Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.9 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
Chứng khoán và thị trường chứng khoán là một bộ phận gắn liền với
nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào hoạt
động từ tháng 7 năm 2000 là sự kiện đánh dấu bước phát triển trong quá
trình đổi mới nền kinh tế và hội nhập quốc tế của kinh tế Việt Nam. Tuy đã
chính thức vận hành được hơn 6 năm nhưng nhìn chung thị trường chứng
khoán vẫn được xem là lĩnh vực mới mẻ ở nước ta. Nghiên cứu các quy định
của pháp luật hiện hành về chào bán chứng khoán có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc.
B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Khái niệm chứng khoán
1.1. Định nghĩa chứng khoán
Theo quan điểm truyền thống, chứng khoán là phương tiện xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với vốn của tổ
chức phát hành. Như vậy nói đến chứng khoán là nói đến các quyền tài sản.
Đó có thể là quyền của chủ nợ đối với người sở hữu chứng khoán, cũng có thể
là quyền của người mua chứng khoán đối với phần vốn của công ty. Về bản
chất nó chính là sự thể hiện quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và vốn bằng tiền
Bài tập lớn học kì môn Luật chứng khoán
trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong các hoạt động kinh tế
khác.
Ở Việt Nam, khái niệm chứng khoán được quy định tại Luật Chứng
Khoán 2006- điều 6. Theo đó, “chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền
và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản và phần vốn của tổ chức
phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi
sổ hoặc dữ liệu điện tử bao gồm các loại sau đây
a)Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b)Quyền mua cổ phần,chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán,
hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán”


1.2. Đặc điểm của chứng khoán
Thứ nhất, chứng khoán có tính sinh lời. Điều đó có nghĩa là nó đem lại
cho người sở hữu một khoản thu nhập trong một thời gian nhất định. Thu
nhập này được đảm bảo bằng lợi tức được phân chia hàng năm hoặc việc tăng
giá của chứng khoán trên thị trường.
Thứ hai, chứng khoán có tính thanh khoản cao. Đặc điểm này thể hiện
ở khả năng nhanh chóng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại.
Tính thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc vào từng loại chứng khoán, uy
tín của chủ thể phát hành và biến động của thị trường.
Thứ ba, tính rủi ro của chứng khoán. Chứng khoán là một loại tài sản
tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro. Có nghĩa là nhà đầu tư
có thể không được hoàn lại đủ số tiền ban đầu đã bỏ ra đầu tư vào chứng
khoán. Trong đầu tư chứng khoán, rủi ro được hiểu là sự sai biệt giữa lợi ích
thực tế so với mức sinh lời kỳ vọng, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro
không hệ thống.
Thứ tư, chứng khoán có tính tư bản giả, đó là tính không đồng nhất
giữa thị giá và mệnh giá của chứng khoán.
1.3. Phân loại chứng khoán
Nguyễn Quỳnh Anh- KT33D030
2
Bài tập lớn học kì môn Luật chứng khoán
Giống như các loại hàng hoá khác, chứng khoán rất đa dạng, phong phú
về chủng loại và hình thức. Để phân loại chứng khoán người ta thường dựa
vào một số tiêu chí khác nhau như:
Căn cứ vào chủ thể phát hành, chứng khoán gồm hai loại: chứng khoán
của doanh nghiệp và chứng khoán của Chính phủ.
Căn cứ vào bản chất, chứng khoán gồm hai loại: chứng khoán vốn và
chứng khoán nợ.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa chủ thể phát hành và chủ sở hữu chứng
khoán có: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và một số chứng khoán

phái sinh như chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng
tương lai.
- Cổ phiếu: Đây là loại chứng khoán rất quan trọng cho việc tạo lập
cũng như đi vào hoạt động của thị trường chứng khoán. Có nhiều định nghĩa
khác nhau về cổ phiếu. Theo quy định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam:
“cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với một phần vốn góp cổ phần của tổ chức phát hành” .
- Trái phiếu: Đây là chứng khoán nợ do doanh nghiệp hoặc Chính phủ
phát hành xác nhận quyền của chủ sở hữu đối với khoản nợ của chủ thể đó.
Khoản nợ được tổ chức phát hành cam kết trả lại cho chủ sở hữu tại một thời
điểm trong tương lai với một khoản lãi nhất định. Trái phiếu cũng có nhiều
loại như trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền
địa phương.
- Chứng chỉ quỹ đầu tư: Đây là một loại chứng khoán đặc biệt. Theo
quy định của pháp luật nước ta, đây là loại “chứng khoán xác nhận quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư đối với phần vốn góp của quỹ đại chúng”.
Ngoài ba loại chứng khoán chủ yếu trên còn có các loại chứng khoán
phái sinh. Đây là loại chứng khoán phát sinh từ hoạt động giao dịch chứng
khoán và được chuyển đổi sang chứng khoán thông qua hành vi giao dịch trên
thị trường. Hiện nay có ba loại chứng khoán phái sinh phổ biến là chứng
Nguyễn Quỳnh Anh- KT33D030
3
Bài tập lớn học kì môn Luật chứng khoán
quyền, bảo chứng phiếu, hợp đồng quyền lựa chọn. Tại Việt Nam, theo Luật
Chứng Khoán 2006 có một số loại chứng khoán phái sinh như: chứng quyền,
quyền mua cổ phần, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai.
2. Chào bán chứng khoán
2.1. Khái niệm về chào bán chứng khoán
Chào bán chứng khoán được hiểu là việc đưa chứng khoán vào giao
dịch tại thị trường chứng khoán sơ cấp. Tại đây vốn của nhà đầu tư sẽ được

