới ba khía cạnh:

Thứ nhất, Đại hội X của Đảng đã phân biệt rõ chế độ sở hữu, thành phần kinh tế và hình thức tổ chức
sản xuất, kinh doanh. Khi nói chế độ sở hữu là nói về quyền của các chủ thể đối với tài sản nằm trong cơ
cấu của cải xã hội. Chế độ sở hữu của nước ta gồm ba loại: toàn dân, tập thể, tư nhân. Như vậy, lần đầu
tiên Đảng ta thừa nhận nền kinh tế quá độ của nước ta là nền kinh tế hỗn hợp, gồm nhiều loại hình sở
hữu, mỗi chế độ sở hữu đều là yếu tố hợp thành chế độ kinh tế chung.
Thành phần kinh tế là tổng hợp sức mạnh có tổ chức của lực lượng kinh tế dựa trên một chế độ sở hữu
nhất định. Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện, xuất hiện dưới
hình thức sở hữu nhà nước. Thành phần kinh tế tập thể dựa trên sở hữu chung của một nhóm, một tập
đoàn người, một cộng đồng dân cư nhất định. Thành phần kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu của tư nhân.
Đại hội lần thứ X chỉ rõ hai thành phần kinh tế đặc biệt, đó là thành phần kinh tế tư bản nhà nước dựa
trên sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước XHCN và tư bản tư nhân. Tuy nhiên, ở đây không thể gọi nó là
thành phần kinh tế nhà nước vì nó không hoạt động trực tiếp vì lợi ích toàn dân, cũng không thể gọi nó là
thành phần kinh tế tư bản tư nhân vì nó chịu sự chi phối mang tính XHCN của Nhà nước. Ngoài ra, cần
thiết phải tách thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ra khỏi thành phần kinh tế tư nhân, nhấn
mạnh tính đặc thù của thành phần kinh tế này ở chỗ nó chịu sự chi phối của nước chủ đầu tư. Như vậy,
thành phần kinh tế không chỉ bao hàm giác độ sở hữu, mà còn bao hàm sức mạnh tổ chức, sức mạnh
hợp tác của các tổ chức kinh tế hoạt động dựa trên một chế độ sở hữu nhất định. Thành phần kinh tế
nhà nước không chỉ bao gồm doanh nghiệp nhà nước, mà còn bao hàm sức mạnh kinh tế đứng đằng
sau các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước, bao hàm khả năng tổ chức và hoạch
định chính sách đúng đắn của Nhà nước, sự gắn kết hợp lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài
chính nhà nước, luật pháp và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước đã
được hiểu tổng hợp hơn so với các kỳ Đại hội Đảng trước đây.
Hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh là sự tập hợp tư liệu sản xuất dưới một hình thức nào đó được
pháp luật thừa nhận để trực tiếp tiến hành sản xuất, kinh doanh. Nói cách khác, đó là các loại hình doanh
nghiệp khác nhau. Một doanh nghiệp có thể dựa trên một hoặc nhiều hình thức sở hữu, là công cụ trong
tay thành phần kinh tế đầu tư vốn vào doanh nghiệp để phục vụ cho mục tiêu của chủ đầu tư. Đặc biệt,
Đại hội Đảng lần thứ X nhấn mạnh tầm quan trọng của loại hình doanh nghiệp cổ phần, coi chúng là hình
thức doanh nghiệp phổ biến. Thông qua các doanh nghiệp, thông qua các tổ chức đại diện cho chế độ sở
hữu, các thành phần kinh tế phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế. Đại hội nhấn mạnh tầm quan
trọng của doanh nghiệp, doanh nhân trong phát triển kinh tế và tôn vinh những doanh nhân có tài, có

