Tải bản đầy đủ (.pdf) (490 trang)

Một số vấn đề cơ bản về nhà nước và pháp luật_Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp khu vực Đồng bằng quyển 1 (tài liệu ôn thi cong chức cấp xã)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 490 trang )


1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
1. Bản chất của nhà nước
Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với xã hội có giai cấp, nó ra đời khi
xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định nhằm đáp ứng những đòi hỏi
của sự phát triển đó. Vì thế, nhà nước vừa mang tính chất giai cấp vừa mang tính chất
xã hội. Tức là, nhà nước vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, vừa duy
trì trật tự xã hội để đảm bảo sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Hiến pháp 1992 của nước ta khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Điều đó đã xác định rõ
bản chất của nhà nước ta và được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Trước hết, nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân. Nhân dân là người chủ của đất nước, có quyền tham gia và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước. Các cơ quan nhà nước đều do nhân dân trực
tiếp hoặc gián tiếp lập ra và chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân. Nhà nước được tổ
chức để thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân,
trấn áp các phần tử chống đối xâm phạm trật tự, an ninh, an toàn xã hội và đi ngược lại
lợi ích của đa số đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Nhà nước ta là nhà nước dân chủ thực sự, rộng rãi. Tính dân chủ của nhà nước ta
được thể hiện một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội. Nhà nước thực hiện chính sách kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã
hội chủ nghĩa, đảm bảo sự tự do, bình đẳng của các chủ thể sản xuất kinh doanh, sự
bình đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật. Trong lĩnh vực chính trị, nhà
nước đảm bảo cho mọi người dân có thể thực hiện được tất cả các quyền tự do dân chủ
trên cơ sở các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, nhà nước cũng tạo mọi điều kiện


cho nhân dân thực hiện các quyền tự do khác như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do
tư tưởng tín ngưỡng Đồng thời, bằng các quy định của pháp luật, nhà nước cũng bảo
vệ các quyền tự do khác của cá nhân như quyền được bảo đảm tính mạng, sức khỏe,
quyền bất khả xâm phạm thư tín, nhà ở.…
Nhà nước ta là nhà nước thống nhất của các dân tộc. Tính nhân dân và tính chất
giai cấp của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn gắn bó chặt chẽ với
tính dân tộc. Trong tất cả các thời kỳ phát triển của mình, Nhà nước ta đều xác lập và
thực hiện nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân. Điều này thể hiện ở chính sách đại đoàn
kết dân tộc của Đảng và Nhà nước mà nội dung cơ bản là tạo điều kiện cho mỗi dân
tộc có thể tham gia vào việc thiết lập, củng cố quyền lực nhà nước, tham gia vào việc
tổ chức bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, nhà nước thực hiện nhiều chính sách ưu tiên
đối với các dân tộc ít người, vùng núi, vùng sâu, vùng xa và tạo điều kiện cho các dân
tộc tương trợ giúp đỡ lẫn nhau; và đảm bảo cho các dân tộc phát huy các giá trị văn
hóa, tinh thần truyền thống tốt đẹp của mình. Trong điều kiện hiện nay, nhà nước cũng

2
thực hiện các biện pháp để đảm bảo sự phát triển của miền núi nhằm rút ngắn khoảng
cách giữa miền núi và đồng bằng.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có tính xã hội rộng rãi. Xuất phát
từ nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
với mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nhà nước ta đã tiến hành
nhiều hoạt động để tổ chức và quản lý các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội như
kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội nhằm xây dựng một nền kinh tế phát triển, một nền
văn hóa hiện đại mang đậm bản sắc dân tộc. Nhà nước cũng thực hiện nhiều biện pháp
nhằm phát triển khoa học kỹ thuật, giáo dục để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế -
xã hội. Mặt khác, Nhà nước tiến hành nhiều hoạt động để phát triển y tế, chăm lo sức
khỏe cho nhân dân. Trong điều kiện hiện nay, với việc xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước cũng đã tiến hành các chính sách để đảm bảo
sự công bằng xã hội cũng như thực hiện các chính sách xã hội khác để giảm bớt sự
phân hóa giàu nghèo.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại
hòa bình, hợp tác và hữu nghị. Điều 14 Hiến pháp 1992 của nhà nước ta đã xác định:
Nhà nước ta thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với
tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên
cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, tăng cường đoàn kết hữu
nghị và quan hệ hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng, tích
cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Những đặc điểm nêu trên trong bản chất của nhà nước ta đó được thể hiện cụ thể
trong các chính sách cũng như các hoạt động của nhà nước.
2. Các dấu hiệu của nhà nước
Trong xã hội, bên cạnh nhà nước còn có thể có các tổ chức khác như tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng.… Nhà nước khác với các tổ
chức khác ở những dấu hiệu cơ bản sau:
- Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt. Nhà nước là một tổ chức
quyền lực công, quyền lực của nó là công khai, mọi tổ chức và cá nhân trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia đều phải phục tùng. Quyền lực nhà nước được thực hiện bởi các cơ
quan, tổ chức nhà nước từ trung ương tới địa phương, cơ sở. Các cơ quan, tổ chức đó
chủ yếu làm nhiệm vụ quản lý, cưỡng chế hoặc cung cấp dịch vụ công cho toàn bộ dân
cư.
- Nhà nước tổ chức và quản lý dân cư theo khu vực họ cư trú, tức là theo các đơn
vị hành chính - lãnh thổ mà không phụ thuộc nghề nghiệp, độ tuổi hoặc giới tính… của
dân cư. Sự quản lý của nhà nước theo đơn vị hành chính lãnh thổ đảm bảo cho các
thành viên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo nơi cư trú của họ.
- Nhà nước là tổ chức đại diện chính thức cho toàn xã hội thực hiện chủ quyền
quốc gia. Việc thực hiện chủ quyền quốc gia của nhà nước được thể hiện ở chỗ nhà
nước có quyền quyết định cao nhất các vấn đề trong phạm vi nội bộ của mình, không
chịu sự can thiệp của bất kỳ một nước nào khác và nhà nước có quyền độc lập trong


