Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

GIAM BOT SU KHO KHAN TRONG DAY HOC LS 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.25 KB, 21 trang )

3
phòng giáo dục và đào tạo tam nông
trờng thcs hiền quan
Saựng kieỏn kinh nghieọm
"GIM BT S KHễ KHAN
TRONG DY - HC LCH S
TRNG THCS"


năm học 2010- 2011
MỤC LỤC

Nội dung Trang
Phần I: Đặt vấn đề
4
1.lý do chọn sáng kiến
4
2. Mục đích nghiên cứu
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
5
5. Phương pháp nghiên cứu
5
6. Nội dung sáng kiến
5
Phần II: Giải quyết vấn đề
6
Chương I: Cơ sở lý luận của sáng kiến
6


1. Cơ sở pháp lý
6
2. Cơ sở lý luận
6
3. Cơ sở thực tiễn
7
Chương II: Thực trạng của sáng kiến
8
1. Khái quát phạm vi sáng kiến
8
2. Thực trạng của sáng kiến
8
3. Nguyên nhân của thực trạng
9
Chương III: Biện pháp và giải pháp chủ yếu của sáng kiến
9
1. Cơ sở dề xuất các giải pháp
9
2. Các giải pháp chủ yếu
9
3. Tổ chức triển khai thực hiện
19
Phần III: Kết luận và kiến nghị
20
1. Kết luận
20
2. Kiến nghị
20
Tài liệu tham khảo
21

4
PH ẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn sáng ki ến
Để gây hứng thú cho học sinh trong giờ học lòch sử, để khắc sâu, để nhớ lâu
các sự kiện lòch sử người giáo viên lòch sử cũng cần quan tâm các môn học lân cận
hổ trợ cho bài học lòch sử. Ví như một câu thơ, một đoạn thơ hay một câu trích dẫn
…để các em sống lại trong cái tinh thần lòch sử không khí của lòch sử đương thời .
Trong khi một bản đồ trận đánh , một mô hình, một bức tranh ve,õ một bức ảnh
chụp … chỉ mới thỏa mãn được một phần . Để khắc sâu, để lắng động , để trở
thành tri thức học sinh còn khao khác một cái gì đó chạm đến tâm linh , lắng vào
tiềm thức, các em có thể tìm lại sự kiện lòch sử trong kho sách vở, có thể thấy lại
thời gian qua cuốn biên niên sử. Nhưng còn cái thần thái của lòch sử, cái không
khí lòch sử hào hùng, cái tâm huyết, cái tầm của thời đại … Cái mà học sinh cũng
đang chờ đợi ở người giáo viên dạy môn lòch sử.
Người giáo viên lòch sử phải biết sử dụng đến kiến thức các môn học lân cận
như đòa lí, giáo dục công dân song người giáo viên lòch sử có thể sử dụng cả văn
học và các nguyên lý về sản xuất thậm chí cả môn vật lý , hoá học …Những bộ
môn lân cận sẽ làm phong phú tri thức học sinh về bộ môn lòch sử và chính bộ
môn lòch sử sẽ giúp để các bộ môn láng giềng khác. Người giáo viên lòch sử cần
quan tâm tới sự tác động lẫn nhau của các môn học.
Vì vậy trong khoá trình lòch sử phải biết kết hợp một số câu trích dẫn, một câu
văn, câu thơ … để miêu tả, để tường thuật một sự kiện, một cuộc đời hoạt động
của nhân vật, một cuộc cách mạng, một cuộc đấu tranh … điều đó làm cho giờ học
lòch sử sống động hơn, hấp dẫn học sinh hơn , học sinh sẽ yêu thích, hứng, say mê
học tập môn lòch sử và sẽ làm bớt đi sự khô khan của giờ học môn lòch sử. Từ
5
những vấn đề trên tôi quyết đònh chọn đề tài “Hãy giảm bớt sự khô khan trong
dạy học lòch sử ở trường trung học cơ sở”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng trong dạy học môn lòch sử từ đó tìm ra phương pháp dạy