đức, thành đạt, làm giàu cho mình và cho Tổ quốc. Cùng với chính sách cho phép đảng viên được làm
kinh tế tư nhân và quyết định của Nhà nước coi ngày 13 - 10 hàng năm là ngày doanh nhân, Đảng, Nhà
nước ta đã chính thức thừa nhận vai trò to lớn của doanh nghiệp, doanh nhân nói chung, doanh nghiệp,
doanh nhân tư nhân nói riêng.
Thứ hai, Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định lại vai trò chủ đạo, nền tảng trong chế độ kinh tế XHCN của
kinh tế nhà nước: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát
triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân"
(5)
. Mặc dù khẳng định lại quan điểm của các kỳ Đại hội trước, nhưng Đại hội Đảng lần thứ X
cũng làm rõ nội hàm của khái niệm chủ đạo của kinh tế nhà nước: Một là, kinh tế nhà nước là lực lượng
vật chất giúp Nhà nước định hướng XHCN nền kinh tế quốc dân; hai là, kinh tế nhà nước là sức mạnh
đằng sau các chính sách điều tiết của Nhà nước; ba là, hoạt động của kinh tế nhà nước nhằm để tạo môi
trường chung cho mọi thành phần kinh tế, chứ không phải chỉ cho doanh nghiệp nhà nước; bốn là, khẳng
định lại một lần nữa kinh tế nhà nước có nội hàm rộng hơn doanh nghiệp nhà nước, hay nói cách khác,
doanh nghiệp nhà nước chỉ là một bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước.
Cùng với việc khẳng định vai trò to lớn của kinh tế nhà nước, Đại hội cũng tuyên bố rõ ràng rằng: “Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định
hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”
(6)

Đảng lãnh đạo Nhà nước thi hành các chính sách kinh tế không phân biệt đối xử với các hình thức sở
hữu. Đây là một bước tiến mới về quan điểm kinh tế nhiều thành phần của Đại hội Đảng X so với các Đại
hội trước đây. Hơn nữa, Đại hội chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra hoạt động trong môi
trường công khai, minh bạch, cạnh tranh thực sự, xoá bỏ độc quyền, đặc quyền sản xuất, kinh doanh và
buộc các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả mới được tồn tại. Nói cách khác, Đảng quán
triệt quan điểm doanh nghiệp nhà nước chỉ nên tồn tại ở những nơi nó có hiệu quả cá biệt hoặc hiệu quả
kinh tế quốc dân, nghĩa là tính ưu việt của quan hệ sản xuất XHCN phải được chứng minh trong môi
trường bình đẳng với các quan hệ sản xuất khác. Đại hội cũng nêu rõ các điều kiện để doanh nghiệp nhà

nước có thể phát huy ưu thế của mình, đó là doanh nghiệp nhà nước được giao quyền tài sản, được
thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo nguyên tắc thị trường và pháp luật, tạo cơ chế gắn trách nhiệm
và lợi ích của cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức
lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước hiện có… Như vậy, mặc dù vẫn nói là kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, nhưng cách thức chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện ở Đại hội Đảng lần thứ X có nhiều
điểm mới so với trước.
Thứ ba, Đại hội Đảng lần thứ X đặt kinh tế nhà nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong
môi trường thị trường đồng bộ, cạnh tranh và hội nhập. Có nghĩa là, kinh tế nhà nước nói chung, doanh
nghiệp nhà nước nói riêng phải thích nghi và buộc phải hoạt động trong môi trường KTTT, chấp nhận luật
chơi của các tổ chức kinh tế quốc tế, chấp nhận cạnh tranh trong điều kiện bảo hộ của Nhà nước giảm
đến mức tối thiểu. Cụ thể, " Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thu hẹp lĩnh
vực nhà nước độc quyền kinh doanh, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp,…Phát triển vững chắc thị trường
tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh… Phát
triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với
đất….Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế…Phát triển thị trường khoa học công nghệ
trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học, công nghệ trở thành hàng hoá"
(7)
và “ Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn
cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ đất nước làm mục tiêu cao nhất”
(8)
. Quan điểm chỉ đạo kiên
quyết này đặt ra cho quản lý của Nhà nước và doanh nghiệp những yêu cầu mới: một là, Nhà nước phải
chủ động thay đổi những phương thức hành động không phù hợp với KTTT và các cam kết quốc tế bằng
các phương thức phù hợp và có hiệu quả hơn. Để làm được như vậy, Nhà nước phải có tiềm lực tài
chính lớn, có nghĩa là vai trò của kinh tế nhà nước không giảm đi, ngược lại có thể tăng lên; hai là, doanh
nghiệp nhà nước phải được cải tổ nhanh và chuyển sang các hình thức hoạt động có hiệu quả để tồn tại
và đem lại cho Nhà nước một công cụ định hướng, điều tiết tốt. Để làm được như vậy, Đại hội chỉ rõ,
“Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần
hoá. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu

sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích…Thúc đẩy hình thành một
số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực ”
(9)
; ba là, bộ máy nhà nước phải thích ứng với vai tṛ mới theo
hướng:
- Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng vĩ mô như định hướng bằng các chiến lược, kế hoạch, quy
hoạch, cơ chế, chính sách có chất lượng trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; tạo môi
trường cho các chủ thể phát huy tối đa các nguồn lực; hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội;
bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối vĩ mô…;
- Nhà nước tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế;
- Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt
động của thị trường và doanh nghiệp;
- Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh
nghiệp, xoá bỏ “chế độ chủ quản”;
- Tách hệ thống hành chính ra khỏi hệ thống các cơ quan đơn vị hoạt động sự nghiệp;
Bốn là, đội ngũ cán bộ công chức nhà nước phải có trình độ chuyên môn giỏi hơn, chuyên nghiệp hơn và
nhất là phải thành thạo ngoại ngữ và sử dụng các phương tiện làm việc hiện đại như công nghệ thông
tin, luật pháp quốc tế
Tóm lại, quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ X về kinh tế nhà nước vừa là sự kế thừa quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lê-nin, quan điểm của các kỳ Đại hội trước, vừa phát triển lên một mức cao hơn và giải
thích rõ hơn các nội dung liên quan đến kinh tế nhà nước như mối quan hệ của nó với thành phần kinh tế
khác, cấu thành của kinh tế nhà nước, vai trò và nội dung chủ đạo của kinh tế nhà nước, phương thức
hoạt động của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường, hội nhập và quan hệ giữa nhà nước kinh tế
và nhà nước chính trị… Những điểm phát triển này tạo cơ sở lý luận và nhận thức đúng đắn cho các
đảng viên, nhất là các đảng viên giữ vai trò lãnh đạo, quản lý. Song, có thể nhận thấy, thực tiễn vận hành
kinh tế nhà nước sẽ còn đặt ra nhiều yêu cầu mới phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn chỉnh về lý luận.
d.Thành Tựu
Để đưa đất nước thoát dần ra khỏi cuộc khủng hoảng đã kéo dài hàng chục năm, tháng 12-1986,
Đại hội VI của Đảng quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện , mở ra thời kỳ mới của
phát triển kinh tế Việt Nam. Kết quả nổi bật của kinh tế Việt Nam trong gần 20 năm qua là tốc