3
quan hệ với các nhà nước khác.
- Nhà nước có quyền ban hành ra pháp luật, tức là hệ thống các quy tắc xử sự cho
mọi thành viên của xã hội. Để bảo đảm cho các quy tắc ấy được thực hiện, nhà nước
sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như tuyên truyền, phổ biến giáo dục, thuyết phục
mọi người tôn trọng và tự giác thực hiện và trong những trường hợp cần thiết, nhà
nước có thể áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhất định như việc áp dụng các biện
pháp xử phạt đối với những người vi phạm pháp luật
- Nhà nước có quyền phát hành tiền, có quyền quy định và thu các loại thuế theo
số lượng và thời hạn được ấn định trước.
Nhờ những dấu hiệu cơ bản trên mà chúng ta có thể phân biệt được nhà nước với
những tổ chức xã hội khác trong xã hội như Đảng, Công đoàn, Mặt trận tổ quốc.…
Mặt khác, nhờ có những đặc điểm này mà nhà nước trở thành tổ chức có vai trò đặc
biệt quan trọng trong xã hội.
3. Hình thức Nhà nước.
Hình thức Nhà nước là một khái niệm chỉ cách thức và những phương pháp thực
hiện quyền lực nhà nước, gồm 3 yếu tố hợp thành là: Hình thức chính tể, Hình thức
cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị.
3.1. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể là cách thức tổ chức, trình tự thành lập các cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất.
Chính thể của nhà nước ta hiện nay là chính thể cộng hòa dân chủ. Quyền lực tối
cao của nhà nước thuộc về Quốc hội. Quốc hội do nhân dân bầu ra có nhiệm kỳ là 5
năm. Việc bầu cử đại biểu Quốc hội được thực hiện theo các nguyên tắc phổ thông,
bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
3.2. Hình thức cấu trúc nhà nước
Hình thức cấu trúc nhà nước là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành chính
- lãnh thổ và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan
nhà nước ở địa phương.
Có hai loại cấu trúc nhà nước là nhà nước đơn nhất và nhà nước liên bang. Nhà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có cấu trúc đơn nhất. Những đặc điểm của
nhà nước đơn nhất được phản ánh sâu sắc trong Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn tổ
chức, hoạt động của nhà nước ta với các đặc thù sau:
Thứ nhất, nước ta là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời (Điều 1 Hiến pháp
1992); các đơn vị hành chính - lãnh thổ ở nhà nước ta bao gồm: Tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; và xã, phường, thị trấn.
Thứ hai, ở nước ta có một hệ thống thống nhất các cơ quan nhà nước từ trung
ương xuống địa phương
Thứ ba, có một hệ thống pháp luật thống nhất mà Hiến pháp là văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác đều phải được ban hành trên cơ sở Hiến
pháp, phù hợp với Hiến pháp. Các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà
nước cấp dưới phải phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà

4
nước cấp trên.
3.3. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là toàn bộ các phương pháp, cách thức thực hiện quyền lực nhà
nước. Các nhà nước khác nhau có chế độ chính trị khác nhau. Có hai loại chế độ chính trị
là chế độ chính trị dân chủ và chế độ chính trị phản dân chủ.
Chế độ chính trị ở nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chế độ chính
trị dân chủ. Điều đó thể hiện ở chỗ: Toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân,
nhân dân trực tiếp thành lập các cơ quan đại diện cho quyền lực của mình thông qua
chế độ bầu cử tự do và dân chủ; nhân dân có quyền bổ nhiệm những đại biểu của mình
khi họ không còn tín nhiệm với nhân dân nữa, nhân dân có quyền tham gia quản lý nhà
nước, xã hội và nhà nước có nghĩa vụ tạo mọi điều kiện để họ thực hiện tốt quyền đó.
Hiến pháp của nhà nước ta ghi nhận các quyền tự do dân chủ của công dân như: Nhân
dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Quốc hội
và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 6); Quyền con

người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật (Điều 50); Công dân có
quyền tham gia quản lý nhà nước vã xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của
cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ
chức trưng cầu ý dân (Điều 53); Các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước phải tôn
trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyêt đấu tranh chống mọi biểu hiện quan
liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng (Điều 8).…
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIẾN PHÁP
1. Những nội dung cơ bản của Hiến pháp Việt Nam
1.1. Hiến pháp - luật cơ bản
Ngành luật Hiến pháp bao gồm các văn bản pháp luật. Trong đó, Hiến pháp là
luật cơ bản, có vị trí cao nhất và đứng trên các văn bản pháp luật khác. Mọi văn bản
pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp và nếu trái với Hiến pháp thì bị bãi bỏ.
Hiến pháp là văn bản do Quốc hội ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội
quan trọng nhất. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992 nêu: “Hiến pháp này quy định
chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước”.
Hiến pháp là văn bản được ban hành theo thủ tục đặc biệt. Chỉ Quốc hội mới có
quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất hai phần ba tổng
số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam được ban
hành năm 1946. Tiếp đó, chúng ta có Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980. Hiến
pháp hiện hành được Quốc hội thông qua năm 1992 và sửa đổi, bổ sung năm 2001.
1.2. Những nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp hiện hành được Quốc hội Khoá VIII thông qua ngày 15 tháng 4 năm
1992. Ngày 25 tháng 12 năm 2001, Quốc hội Khoá X đã ban hành Nghị quyết
51/2001/NQ-QH về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 1992

5
(sửa đổi) gồm có Lời nói đầu, 12 Chương, 147 điều. Sau đây là những nội dung cơ bản

của Hiến pháp:
- Hiến pháp quy định chế độ chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: Chương I của Hiến pháp quy định về hình thức, bản chất của Nhà nước ta; về hệ
thống chính trị; các nguyên tắc bầu cử và chính sách đối ngoại của Nhà nước.
+ Về hình thức Nhà nước, Hiến pháp quy định: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao
gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời.
+ Về bản chất của Nhà nước: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các
dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc; thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt,
từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Về hệ thống chính trị, Hiến pháp khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; xác định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân; xác định Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội
của giai cấp công nhân và của người lao động.
+ Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Hiến pháp quy định
các nguyên tắc: tập trung dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa; quy định trách nhiệm
phục vụ nhân dân của cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước.
- Hiến pháp quy định chế độ kinh tế của Nhà nước, bao gồm chính sách kinh tế,
cơ cấu kinh tế, các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế:
+ Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh
đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
+ Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch,

chính sách; phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý nhà nước giữa các ngành, các
cấp; kết hợp lợi ích của cá nhân, của tập thể với lỢi ích của Nhà nước.
- Hiến pháp quy định chế độ văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ bao gồm
các nội dung chính như chính sách phát triển nền văn hoá Việt Nam; chính sách phát
triển giáo dục, khoa học, công nghệ; chính sách về bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, bảo
vệ bà mẹ và trẻ em, thực hiện chương trình dân số và kế hoạch hoá gia đình.
- Hiến pháp quy định chế độ an ninh, quốc phòng bao gồm các nội dung về
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; chính sách xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân; nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân; trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức và công dân trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh.