chuyển giao cho tổ chức chào bán thông qua việc nhà đầu tư mua chứng
khoán. Phải nói rằng chỉ có hoạt động chào bán mới làm tăng hàng hoá cho
thị trường chứng khoán. Hơn thế, thông qua hoạt động chào bán, tổ chức chào
bán mới có thể thành lập, tăng vốn điều lệ phục vụ nhu cầu kinh doanh hoặc
bù đắp sự thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước.
2.2. Phương thức chào bán chứng khoán
a. Xét theo cách thức phân phối chứng khoán, có bốn phương thức chào bán
chứng khoán:
Thứ nhất, phương thức bán trực tiếp. Theo phương thức này, tổ chức
chào bán chứng khoán đến tay nhà đầu tư.
Thứ hai, phương thức bán thông qua đại lý. Theo đó, các tổ chức trung
gian- bên nhận đại lý- sẽ ký kết hợp đồng với tổ chức chào bán để bán chứng
khoán của họ trên thị trường sơ cấp.
Thứ ba, phương thức bán thông qua đấu thầu. Theo đó, có một hoặc
một số nhà thầu được lựa chọn, cam kết sẽ phân phối hết số chứng khoán với
điều kiện nhà thầu được hưởng một tỷ lệ phần trăm nhất định theo kết quả của
đợt chào bán.
Thứ tư, phương thức bảo lãnh phát hành. Theo phương thức này có một
hoặc một số tổ chức bảo lãnh sẽ đứng ra giúp tổ chức chào bán thực hiện các
thủ tục trước khi chào bán chứng khoán. Sau đó tổ chức bảo lãnh nhận mua số
chứng khoán để bán lại hoặc nhận mua số chứng khoán còn lại sau đợt phát
hành.
Nguyễn Quỳnh Anh- KT33D030
4
Bài tập lớn học kì môn Luật chứng khoán
b. Xét theo điều kiện được chào bán trên thị trường sơ cấp, có hai phương thức
phát hành:
Thứ nhất, chào bán riêng lẻ. Chào bán riêng lẻ là phương thức chào bán
chứng khoán trong đó chỉ một số lượng nhà đầu tư nhất định được mua với
những điều kiện hạn chế, không tiến hành rộng rãi ra công chúng và tổ chức

chào bán không phải công khai thông tin.
Thứ hai, chào bán chứng khoán ra công chúng. Đây là hình thức chào
bán chứng khoán rộng rãi đến đại bộ phận công chúng đầu tư.
II. Pháp luật về chào bán chứng khoán của tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của
Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. Để tăng quy mô
vốn cho các hoạt động tín dụng và các dịch vụ tài chính khác, tổ chức tín
dụng có thể chào bán trái phiếu. Trước đây, theo Quyết định 212/1994/QĐ-
NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 22/9/1994 về việc ban hành
thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, ngân hàng đầu tư và phát triển thì chỉ có
các NHTM, ngân hàng đầu tư được phát hành trái phiếu với những điều kiện
phát hành, trình tự thủ tục chặt chẽ. Quy định này đã hạn chế việc tăng vốn
của các tổ chức tín dụng.
Ngày 22/11/2002, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết
định 1287/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế giấy tờ có giá của tổ
chức tín dụng huy động vốn trong nước. Trong số các giấy tờ có giá, trái
phiếu là loại chứng khoán mà tổ chức tín dụng được phát hành để huy động
vốn. Nghị định 52/2006/NĐ-CP được Chính phủ ban hành ngày 19/5/2006,
chỉ điều chỉnh hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ bổ sung vốn tự có của
các tổ chức tín dụng nhà nước. Những tổ chức tín dụng khác khi chào bán trái
phiếu riêng lẻ tuân theo quy định của pháp luật ngân hàng và văn bản hướng
dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
1. Đối tượng phát hành
Nguyễn Quỳnh Anh- KT33D030
5

×