học theo hướng tích cực để giảm bớt sự khô khan trong giờ học lòch sử.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cức: Là thực trạng dạy học lòch sử của giáo viên ở trường
trung học cơ sở.
Phạm vi nghiên cứu : Trường trung học cớ sở Hiền Quan gồm :giáo viên đã và
đang giảng dạy môn lòch sử .
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng công tác giảng dạy môn lòch sử ở trường trung học cơ sở
Hiền Quan g điều kiện giáo dục hiện nay.
Tổ chức thử nghiệm biện pháp dạy học liên môn để giảm bớt sự khô khan
trong giờ học lòch sử .
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn lòch sử ở
trường trung học cơ sở.
5. Phương pháp nghiên cứu .
Phương pháp nghiên cứu tài liệu và các văn bản về lý luận có liên quan đến đề
tài
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm .
Phương pháp thực nghiệm sư phạm .
6. Nội dung đề tài.
Giảm bớt sự khô khan trong dạy học lòch sử ở trường trung học cơ sở bằng cách
dẫn chứng những câu thơ, câu văn hay đoạn trích dẫn có liên quan đến sự kiện
lòch sử, bài học lòch sử.
6
PH ẦN II. GI ẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở pháp lý .
Môn lòch sử vốn có vò trí, ý nghóa quan trọng đối với giáo dục thế hệ trẻ. Từ
những hiểu biết về quá khứ học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc. Tự hào với
những thành tựu dựng nước của tổ tiên, xác đònh vò trí trong hiện tại, có thái độ

đúng đối với sự phát triển hợp quy luật của tương lai. Trong Nghò quyết Hội nghò
Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ hai khoá VIII(tháng 2/1997)đã khẳng
đònh vai trò của môn lòch sử, cùng các môn khoa học xã hội khác trong công tác
giáo dục.
Không những ngày nay Nhà nước mới quan tâm đến giáo dục mà ngay từ năm
1998 luật giáo dục cũng đã xác đònh “phương pháp giáo dục phải phát huy tính
tích cực của học sinh , bồi dưỡng năng lực học tập có lòng say mê học tập có ý
thức vươn lên “
Cũng như các môn học khác đặc điểm và chức năng của mình việc học tập lòch
sử lại cần phát huy năng lực tích cực của học sinh
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đã được Đảng và Nhà nước xác đònh, hoàn
chỉnh, bổ sung qua các thời kì.
2/ Cơ sở lí luận:
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của việc dạy học
ở tường phổ thông nói chung, môn lòch sử nói riêng. Đối với môn lòch sử mà chức
năng là cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình phát triển của xã hội loài
7
người, việc nắm vững các sự kiện lòch sử liên quan chặt chẽ với hiểu biết tri thức
về nhiều môn khoa khọc xã xội và nhân văn và cả khoa học tự nhiên là yêu cầu
quan trọng.
Việc dạy học liên môn đòi hỏi giáo viên lòch sử không chỉ có kiến thức vững
vàng về bộ môn mà còn phải nắm nội dung chương trình các môn học ở trường
phổ thông như: Đòa lí, giáo dục công dân, văn học đặc biệt là một số câu văn, câu
thơ, câu trích dẫn…có liên quan đến sự kiện lòch sử.
Việc sử dụng một số câu văn, thơ, câu trích dẫn để giảng dạy lòch sử cũng là
một hình thức dạy học liên môn.
3. Cơ sở thực tiễn
Từ nội dung và bản chất của quá trình dạy học không chỉ truyền đạt cho học
sinh những kiến thức sự kiện lòch sử một cách hời hợt cảm thấy khô khan trong
giờ học lòch sử mà cần phải làm cho giờ học đó sống động, học sinh hứng thu học