6
+ Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự
nghiệp của toàn dân.
+ Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân
dân, nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất
nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
+ Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ
nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định.
- Hiến pháp quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội.
- Hiến pháp quy định tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước bao gồm
Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Toà án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
2. Một số quy định của Hiến pháp Việt Nam
2.1. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Điều 49 Hiến pháp quy định: Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là người có quốc tịch Việt Nam.
Theo Luật Quốc tịch Việt Nam ngày 20 tháng 5 năm 1998, công dân Việt Nam
được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm các quyền công dân và

phải làm tròn nghĩa vụ công dân của mình đối với Nhà nước và xã hội theo quy định
của pháp luật (Điều 4).
Những quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp được gọi
là những quyền và nghĩa vụ cơ bản. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân bao
gồm:
- Các quyền và nghĩa vụ về chính trị;
- Các quyền tự do cá nhân;
- Các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, văn hoá, xã hội.
2.1.1. Các nguyên tắc xây dựng hệ thống quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân
Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định tại Chương V Hiến
pháp (từ Điều 49 đến Điều 82). Các quyền và nghĩa vụ đó được xây dựng dựa trên các
nguyên tắc sau đây:
- Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân: Công dân có các quyền
cơ bản, được Nhà nước bảo đảm thực hiện và phải thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà
nước và xã hội.
- Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật: Các quyền và nghĩa vụ cơ bản
được quy định cho mọi công dân. Tất cả công dân đều bình đẳng trong việc thực hiện
các quyền và trong việc thực hiện các nghĩa vụ.
Về quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới, Hiến pháp quy định: Công dân nữ
và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ.

7
Về quyền bình đẳng dân tộc, Hiến pháp quy định quyền bình đẳng của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
- Các quyền công dân được Nhà nước bảo đảm: Nhà nước bảo đảm và không
ngừng phát huy quyền làm chủ mọi mặt của công dân, thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

2.1.2. Các quyền và nghĩa vụ của công dân về chính trị
- Trong lĩnh vực chính trị, công dân có các quyền sau đây:
+ Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội: Công dân có quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa
phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý
dân.
+ Quyền bầu cử: Công dân có quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp.
+ Quyền khiếu nại, tố cáo: Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
+ Trong lĩnh vực chính trị, công dân còn có các quyền khác như quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, quyền lập hội, quyền hội họp theo quy định của pháp luật.
- Trong lĩnh vực chính trị, công dân có các nghĩa vụ sau đây:
+ Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc.
+ Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia
xây dựng quốc phòng toàn dân.
+ Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công
cộng.
2.1.3. Các quyền tự do cá nhân
+ Quyền bất khả xâm phạm về thân thể: Công dân được pháp luật bảo vệ về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của
Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội quả tang.
+ Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở: Không ai được tự ý vào chỗ ở của người
khác nếu không được người đó đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
+ Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín: nội dung thư tín, điện thoại, điện tín
được giữ bí mật. Việc bóc mở, thu giữ, kiểm soát thư tín, điện tín phải do người có
thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.

+ Quyền tự do đi lại và cư trú: Công dân có quyền tự do đi lại và tự do cư trú
trong nước, ra nước ngoài và về nước theo quy định của pháp luật.

8
+ Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: Công dân được tự do theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
+ Quyền được thông tin: Công dân được nhận tin và truyền tin theo quy định của
pháp luật. Quyền này mới được bổ sung trong Hiến pháp năm 1992.
2.1.4. Các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, văn hoá, xã hội
- Trong lĩnh vực kinh tế, công dân có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
+ Quyền và nghĩa vụ lao động: Theo Hiến pháp 1992, lao động vừa là quyền, vừa
là nghĩa vụ của công dân. Nhà nước có kế hoạch tạo việc làm cho người lao động; ban
hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động; quy định thời gian lao động, chế độ nghỉ
ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước và những người làm công
ăn lương. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Quốc hội khoá IX đã thông qua Bộ luật lao
động nhằm bảo vệ quyền làm việc và các quyền khác của người lao động.
+ Quyền tự do kinh doanh: Hiến pháp năm 1992 bổ sung quy định: “Công dân có
quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Tổ chức, cá nhân thuộc các
thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật
không cấm. Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô
hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Quyền của tổ chức, cá
nhân về thành lập và quản lý doanh nghiệp được quy định tại Luật Doanh nghiệp ngày
29 tháng 11 năm 2005.
+ Quyền sở hữu: Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
+ Nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng.
+ Nghĩa vụ đóng thuế.

- Trong lĩnh vực văn hoá, công dân có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
+ Quyền và nghĩa vụ học tập: Học tập vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công
dân. Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức. Bậc tiểu học
là bắt buộc, không phải trả học phí. Nhà nước thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ
sở; có chính sách học phí, học bổng; tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp. Quyền học
tập của công dân được quy định cụ thể tại Luật giáo dục ngày 14 tháng 6 năm 2005.
+ Quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến
kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các
hoạt động văn hoá khác.
- Trong lĩnh vực xã hội, công dân có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
+ Quyền bảo vệ sức khỏe: Công dân được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà
nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn giảm viện phí; quy định chế độ bắt buộc
cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm.
Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh
công cộng.