độ tăng trưởng GDP khá cao qua các thời kỳ gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong kế hoạch 5 năm 1986-1990, tổng sản phẩm xã hội
tăng bình quân mỗi năm tăng 4,8%; thu nhập quốc dân tăng 3,9%. Sản xuất nông nghiệp, nhất là
lương thực có bước phát triển mới. Sản lượng lương thực năm 1990 đã đạt 21,5 triệu tấn, tăng
18,2% (3,3 triệu tấn) so 1985. Lương thực bình quân nhân khẩu đạt 325 kg và năm 1989 Việt
Nam đã xuất khẩu 1,42 triệu tấn gạo, đánh dấu thời kỳ chuyển đổi tính chất sản xuất từ tự cung
tự cấp sang sản xuất hàng hoá gắn với xuất khẩu gạo. Sản xuất công nghiệp có bước phát triển
mới. Một số ngành then chốt của nền kinh tế tăng trưởng khá. Đáng chú ý là sản lượng dầu thô
tăng từ 40 nghìn tấn năm 1986 lên 2,7 triệu tấn năm 1990. Hoạt động thương mại, dịch vụ khôi
phục và tăng trưởng khá. Cơ cấu kinh tế quốc dân chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Song, những
khởi sắc của nền kinh tế Việt Nam thực sự bắt đầu từ thập kỷ 90. Trong kế hoạch 5 năm 1991-
1995, nền kinh tế bắt đầu tăng tốc với tốc độ tăng GDP là 8,2%/năm, tiếp đó là kế hoạch 5 năm
1996-2000, tăng 7% dù có nhiều khó khăn do khủng hoảng tiền tệ các nước châu Á. Với tốc độ
tăng trưởng đó, đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng và bước vào thời kỳ tăng trưởng ổn định.
Tốc độ tăng GDP năm 2001 là 6,79%, 2002 là 6,89%, 2003 là 7,08%,năm 2004 là 7,69% và 6
tháng đầu năm 2005 tăng 7,7% ước cả năm là 8,5%. Các ngành sản xuất và dịch vụ đều tăng
trưởng khá. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ cao: bình quân thời kỳ
1991-2000 tăng 13,5%, thời kỳ 2001-2003 tăng 15% và năm 2004 tăng 16%, 6 tháng đầu năm
2005 tăng 15,6%. Sản xuất nông nghiệp chuyển dần theo hướng đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi
gắn với xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất không cao nhưng vẫn duy trì mức trên
5%/năm liên tục, dù cho có khó khăn về hạn hán và dịch cúm gia cầm. Hoạt động dịch vụ, nhất
là xuất nhập khẩu, du lịch phát triển và tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu
năm 2001 là 3,7%, năm 2002 là 11,2%, năm 2003 là 24,6%, năm 2004 là 28,7%, 6 tháng đầu
năm 2005 là 17,4%. Do đó, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công
nghiệp, ổn định tỷ trọng khu vực dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong GDP nhưng giá
trị tuyệt đối của từng ngành đều tăng năm sau cao hơn năm trước.
Những thành tựu trên một lần nữa khẳng định sự đúng đắn trong việc lựa chọn con đường phát
triển cho nền kinh tế nước ta.Đó chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện sự vận dụng học thuyết giá trị thặng dư

ở Việt Nam
1.Giải pháp về các chính sách vĩ mô của Nhà nước (pháp luật, thể chế, chính
sách, …)
Trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về
mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái
độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể
thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan hệ phân phối phải
được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để
điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai
chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương
châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận
thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là mức độ bóc lột được xã hội chấp
nhận, tức là làm giàu hợp pháp.
Bởi vậy chúng ta phải từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp của nhà nước xã
hội chủ nghĩa
Mỗi một chế độ chính trị, xã hội khác nhau, có một hệ thống luật pháp riêng. Hệ thống luật
pháp đó mang bản chất của giai cấp thống trị, phục vụ lợi ích kinh tế, chính trị của giai cấp
sinh ra nó. Trong quá trình đổi mới toàn diện kinh tế xã hội của đất nước, tất yếu phải xây
dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội mới. Đây là giải
pháp vừa cấp bách vừa lâu dài. Bởi vì, trước đổi mới, hệ thống luật pháp của nước ta được xây
dựng theo hướng bảo đảm hành lang pháp lý cho kinh tế quốc doanh và tập thể hoạt động sản
xuất kinh doanh là chủ yếu. Ngày nay, hệ thống luật pháp phải đảm bảo hành lang pháp lý cho
mọi thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với yêu cầu như vậy, cần tiến hành các biện pháp cụ thể sau:
- Rà soát lại hệ thống luật pháp hiện có, một mặt, loại bỏ những luật pháp không còn phù hợp,
mặt khác, kịp thời ban hành, bổ sung những luật pháp mới cho phù hợp với sự phát triển của
nền kinh tế - xã hội.

- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật cho mọi người dân thuộc mọi thành
phần kinh tế để họ tự giác chấp hành luật pháp, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát việc thực thi luật pháp của mọi thành phần kinh
tế, thưởng phạt phân minh, nhằm tăng hiệu lực của luật pháp, đồng thời, phát hiện những
khiếm khuyết của hệ thống luật pháp, để sửa đổi bổ sung kịp thời.
Các giải pháp trên, được tiến hành đồng bộ sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp, đưa nền kinh tế đa
hình thức sở hữu của nước ta phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động lẫn
giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm
công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử
dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh
những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện
trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những
quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một
bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện
nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và
xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.Giải pháp với các Doanh nghiệp, đơn vị kinh tế
Trước hết cần đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước, theo tinh thần Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba
(khoá IX) của Đảng.
Đây là giải pháp hàng đầu, giải pháp này bắt nguồn từ kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh
nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta.Trong những năm gần đây, mặc
dầu doanh nghiệp nhà nước không giữ tỷ trọng tuyệt đối trong cấu thành GDP, nhưng vẫn là
lực lượng kinh tế mạnh nhất với 39,9% GDP, đóng góp 39,2% thu ngân sách nhà nước và 50%
xuất khẩu. Vì vậy, sắp xếp, đổi mới, phát triển và phát triển nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước trở thành giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính cơ bản lâu dài. Tính cấp
bách của giải pháp này thể hiện ở chỗ, kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế về bản chất dựa
trên cơ sở sở hữu toàn dân. Thành phần kinh tế này vững mạnh tức là hình thức sở hữu toàn
dân được tăng cường, củng cố và định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Tính cơ bản của

giải pháp này thể hiện ở chỗ, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trên cơ sở đa hình thức
sở hữu là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, được duy trì trong suốt thời kỳ quá
độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy, kinh tế nhà nước mà nòng cốt là doanh nghiệp nhà nước
phải thường xuyên, liên tục giữ vững vai trò định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác.
Để giải pháp này trở thành hoạt động thực tiễn, cần thực hiện các biện pháp cụ thể sau :
- Kiên quyết thực hiện chủ trương cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê những doanh
nghiệp nhà nước đã đưa vào kế hoạch.
- Đẩy mạnh hơn nữa quá trình đổi mới cơ chế, chính sách đối với tất cả các loại hình doanh
nghiệp nhà nước, đồng thời, phân định rõ các loại hình doanh nghiệp công ích và ngoài công
ích để áp dụng các cơ chế, chính sách phù hợp.
- Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình sắp xếp, đổi mới, phát triển,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp tư nhân và các thành phần kinh tế khác cần thực hiện
nghiêm túc các văn bản pháp luật, các chế tài mà nhà nước đưa ra nhằm tạo sứ
thống nhất cao trong nền kinh tế.Đông thời cần nắm bắt và tận dụng các chính sách
mà nhà nước tạo điều kiện để phát triển, tận dụng các ưu thế từ thị trường quốc tế
và trong nước nhằm tạo ra năng suất lao động ngày càng cao.
3.Giải pháp với xã hội (người lao động, công chúng …)
Người lao động luôn là một yếu tố quan trọng trong lực lượng sản xuất vì vậy
trong thời kì quá độ xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng
xã hội chủ nghĩa, người lao động cẩn phải thể hiện vai trò chủ động học hỏi, nâng
cao trình độ tiến tới sở hữu công cụ lao động.Điều đó không chỉ có ý nghĩa quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng đời sống, giảm đói nghèo mà còn có ý nghĩa
to lớn trong việc giảm thiểu những hạn chế mà nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần tác động tiêu cực.Đồng thời với đó, người lao động cần nắm vững hệ thống
luật pháp như một công cụ mạnh mẽ để có thể phát huy vai trò dân chủ của mình
trong nền kinh tế, đóng góp cho sự phát triển của tổ chức.
Trên quy mô lớn hơn, cần ưu tiên phát triển các tổ chức công đoàn, đồng thời phát
huy vai trò của tổ chức này nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động.Thông
qua các tổ chức như thế người lao động có quyền được nói lên tâm tư nguyện

vọng, thực sự phát huy tính dân chủ trong đời sống kinh tế.

×