tập hơn. Trong thực tế những giờ học lòch sử có dẫn dắt một số câu thơ, câu văn,
câu trích dẫn…minh họa cho một sự kiện lòch sử, bài học lòch sử thì giờ học đó sinh
động hơn, hấp dẫn học sinh hơn giờ học đạt hiệu quả cao hơn.
Trong dạy học dùng thơ văn làm cho học sinh có vai trò tích cực, chủ động
trong việc học tập, qua đó các em chủ động huy động những kiến thức đã học để
hiểu sâu, toàn diện một sự kiện lòch sử, đồng thời học sinh còn ôn tập, cũng cố,
tổng hợp các kiến thức ở mức độ cao hơn.
8
Chương II
THỰC TRẠNG CỦA SÁNG KIẾN
1. Khái quát phạm vi
Trường trung hoc cơ sở An Dương Vương là một trường đóng tại đòa bàn miền
núi thuộc xã An Thọ, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Xã có diện tích là 4274 ha
gồm 5 thôn : Phú Cần, Phú Mỹ, Lam Sơn, Kim Sơn, Quảng Đức. Theo thống kê
năm 2007 xã An Thọ có 785 hộ với 3729 nhân khẩu, 1828 Nam, 1901 Nữ.
Trường gồm 8 lớp với tổng số học sinh của trường là 240 em, số giáo viên và
công nhân viên là 22. Trường gồm có 3 tổ : tổ Sử-Đòa, tổ Toán- Lí -Hoá Thể Dục,
tổâ Văn- Ngoại Ngữ - Nhạc Hoạ trong đó tổ Sử- Đòa có 5 giáo viên và một công
nhân viên.
Trường THCS An Dương Vương cơ sở vật chất còn nghèo nàn, học sinh đa số
là con gia đình có hoàn cảnh khó khăn, học sinh phần lớn sống rải rác ở các thôn,
đường xá đi lại khó khăn phần nào cũng ảnh hưởng đến việc học tập, tuy có sự
khó khăn trên thầy và trò trường THCS An Dương Vương không ngừng phấn đấu
vươn lên và đạt một số thành tích như: Giáo viên dạy giỏi cấp huyện đặc biệt từ
năm học 2006-2008 tổ Sử Đòa có 2 giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp huyện
thuộc các môn lòch sử và môn đòa lí.
2. Thực trạng của sáng kiến
Trong việc dạy học lòch sử ở trường nói chung và ở trường học cơ sở nói riêng
mỗi người giáo viên dạy một môn học khác nhau và ai cũng lo lắng việc tiếp thu
kiến thức của học sinh về chính bộ môn mình phụ trách. Học sinh đã nghiên cứu

cái gì, đang nghiên cứu cái gì và sẽ nghiên cứu cái gì về bộ môn khác. cái đó
dường như không làm cho chúng ta quan tâm tới .Nhưng thực ra thiếu bộ môn
9
khác thì công việc của người giáo viên bộ môn sẽ không ổn , cũng như hàng loạt
các bộ môn khác không thể thiếu bộ môn của chúng ta.
3. Nguyên nhân của thực trạng:
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ thăm lớp học hỏi kinh nghiệm ở các đồng
nghiệp của trường THCS An Dương Vương tôi nhận thấy trong tiết học lòch sử
hầu như giáo viên chỉ tường thuật nhồi nhét các sự kiện lòch sử cho học sinh làm
cho giờ học trở nên cứng nhắc và khô khan, làm cho học sinh chán nãn và thậm
chí không yêu thích bộ môn lòch sử, dẫn đến kết quả của bộ môn không cao.
Bên cạnh đó học sinh chưa đầu tư cho môn học lòch sử vì cho rằng môn học
này là môn học phụ
Chương III
BIỆN PHÁP VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CỦA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở đề xuất các giải pháp
Để khắc phục thực trạng nói trên, để nâng cao chất lượng dạy và học môn lòch
sử người giáo viên phải biết sưu tầm tài liệu, tranh ảnh… đặc biệt những câu thơ,
câu văn, những câu trích đẫn để phục vụ tiết học lòch sử không bò khô khan
2.Các giải pháp chủ yếu:
Để đáp ứng những vấn đề nêu trên trong bài viết này tôi chỉ đi sâu vào gốc độ,
một khía cạnh của vấn đề là việc sử dụng câu thơ, câu văn, đoạn trích dẫn để
giảm bớt sự khô khan trong dạy học lòch sử ở trường trung học cơ sở, qua khoá
trình lòch sử Việt Nam theo cấu tạo chương trình hiện hành.
Thứ nhất: Trong chương trình lòch sử lờp 6
- Khi dạy bài12 “ Nước Văn Lang “
10
Nhu cầu chống ngoại xâm đã trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự lớn
mạnh nhanh chóng của xã hội Văn Lang đương đầu với kẻ đi xâm lược, khi chống
giặc thì đã “vụt lớn nhanh như thổi”