9
+ Quyền xây dựng nhà ở: Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và
pháp luật. Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội có ban hành Luật Nhà Ở.
+ Quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới: Công dân nữ và nam có quyền
ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Lao động nam
và nữ việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế
độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ
trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà
nước tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, để phụ nữ sản xuất, công tác,
học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.
+ Quyền được bảo hộ về hôn nhân và gia đình: Nhà nước bảo hộ hôn nhân theo
nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có
trách nhiệm nuôi dạy con; con cháu phải kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ.

+ Hiến pháp còn quy định quyền được bảo vệ và chăm sóc của trẻ em; quyền
được hưởng các chính sách ưu đãi của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ; quyền
được giúp đỡ của người già, người tàn tật, trẻ mồ côi.
2.2. Các quy định về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện dân
chủ trực tiếp thông qua bầu cử để thành lập các cơ quan nhà nước là Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp. Việc bầu cử được quy định trong Luật bầu cử đại biểu Quốc
hội ngày 15 tháng 4 năm 1997 (được sửa đổi, bổ sung ngày 25 tháng 12 năm 2001) và
Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003.
2.2.1. Các nguyên tắc bầu cử
Việc bầu cử ở nước ta được tiến hành theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín.
- Nguyên tắc phổ thông: Nội dung của nguyên tắc này là “Công dân, không phân
biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề
nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt
tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp
luật”. Nguyên tắc này bảo đảm để công dân được thực hiện quyền bầu cử, tham gia
quản lý nhà nước và tham gia thành lập các cơ quan nhà nước.
- Nguyên tắc bình đẳng: Nội dung của nguyên tắc này là công dân có khả năng
như nhau trong việc tham gia bầu cử. Công dân có đủ tiêu chuẩn theo quy định của
pháp luật thì được ghi tên vào danh sách cử tri; mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào một
danh sách cử tri nơi cư trú; mỗi cử tri chỉ có quyền có một phiếu bầu; giá trị phiếu bầu
là ngang nhau.
- Nguyên tắc bầu cử trực tiếp: Cử tri trực tiếp lựa chọn người mà mình tín nhiệm,
không phải thông qua người khác. Cử tri phải tự mình đi bầu, tự tay bỏ phiếu vào
thùng phiếu, không nhờ người khác bầu thay. Nguyên tắc này bảo đảm tính khách
quan của bầu cử.
- Nguyên tắc bỏ phiếu kín: Khi cử tri viết phiếu, không ai được xem, kể cả thành
viên Tổ bầu cử. Nguyên tắc này bảo đảm tính dân chủ của cuộc bầu cử.
2.2.2. Quyền bầu cử và ứng cử của công dân


10
- Quyền bầu cử: Quyền bầu cử là quyền được ghi tên vào danh sách cử tri và
quyền bỏ phiếu. Người đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử. Chỉ những người
sau đây không có quyền bầu cử:
+ Người đang bị tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật;
+ Người đang phải chấp hành hình phạt tù;
+ Người đang bị tạm giam;
+ Người mất năng lực hành vi dân sự.
Trong thời gian lập danh sách cử tri, những công dân có quyền bầu cử đều được
ghi tên vào danh sách cử tri. Nếu danh sách cử tri có sai sót thì mọi người có quyền
khiếu nại bằng miệng hoặc bằng văn bản với Uỷ ban nhân dân cấp xã đã lập danh sách
đó. Uỷ ban nhân dân phải giải quyết khiếu nại trong thời hạn năm ngày.
- Quyền ứng cử: Quyền ứng cử là quyền của công dân tự ra ứng cử hoặc đồng ý
để người khác đề cử mình. Người đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử.
Người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân địa phương nào thì phải là người cư trú
hoặc làm việc thường xuyên ở địa phương đó.
Những người sau đây không được ứng cử:
+ Người không có quyền bầu cử (đã nêu trên đây) thì không được ứng cử;
+ Người đang bị khởi tố về hình sự;
+ Người đang phải chấp hành bản án, quyết định hình sự của Toà án;
+ Người đã chấp hành xong bản án, quyết định hình sự của Toà án nhưng chưa
được xoá án tích;
+ Người đang chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính về giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh hoặc đang bị quản chế hành
chính.
2.2.3. Các bước của cuộc bầu cử
- Xác định số đơn vị bầu cử và số đại biểu được bầu của mỗi đơn vị bầu cử:
+ Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc

chia các đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu được bầu của mỗi đơn vị.
+ Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh và số đại biểu được bầu của mỗi đơn vị do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
ấn định và phải được Chính phủ phê chuẩn. Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân
dân cấp huyện và xã, số đại biểu được bầu của mỗi đơn vị do Uỷ ban nhân dân cùng
cấp ấn định và phải được Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Mỗi đơn vị bầu cử được chia thành các khu vực bỏ phiếu. Việc chia khu vực bỏ
phiếu do Uỷ ban nhân dân cấp xã ấn định và phải được Uỷ ban nhân dân cấp trên trực
tiếp phê chuẩn.
- Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử: Sau khi ngày bầu cử được Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội công bố, các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập.

11
+ Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, các tổ chức phụ trách bầu cử gồm: Hội đồng
bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử.
+ Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, các tổ chức phụ trách bầu cử gồm:
Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử.
Hội đồng bầu cử cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã do Uỷ ban nhân dân sau khi thống
nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Uỷ ban trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập.
Ban bầu cử được thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử, do Uỷ ban nhân dân sau khi
thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Uỷ ban trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập.
Tổ bầu cử được thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu, do Uỷ ban nhân dân cấp xã
sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Uỷ ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập.
Các tổ chức phụ trách bầu cử làm việc theo chế độ tập thể. Các quyết định được
thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
- Ứng cử, giới thiệu người ứng cử: Người tự ứng cử phải nộp hồ sơ đến tổ chức
phụ trách bầu cử; hồ sơ được chuyển đến Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp để tổ

chức hiệp thương.
+ Đối với bầu cử đại biểu Quốc hội: Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở trung
ương do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức, ở cấp
tỉnh thì do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh tổ chức. Tiếp theo, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ
chức được bầu đại biểu Quốc hội. Sau đó, các cơ quan, tổ chức giới thiệu người của
đơn vị mình ra ứng cử. Hội nghị hiệp thương lần thứ hai lập danh sách sơ bộ những
người ứng cử và gửi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú. Uỷ ban thường vụ Quốc hội điều
chỉnh lần thứ hai cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức được bầu
đại biểu Quốc hội. Cuối cùng, Hội nghị hiệp thương lần thứ ba lập danh sách chính
thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội.
+ Đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân:
Chậm nhất là 90 ngày trước ngày bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân dự
kiến cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu đại
biểu Hội đồng nhân dân.
Chậm nhất là 85 ngày trước ngày bầu cử, Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở
mỗi cấp được tiến hành, do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng
cấp tổ chức.
Chậm nhất là 80 ngày trước ngày bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân điều
chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị được bầu đại
biểu Hội đồng nhân dân.
Sau Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất, cơ quan, tổ chức, đơn vị tiến hành giới
thiệu người ứng cử (đối với cấp xã, thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc được giới
thiệu người ứng cử).

12
Chậm nhất là 55 ngày trước ngày bầu cử, Hội nghị hiệp thương lần thứ hai ở mỗi
cấp được tiến hành, do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp
tổ chức. Hội nghị lập danh sách sơ bộ những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân
và gửi lấy ý kiến cử tri.

Chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử, Hội nghị hiệp thương lần thứ ba ở mỗi
cấp được tiến hành, do Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp
tổ chức. Hội nghị lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân và gửi lấy ý kiến cử tri.
Các Hội nghị hiệp thương phải có biên bản ghi rõ thành phần, số lượng người
tham dự, diễn biến và kết quả Hội nghị.
- Bỏ phiếu: Bước tiếp theo của cuộc bầu cử là tổ chức bỏ phiếu. Cuộc bỏ phiếu
được tiến hành liên tục và trong một ngày chủ nhật.
Sau khi việc bỏ phiếu kết thúc, phải tiến hành kiểm phiếu ngay tại phòng bỏ
phiếu.
- Công bố kết quả bầu cử: Người ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được
nhiều phiếu hơn thì trúng cử. Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử.
2.3. Bộ máy Nhà nước nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.3.1. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước bao gồm các cơ quan nhà nước. Cơ quan nhà nước được thành
lập theo quy định của pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Toàn bộ bộ máy nhà nước hoạt động theo các nguyên tắc thống nhất. Các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được quy định trong Hiến pháp. Cụ thể
là:
- Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: Điều 4 Hiến pháp
quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,
đại biểu trung thành với quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc, theo Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên cơ sở đường lối, chính sách
của Đảng. Pháp luật của Nhà nước là sự thể chế hoá đường lối lãnh đạo của Đảng.
Đảng thực hiện việc kiểm tra đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước.
- Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp: nguyên tắc này được bổ sung tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992. Các chức năng lập

pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước được phân công cho mỗi loại cơ quan. Để
thực hiện chức năng đó, mỗi cơ quan có những nhiệm vụ, quyền hạn riêng biệt. Đồng
thời, giữa các cơ quan có sự phối hợp chặt chẽ để bảo đảm hiệu quả của hoạt động
quản lý nhà nước.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ: Là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước xã hội chủ nghĩa, được quy định tại Điều 6 Hiến pháp. Các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước phải được triển khai thống nhất, thông suốt. Các cơ quan cấp

13
dưới phải tuân thủ, chịu trách nhiệm và chịu sự lãnh đạo của cấp trên. Văn bản của cơ
quan cấp dưới phải phù hợp với văn bản của cơ quan cấp trên.
- Nguyên tắc bình đẳng dân tộc: Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng dân
tộc, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc. Chính sách này được quán triệt trong các văn
bản, quyết định của cơ quan nhà nước. Trong các cơ quan Quốc hội và Hội đồng nhân
dân phải có tỷ lệ đại diện thích đáng của các thành phần dân tộc. Trong tổ chức của
các cơ quan nhà nước, có những cơ quan chuyên trách về công tác dân tộc (Hội đồng
Dân tộc của Quốc hội, Uỷ ban Dân tộc thuộc Chính phủ).
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Là nguyên tắc được quy định tại Điều
12 Hiến pháp. Mọi cơ quan nhà nước phải được thành lập theo đúng quy định của
pháp luật. Trong khi thi hành nhiệm vụ, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà
nước phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật. Những vi phạm pháp luật phải bị xử lý
theo quy định. Để thực hiện nguyên tắc nói trên, cần tăng cường cơ chế giám sát, kiểm
tra và xử lý vi phạm pháp luật.
2.3.2. Hệ thống các cơ quan nhà nước
- Quốc hội
+ Điều 83 Hiến pháp quy định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
+ Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết
định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc

phòng, an ninh, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước.
+ Quốc hội có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
* Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, quyết định
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;
* Thực hiện quyền giám sát tối cao việc thuân thủ Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
* Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
* Quyết định chính sách tài chính tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách
nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;
quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;
* Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương;
* Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc
hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ;

14
phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và
an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn;
* Quyết định thành lập, bãi bỏ Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ; thành
lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành
lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
* Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,

Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái
với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;
* Quyết định đại xá; quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân,
hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác, quy định huân chương, huy
chương và các danh hiệu vinh dự nhà nước;
* Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp,
các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
* Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước
quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế
khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;
* Quyết định việc trưng cầu ý dân.
- Uỷ ban thường vụ Quốc hội
+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội.
+ Uỷ ban thường vụ Quốc hội được Quốc hội thành lập để tổ chức các hoạt động
của Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra pháp lệnh về các vấn đề được Quốc hội
giao; thực hiện giám sát theo quy định của pháp luật; giám sát và hướng dẫn hoạt động
của Hội đồng nhân dân, bãi bỏ nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; giải
tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại
nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định
của pháp luật.
- Chủ tịch nước
+ Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.
+ Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
+ Chủ tịch nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp
(Điều 103). Chủ tịch nước công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; đề nghị Quốc hội bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào quyết định
của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, thẩm

phán Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; quyết định đặc xá.
- Chính phủ