“Ôi sức trẻ! Xưa trai Phù Đổng
Vươn vai, lớn bổng dậy ngàn cân
Cưỡi con ngựa sắt bay phun lửa
Nhổ bụi tre làng đuổi giặc n”.
(Tố Hữu- Theo chân Bác)
-Hay nói sự phân chia các tầng lớp trong thời kỳ nước u Lạc
“Quậy ủ chủ tươi, quậy cười chủ khóc”
- Khi xác đònh mục tiêu khởi nghóa Hai Bà Trưng (năm 40) khi trình bày những
diễn biến cuộc khởi nghóa giáo viên đọc luôn 4 câu thơ:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẹn vẹn sở công lên này”
- Trong bài19 ” Từ sau Trưng Vương đến trước Lý Nam Đế” ở phần sự phát
triển kinh tế xã hội và văn hoá nước ta các thế kỉ I-VI, giáo viên có thể minh họa:ï
“Trích quang nhân nghóa đạo hành
Só vương mở việc học hành chữ nho
Nhâm bày cho các nông gia
Biết dùng cày cuốc trâu bò làm nông”
- Ở Bài 20 mục 4” Cuộc khởi nghóa Bà Triệu (năm 248). vơi câu nói khẳng
khái :”Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi,
đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chòu khom
lưng làm tì thiếp người “. Để nói lên lòng tôn kính và ủng hộ của nhân dân đối với
bà Triệu với câu ca dao:
11
“ Ru con con ngủ cho lành,
Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi.
Muốn coi lên núi mà coi,
Có bà Triệu tướng cưỡi voi đánh chồng”
Hay giặc Ngô khiếp sợ bà :

“ Hoành qua đương hổ dò
Đối diện Bà Vương nan”
-Khi dạy bài27” Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938”
Trước khi người giáo viên tường thuật trận đánh, cần phải mô tả việc Ngô
Quyền nhận đònh tình hình đòch ta và đã có chiến thuật phù hợp :”Hoàng thao là
một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe được Công Tiễn
đã chết, không có ai làm nội ứng đã mất vía trước rồi. Quân ta sức mạnh đối đòch
với quân mỏi mệt tất phá được. Song họ có lợi ở thuyền nếu ta không phòng bò
trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng
ngầm ở cửa biển trước vạt nhọn đầu mà bòt sắt thuyền của họ nhân khi nước triều
lên tiến vào bên trong hàng cọc bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế
ấy cả “
Điều đó sẽ thu hút sự chú ý gây hứng thú cho học sinh tiếp cận bộ môn lòch
sử với tư cách là một môn khoa học, giúp học sinh nhớ lại thời kì quá khứ cùng
với bàø Trưng, bà Triệu, Ngô Quyền phục hưng đôïc lập cho dân tộc.
Thứ hai: trong chương trình lòch sử lớp 7
- Khi giảng dạy bài11:” Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống(1075-
1077)
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống kết thúc với thắng lợi hoàn toàn
thuộc về dân tộc ta. Độc lập chủ quyền và lãnh thổ của tổ quốc được giữ vững.
Mộng tưởng xâm lược của nhà Tống hoàn toàn bò tiêu tan. Trong khí thế vươn lên
12
của dân tộc để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược. Lý Thường Kiệt đã viết
lên bài thơ bất hủ:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên đònh phận tai thiên thư.
Như hà nghòch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẵng hành khang thủ bại hư.”
Dòch là : “ Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rành rành đònh phận ở sách trời.

Cớ sao lủ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bò đánh tơi bời.”
-Khi dạy bài14 :” Ba lần kháng chiến chống xâm lược Mông-Nguên thế kỉ
XVIII
Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) vô cùng gay go, ác liệt nhưng thất bại
của quân thù vì thế càng nhục nhã hơn và thắng lợi của dân tộc ta lại càng vang dội.
Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết qua cuộc kháng chiến này đã được ghi vào lòch sử
như những chiến công ch
Ba lần kháng chiến thắng lợi ta đã tiêu diệt hàng chục vạn quân xâm lược, làm
cho kẻ thù phải khiếp sợ, không giám xâm lựơc đến nước ta. Với tâm trạng bi đát
của người lính già trong quân đội Nguyên đã từng nếm mùi thất bại
“ Lính già từng trải mùi chinh chiến
Nghe nói nam chinh ủ mặt mày”
(Thơ Ngyễn Trung Ngạn )
Và đây cũng là nổi lo âu của một sứ thần nhà Nguyên khi bước chân vào nước
Việt:
“Bóng loè gươm sắt lòng thêm đắng
Tiếng rộn trống đồng tóc đóm hoa”
13
(Thơ Trần Phu)
- Bài 19” Khởi nghóa Lam Sơn(1418-1427)”
Nghóa quân Lam Sơn bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với quân thù,
trong tương quan lực lượng vô cùng chênh lệch, từ tay không mà xây dựng lực
lượng. Lúc mới khởi sự quân không quá 2000 người, đó là lúc:
“Cơm không ăn đủ hai bữa
o không phân biệt độỊ”