15
+ Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
+ Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước.
+ Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp
(Điều 112) và Luật tổ chức Chính phủ. Chính phủ lãnh đạo công tác của các Bộ, cơ
quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng
và kiện toàn hệ thống thống nhất bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ
sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn
theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức nhà nước.
Chính phủ quyết định điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương.
- Toà án nhân dân
+ Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
+ Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
+ Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể;
bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
+ Hệ thống Toà án nhân dân bao gồm:
* Toà án nhân dân tối cao;

* Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
* Các Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
* Các Toà án quân sự;
* Các Toà án khác do luật định.
+ Toà án nhân dân tổ chức và hoạt động theo quy định tại Hiến pháp và Luật tổ
chức Toà án nhân dân ngày 02 tháng 4 năm 2002.
- Viện kiểm sát nhân dân
+ Theo Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992,
Viện kiểm sát nhân dân là các cơ quan có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật,
thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định.
+ Theo quy định của Hiến pháp (sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
ngày 02 tháng 4 năm 2002, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp.
+ Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân bao gồm:
* Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

16
* Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
* Các Viện kiểm sát nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
* Các Viện kiểm sát quân sự.
+ Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất.
+ Viện Kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp ở địa phương mình.
+ Viện Kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp theo quy định của pháp luật.
- Hội đồng nhân dân
+ Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho
ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,

chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
+ Hội đồng nhân dân quyết định các chủ trương, biện pháp quan trọng để phát
huy tiềm năng của địa phương; xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân
theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
và của công dân ở địa phương.
+ Hội đồng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể quy định tại Luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 và các văn bản pháp luật
khác. Để khắc phục những hạn chế của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân năm 1994, Luật năm 2003 đã quy định rõ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của
mỗi cấp Hội đồng nhân dân (tỉnh - huyện - xã); quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội
đồng nhân dân trong từng lĩnh vực kinh tế, ngân sách, văn hoá, giáo dục, y tế, quốc
phòng, an ninh, giám sát ; phân biệt nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân ở địa bàn nông
thôn và địa bàn đô thị. Luật năm 2003 tăng cường chức năng giám sát của Hội đồng
nhân dân; bổ sung quy định về việc Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
Để quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng
nhân dân ra nghị quyết.
+ Về cơ cấu của Hội đồng nhân dân, theo Luật năm 2003, Thường trực Hội đồng
nhân dân được thành lập ở cả ba cấp. Luật bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn mới
của Thường trực Hội đồng nhân dân như: giám sát việc thi hành pháp luật tại địa
phương; phê chuẩn kết quả bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Uỷ viên Thường trực Hội
đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp; trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
- Uỷ ban nhân dân


17
+ Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
+ Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương; chịu
trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
+ Cũng tương tự như với Hội đồng nhân dân, Luật năm 2003 đã quy định rõ hơn
nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp Uỷ ban nhân dân, phân biệt nhiệm vụ của Uỷ ban
nhân dân địa bàn nông thôn và đô thị, quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân
dân trong từng lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi, đất
đai, công nghiệp, thương mại, du lịch, giáo dục và đào tạo,
Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Uỷ ban nhân dân ra quyết định, chỉ
thị.
Luật năm 2003 quy định các vấn đề mà Uỷ ban nhân dân phải thảo luận tập thể
và biểu quyết theo đa số (Điều 124).
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân là người lãnh đạo và điều hành công việc của Uỷ
ban nhân dân. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo
Luật năm 2003, trong nhiệm kỳ, nếu khuyết Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thì Chủ tịch
Hội đồng nhân dân cùng cấp giới thiệu người ứng cử Chủ tịch Uỷ ban nhân dân để Hội
đồng nhân dân bầu. Người giữ chức vụ Uỷ ban nhân dân trong nhiệm kỳ không nhất
thiết là đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 119).
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại
Điều 127 của Luật năm 2003. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quyết định các vấn đề thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp mình, trừ các vấn đề mà Uỷ ban nhân
dân phải thảo luận và quyết định tập thể. Luật bổ sung các nhiệm vụ mới của Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân là: chỉ đạo các biện pháp để giải quyết các công việc đột xuất, khẩn
cấp trong phòng, chống thiên tai, cháy, nổ, dịch bệnh, an ninh, trật tự và báo cáo Uỷ
ban nhân dân trong phiên họp gần nhất; ra quyết định, chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình.

Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phân công và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
1. Khái niệm pháp luật
Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm
bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đạt được những mục đích nhất
định.
Cũng như nhà nước, pháp luật ra đời, tồn tại gắn liền với xã hội có giai cấp, nó ra
đời khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định và khi xã hội phân chia thành các
giai cấp, vì thế, pháp luật vừa mang tình chất giai cấp vừa mang tính xã hội. Tính chất
giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp
thống trị, còn tính chất xã hội của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật là công cụ để điều

18
chỉnh các quan hệ xã hội nhằm duy trì trật tự xã hội để đảm bảo sự tồn tại và phát triển
của pháp luật
Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nhân dân sử dụng quyền
lực của mình thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác
trong bộ máy nhà nước. Hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền chính là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng của đông đảo
nhân dân lao động. Pháp luật của nhà nước ta là thể hiện ý chí của nhân dân lao động -
số đông trong xã hội, vì vậy, pháp luật là phuơng tiện để phản ánh và bảo vệ quyền lực
của nhân dân lao động.
Pháp luật của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng thể hiện tính
chất xã hội rộng rãi. Pháp luật Việt Nam hiện nay là phương tiện để nhà nước quản lý
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, nó cũng đồng thời là phương tiện để thể
chế hóa những đường lối, chủ trương chính sách của Đảng về các vấn đề kinh tế, chính
trị, văn hóa xã hội nhằm đảm bảo sự phát triển của xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Hơn