Hay “ Khi linh sơn hét mấy tuần
Khi khôi huyện quân không một đội”
Nhưng nghóa quân vẫn một lòng tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu vì

độc lập dân tộc.
“Việc nhân nghóa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Không đầy một tháng chiến dòch Chi Lăng –Xương Giang tiêu diêt hoàn toàn
10 vạn quân tiếp viện của nhà Minh. Đó là một chiến thắng hết sức oanh liệt và
triệt để. Cả chiến dòch là một đoàn tiến công liên tục, chủ động với lối đánh cực
kì mưu trí, sáng tạo của nghệ thuật quân sự “Lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh
mạnh “ và với khí thế dũng cảm vô song.
“Đánh trận đầu sạch sanh kình ngạc
Đánh trận nữa tan tác chim muôn
Lỗ kiến xoi, đê vỡ phá tung
Gió mạnh thổi, lá khô trút sạch”
Điều đó chứng tỏ rằng vào thế kỉ thứ XV, dân tộc Việt Nam là một dân tộc
trưởng thành, có ý thức dân tộc sâu sắc, có sức sống phi thường và năng lực sáng
tạo phong phú. Đó là một dân tộc đã có hàng ngàn năm lòch sử đấu tranh dựng
14
nước và giữ nước, đã có năm thế kỉ sống độc lập hoàn toàn với tư cách là một
quốc gia tiên tiến, không một thế lực xâm lược nào có thể khuất phục nổi:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Cõi bờ sôn núi đã riêng
Phong tục Bắc- Nam cũng khác
Trải…Đinh,Lý trần nối đời dựng nước
Cùng Hán,Đường,Tống,Nguyên đều chủ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu”
( trích Bình ngô đại cáo)
- Bài25” Phong tràoTây Sơn” phần IV, mục 2” Tây Sơn đại phá quân
Thanh(1789)”
Khi Giáo viên trình bày trước thế mạnh của giặc quân Tây Sơn do Ngô Văn

Sở chỉ huy, theo kế hoạch của Ngô Thì Nhậm rút khỏi Thăng Long về xây dựng
phòng tuyến Tam Điệp –Biện Sơn. Để học sinh hiểu được vò trí Tam Điệp giáo
viên dẫn hai câu thơ của Ngô Thì Só:
“Đoạn trụ quần sơn nhãn giới khoan
Ngư đồng thiên khổng cửa trùng quan”
(Đứng nhìn rạng núi mênh mông
Cửa trời miệng đó trấn hùng một phương)
Trước khi xuất phát Quang Trung mở tiệc khao quân và tuyên bố: “Nay hãy
làm lễ ăn tết Nguyên Đán trước, đợi đến sang xuân, ngày mồng bảy vào Tăng
Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta có đúng thế không?”. Trước
đó trong lời dụ tướng só tại Thanh Hoá Quang Trung cũng đã nói lên quyết tâm sắt
đá đánh tan quân ngoại xâm để bảo vệ nền đọc dân tộc :
“Đánh cho để dài tóc
15
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc sơn hà chi hữu chủ”û
Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời đã ghi lại không khí tưng bừng của
ngày chiến thắng khi Quang Trung Hoàng đế tiến vào kinh đô Thăng Long.
“Đầy thành già trẻ mặt như hoa
Chen vai khoác cánh cùng nhau nói
Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta”
- Khi dạy bài27”Chế độ phong kiến nhà Nguyễn
Giáo viên có thể khái quát tình cảnh xác xơ của đời sống xã hội trong thời nhà
Nguyễn như:
”Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp tướp
Ngày thê lương nặng giọt mưa sa
Đèn con con gon chiếc chiếu lôi thôi
Đêm tòch mòch soi chung vừng trăng tỏ”