nữa, pháp pháp luật của chúng ta còn có vai trò quan trọng trong việc thiết lập và bảo
đảm công bằng xã hội, bảo đảm việc thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Bản chất của pháp luật nước ta thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện để đảm bảo công bằng xã
hội, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là một trong những đặc trưng cơ
bản của nhà nước ta. Tính chất dân chủ đó được thể hiện và ghi nhận trong hệ thống
các văn bản pháp luật của nhà nước từ Hiến pháp đến các văn bản quy phạm pháp luật
khác. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận và xác định các biện pháp để
đảm bảo cho việc thực hiện các quyền tự do dân chủ của công dân. Bên cạnh đó, thông
qua pháp luật, Nhà nước ta cũng đó thực hiện các biện pháp để hỗ trợ và đảm bảo sự
phát triển của các khu vực khó khăn như miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện để nhà nước
quản lý xã hội. Thông qua pháp luật, nhà nước đề ra các kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội, văn hóa khoa học kỹ thuật cũng như các lĩnh vực khác của đời sống, xác định
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong quản lý kinh tế xã
hội. Đồng thời, pháp luật cũng xác định rõ trách nhiệm của mọi công dân trong việc
tôn trọng Pháp luật của nhà nước.
Pháp luật của nhà nước ta là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước
Việt Nam. Bộ máy nhà nước là một hệ thống các cơ quan nhà nước có chức năng và
nhiệm vụ khác nhau. Để đảm bảo cho bộ máy nhà nước nói chung và từng cơ quan
trong bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, phát huy được sức mạnh của quyền lực
nhà nước cũng như đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân, thì cần phải có các
quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Các quy định đó không chỉ là cơ
sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước mà
nó còn là phương tiện để nhân dân có thể tiến hành việc kiểm tra, giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước và của các nhân viên nhà nước.
Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn là phương tiện để thực
hiện chính sách đoàn kết dân tộc. Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định:

19

“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nhà nước thống nhất của
các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc,
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phat
huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.
Nhà Nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.”
Trên cơ sở này, nhà nước đó ban hành ra hàng loạt các văn bản pháp luật cụ thể
hóa và thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc.
2. Những đặc trưng của pháp luật
- Pháp luật do nhà nước ban hành. Trong xã hội có rất nhiều quy tắc xử sự khác
nhau mà con người phải tuân theo như các quy tắc đạo đức, các tập quán, các quy tắc
do các tổ chức khác của con người đặt ra như các điều lệ, quy chế… nhưng chỉ những
quy tắc xử sự do nhà nước ban hành thì mới được coi là pháp luật.
- Pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện. Các quy tắc xử sự khác được đảm
bảo thực hiện bằng những biện pháp khác nhau. Chẳng hạn, sự vi phạm các quy tắc
đạo đức sẽ bị xã hội lên án, sự vi phạm các tập quán có thể bị cộng đồng dân cư lên án,
sự vi phạm quy tắc của các tổ chức xã hội thì các tổ chức đó sẽ áp dụng những biện
pháp nhất định do chính các tổ chức đó đặt ra. Pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng
nhà nước có nghĩa là việc vi phạm pháp luật sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế
của nhà nước mà ở mức cao nhất là các hình phạt của Luật Hình sự. Bên cạnh việc bảo
đảm cho pháp luật được thực hiện bằng những biện pháp cưỡng chế, nhà nước cũng
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện bằng những biện pháp thuyết phục như vận
động, tuyên truyền, khen thưởng…
Như vậy, chỉ những quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo
thực hiện thì mới được gọi là pháp luật.
3. Văn bản quy phạm pháp luật
Pháp luật chủ yếu được hình thành từ việc Nhà Nước ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền ban hành theo trình tự và thủ tục định, trong đó có các quy tắc xử sự
chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đạt
được mục đích nhất định.
Văn bản quy phạm pháp luật có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành. Trong toàn bộ các cơ quan của bộ máy nhà nước, không phải cơ
quan nào cũng có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Nhà nước
chỉ trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho một số cơ quan nhà
nước nhất định. Vì thế, chỉ những văn bản do các cơ quan đó ban hành thì mới có thể
trở thành văn bản quy phạm pháp luật. Những văn bản không phải do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm phạm pháp luật thì không thể là văn
bản quy phạm pháp luật.

20
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng những quy tắc xử
sự chung. Những văn bản mặc dù do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
nhưng không chứa đựng quy tắc xử sự chung thì không thể là Văn bản quy phạm pháp
luật. Đây là đặc trưng cơ bản để chúng ta phân biệt văn bản quy phạm pháp luật với
các văn bản có ý nghĩa pháp lý khác như các bản án của Tòa án nhân dân, các quyết
định xử phạt hành chính đối với cá nhân hay tổ chức nào đó do có hành vi vi phạm
hành chính.
Thứ ba, văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong thực tế đời
sống. Do nội dung của văn bản quy phạm pháp luật có chứa đựng những quy tắc xử sự
chung vì vậy chúng được áp dụng nhiều lần trong thực tế đời sống, trong mọi trường
hợp khi xuất hiện những điều kiện hay hoàn cảnh được các quy tắc xử sự trong đó xác
định.
Thứ tư, tên gọi, nội dung và trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp
luật do pháp luật quy định. Pháp luật quy định cho mỗi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền được ban hành văn bản quy phạm pháp luật với những tên gọi cụ thể. Hơn nữa,
nội dung và trình tự ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước

cũng được pháp luật quy định cụ thể.
4. Các loại văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta
Theo quy định của Hiến pháp 1992 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, ở nước ta hiện nay có các loại văn bản quy phạm pháp luật sau:
Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành quy định những
vấn đề cơ bản nhất của nhà nước như chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức,
hoạt động của bộ máy nhà nước. Các quy định của Hiến pháp là cơ sở để hình thành
một hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội.
Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật ở nước ta, các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan khác của
nhà nước ban hành đều phải dựa trên cơ sở Hiến pháp và phải phù hợp với Hiến pháp.
Luật là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành để cụ thể hóa Hiến
pháp có nội dung điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định hoặc các quan hệ xã hội
trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội. Luật quy định các vấn đề cơ bản,
quan trọng thuộc các lĩnh vực về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Nghị quyết của Quốc hội được Quốc hội ban hành để quyết định kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, tôn
giáo, đối ngoại, quốc phòng, an ninh, dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân
sách nhà nước, điều chỉnh ngân sách nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước, phê chuẩn điều ước quốc tế, quyết định chế độ làm việc của Quốc hội, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội
và quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Pháp lệnh do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành để quy định về những vấn