Thứ ba:Chương trình lòch sử lớp 8
- Trong bài 24
Để biểu lộ sự phản đối thỉnh nộ của quanà chúng đối Vua tôi nhà Nguyễn, giáo
viên minh hoạ:
“Tò te kèn thổi tiếng năm ba
Nghe loạt vào tai luống xót xa.
Uẩn khúc sông rồng mù mòt khói
Vẳng ve thành phụng ủ sầu hoa
Tan nhà cám nổi câu ly hận
Cắt đất thương thay cuộc giảng hoà
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ
16
Ngậm cười hết nói nổi quan ta.”
(Phan Văn Trò- Cảm Khái)
Hoặc:
“…Thà thua xuống láng xuống bưng
Kéo ra hàng giặc lỗi chung quân thần”
Khi nêu tấm gương Nguyễn Trung Trực đã đấu tranh anh dũng qua hai trận
đánh đắm tàu Ét-pê-răng trên sông Nhật Tảo (10/12/1861), tiêu diệt đồn kiên
Giang(6/1868) giáo viên đọc hai câu thơ ca ngợi:
“Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên đòa
Kiếm bạc Kiên Giang khóc quỷ thần”
Hoặc:
“Anh hùng cường cảnh phương danh thọ,
Tu sát đê đầu vò tử nhân…”
Dòch :
”Anh hùng cứng cổ danh còn mãi,
Thẹn chết bao nhiêu lũ cúi đầu…”
(Huynh Mẫn Đạt-điếu)
- Mục 1, phần II, bài 25”kháng chiến lan rộng ra toàn quốc(1873-1884)

Giáo viên đọc cho học sinh thấy được sự phản đối mạnh mẽcủa nhân dân sau
Hiệp ước Giáp Tuất 1874 lúc này nhân dân không chỉ chống giặc Tây mà chống
cả Triều đình
“Dập dìu trống đánh cờ xiêu
Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”
-Trong bài29: chính sách khai thác thuộc đòa của thực dân Pháp và những
chuyển biến về kinh tế xã hội ở Việt Nam. Khi phân tích cuộc sống của người
công nhân dưới thời Pháp thuộc, có thể minh hoạ:
“Cao su đi dễ, khó về
17
Khi đi mất vơ khi về mất con”
Hoặc:
“ Cao su xanh tốt lạ thường
Mỗi cây bón một xác người công nhân”
Khi trình bày chính sách bóc lột của thực dân Pháp có thể dẫn:
“Trời đất hởi! Dân ta khốn khổ
Đủ các đường thuế nọ, thuế kia
Lưới vây chài quét trăm bề
Róc xương, róc thòt, còn gì nữa đâu!”
(Nguyễn Phan Lãng – Thiết Tiền Ca)
-Trong bài 30: Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế kỉ XX đến năm
1918, ở phần II, mục3 Những hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi ra đi tìm
đường cứu nước. Những ngày tháng sống ở Anh làm công việc cào tuyết trong một
trường học:
“Và sương mù thành Luân Đôn.
Người có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm đông”
Những ngày tháng sống ở Pa ri giá lạnh “Một viên gạch hồng Bác chống lại cả
một mùa đông băng giá”
Thứ tư: Chương trình lòch sử lớp 9

-Trong bài16: Hoạt động của Nguyễn i Quốc ở nước ngoài (1919-1925)
Nguyễn i Quốc đã bôn ba khắp năm châu, bốn biển để tìm con đường giải
phóng cho dân tộc, đem lại ấm no cho nhân dân. Câu chuyện cảm động khi
Nguyễn i Quốc đọc “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc đòa” của
Lênin. Nguyễn i Quốc bật khóc :
“Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
18
Bốn bức tường im, nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.”
(Chế Lan Viên)
- Khi dạy bài 22: Cao trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghóa năm 1945, mục
I- Mặt trận Việt Minh ra đời.
Sau những nyày bôn ba năm 1941. Nguyễn i Quốc trở về tổ quốc
Giáo viên minh hoạ :
“Bác đã về đây tổ quốc ơi
Nhớ thương hòn đất ấm hơi người
Ba mươi năm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi”
(Tố Hữu-Theo chân Bác)
- Bài 27, mục II-chiến dòch Điện Biên Phủ. Với tinh thần tất cả cho tuyền
tuyến, tất cả để chiến thắng được thể hiện qua bài thơ “Hoan ho chiến só điện
biên”
“Năm mươi sáu ngày đêm
Khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng chí không mòn”
Với gương hi sinh của Tô Vónh Diện, Nguyễn Văn Chức:
“Những đồng chí chèn lưng kéo pháo
Nát thân nhăm mắt còn ôm “
Nói về công binh:

“Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất đònh mở đường cho xe ta ra chiến trường tiếp viện”
19
- Khi trình bày quyết tâm của Bôï chính trò giải phóng quân miền Nam trong
năm 1975, người giáo viên có thể minh hoạ câu thơ sau:
“Anh ra đi dặn thắng mới về
Phút giây cảm động nói năng chi
Lời anh là cả lời non nước
Nghìn dặm trường sơn sá ngại gì”
(Lê Đức Thọ)
- Bài 30: Hoàn thành giải phóng Miền Nam giải phóng đất nước. Ngày
30/4/1975 là ngày hội của cách mạng, quần chúng đổ xô xuống đường với cờ hoa
lộng lẫy, ngày toàn thắng đã về ta, ngày giang sơn thu về một mối :
“Ôâi buổi trưa nay tuyệt tràn nắng đẹp
Bác Hồ ơi toàn thắng đã về ta
Chúng con đến xanh ngời ánh thép
Thành phố tên người lộng lẫy cờ hoa”
(Tố Hữu)
Các tác phẩm văn học trên đây, bằng những hình tượng cụ tthể, có tác động
mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm người đọc qua các bài học lòch sử.
3/ Tổ chức triển khai thực hiện:
Đề tài này được áp dụng rộng rải cả cấp học, ở các lớp 6,7,8,9 chủ yếu là
chương trình lòch sử Việt Nam

20
PH ẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trong dạy học lòch sử ở trường trung học cơ sở, giáo viên phải hết sức chú
trọng việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lòch sử, bởi vì các tác phẩm văn
học sẽ góp phần quan trọng cho bài giảng lòch sử sinh động, hấp dẫn, nâng coa

hứng thú học tập lòch sử cho học sinh.
Thơ, văn, đoạn trích là rất phong phú, song người giáo viên phải biết chọn lọc
những câu tiêu biểu, ăn khớp phản ánh lòch sử có trong bài học, thì sẽ gây kích
thích, hứng thú phát triển tư duy lòch sử cho học sinh, nhất là phải tìm được những
đoạn văn, câu thơ, đoạn trích dẫn … hoà nhập với sự kiện lòch sử, đưa ssụ kiện lòch
sử ấy thẩm thấu vào trí nhớ và tâm hồn các em.
Dùng thơ, văn, đoạn trích … dù một chút thôi vào những lúc cần thiết sẽ có tác
dụng lớn lao trong dạy học lòch sử. Chính một chút ấy đã đánh thức, khơi lên biết
bao hoài cảm về ước mơ, góp phần cho việc hình thành nhân cách học sinh.
Việc dạy học dùng thơ văn để giảng dạy lòch sử là rất quan trọng góp phần bổ
sung làm phong phú thêm nội dung bài học
2. Kiến nghò:
Để đạt hiệu quả tốt hơn khi sử dụng một số câu văn, thơ day học lòch sử giáo
viên cần sưu tầm và có chọn lọc.
Thực hiện phải linh hoạt, không bắt buộc.
* Tôi sẽ chòu trách nhiệm về đề tài này.
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa và sách giáo viên lòch sử 6,7,8,9
- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kỳ III (2004-
2007) môn lòch sư quyển 2, NXB Giáo dục
- Phan Ngọc Liên (chủ biên) Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy
học lòch sử ở trường trung học cơ sở, NXB Giáo dục- 1999
- Trương Hữu Quýnh (chủ biên) Đại cương lòch sử Việt Nam, tập I, NXB
Giáo dục-1999
- Nguyễn Bích Thuận (chủ biên) Tác giả tác phẩm cổ điển Nguyễn Trãi,
NXB Đồng Nai
- Thơ của Nguyễn Trung Ngạn; Cao Bá Quát; Phan Văn Trò; Nguyễn Phan
Lãng; Chế Lan Viên; Tố Hữu; Lê Đức Thọ;
22

23

×