21
đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định

ban hành thành luật. Pháp lệnh phải phù hợp với Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội.
Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội được cơ quan này ban hành để giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, giám sát việc thi hành Hiến pháp, văn bản quy phạm
pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giám sát và hướng dẫn
hoạt động của Hội đồng nhân dân, quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, tổng
động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc từng
địa phương và quyết định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội.
Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước được ban hành để thực hiện những nhiệm
vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước do Hiến pháp, luật quy định.
Nghị quyết của Chính phủ được Chính phủ ban hành để quyết định chính sách cụ
thể về xây dựng và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở,
hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước
cấp trên; bảo đảm thực hiện Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân; thực hiện chính sách xã hội, dân
tộc, tôn giao; quyết định chủ trương, chính sách cụ thể về ngân sách nhà nước, tiền tệ;
phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường; củng cố và
tăng cường quốc phòng, an ninh; thống nhất quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước,
các biện pháp bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; các biện pháp chống quan
liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; phê duyệt các điều ước quốc tế thuộc thẩm
quyền của Chính phủ.
Nghị định của Chính phủ được ban hành để quy định chi tiết thi hành luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước; quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm
quyền của Chính phủ thành lập; các biện pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ; hoặc quy định những vấn đề hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều
kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản

lý kinh tế, quản lý xã hội. Việc ban hành Nghị định của Chính phủ quy định những vấn
đề cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện để xây dựng thành Luật hay Pháp lệnh phải được
sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quyết định các chủ
trương, biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành
chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; quy định chế độ làm việc với các thành viên
Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các
vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ quy định các biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt
động của các thành viên Chính phủ; đôn đốc và kiểm tra hoạt động của các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thực
hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quyết định của Chính
phủ.

22
Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ
Quyết định của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quy định về tổ chức và
hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc; quy định các tiêu chuẩn, quy trình, quy
phạm và các định mức kinh tế - kỹ thuật của ngành, lĩnh vực do mình phụ trách; quy
định các biện pháp để thực hiện chức năng quản lý ngành, lĩnh vực do mình phụ trách
và những vấn đề đề được Chính phủ giao.
Chỉ thị của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quy định các biện pháp để
chỉ đạo, đôn đốc, phối hợp và kiểm tra hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc ngành,
lĩnh vực do mình phụ trách trong việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên và của mình.
Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ được ban hành để hướng
dẫn thực hiện những quy định được Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, Nghị
quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ giao
thuộc phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.

Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được ban hành
để hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử.
Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao được
ban hành để thực hiện việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự
về tổ chức; quy định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao.
Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
quy định các biện pháp để bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân các cấp; quy định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ
Thông tư liên tịch giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ được ban hành để hướng dẫn
thi hành Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ,
Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan đó.
Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa Toà án nhân dân tối cao với Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao với Bộ, cơ quan ngang Bộ
Thông tư liên tịch giữa Toà án nhân dân tối cao với Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; Thông tư liên tịch giữa Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ với Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành để hướng dẫn việc
áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng và những vấn đề khác liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó.
Nghị quyết, Thông tư liên tịch giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ
quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được ban hành để hướng dẫn thi hành
những vấn đề khi pháp luật quy định về việc tổ chức chính trị - xã hội đó tham gia

23
quản lý nhà nước.

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp quy định các biện pháp bảo đảm thi
hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, về kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và ngân sách, về các biện pháp ổn định và nâng cao đời sống nhân dân địa
phương.
Quyết định, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp
Quyết định của Ủy ban nhân dân quy định các chủ trương, biện pháp cụ thể để tổ
chức thực hiện pháp luật và kiểm tra việc thực hiện pháp của các cơ quan, tổ chức ở
địa phương và quy định về những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân.
Chỉ thị của Ủy ban nhân dân quy định các biện pháp và chỉ đạo việc thực hiện
các chủ trương, chính sách của trung ương, các cơ quan nhà nước cấp trên và các Nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.




























24
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LUẬT HÌNH SỰ VÀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

PHẦN I. LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Khái niệm
Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội, trật tự xã hội, nhà nước dùng nhiều
biện pháp khác nhau vừa có tính thuyết phục vừa có tính cưỡng chế để đấu tranh, ngăn
chặn những hành vi vi phạm pháp luật. Tùy theo tính chất, mức độ của các vi phạm
pháp luật mà nhà nước lựa chọn sử dụng các chế tài thích hợp như: Dân sự, hành
chính, kinh tế, hình sự mà trong đó chế tài hình sự là nghiêm khắc nhất nhằm xử lý
bất cứ người nào có hành vi xâm phạm nghiêm trọng các lợi ích của Nhà nước, của xã
hội và của công dân.
Như vậy, Luật Hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước ta,
bao gồm hệ thống các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành trong đó xác định rõ
những hành vi vi phạm nào là tội phạm, đồng thời, quy định hình phạt đối với từng tội
phạm cụ thể.
Trong hệ thống pháp luật của nước ta chỉ có Bộ luật hình sự do Quốc hội ban
hành mới quy định về tội phạm và về hình phạt. Ngoài Quốc hội - Cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất thì không có cơ quan nào khác có quyền quy định về tội phạm và về
hình phạt. Hệ thống các quy định của luật hình sự được chia làm hai phần:
- Phần chung: Bao gồm các quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ của Luật Hình sự,

về những vấn đề đề chung về tội phạm và hình phạt.
- Phần các tội phạm: Bao gồm các quy định xác định các dấu hiệu pháp lý của
từng tội phạm cụ thể, loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng đối với từng tội phạm
đó.
Phần chung và phần các tội phạm của Luật Hình sự có mối quan hệ mật thiết hữu
cơ với nhau tạo nên sự hoàn chỉnh của Luật Hình sự. Để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với mỗi tội phạm được quy định ở Phần các tội phạm cần phải tuân thủ những quy
định của Phần chung. Mặt khác, Phần chung muốn phát huy tác dụng khi áp dụng vào
thực tiễn của công tác đấu tranh chống tội phạm phải dựa vào các quy định ở Phần các
tội phạm.
2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ chung của Luật Hình sự là bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam Xã hội chủ nghĩa (sau đây viết tắt là XHCN). Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ
của Luật Hình sự là "bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm".
Như vậy, nhiệm vụ đầu tiên của Luật Hình sự trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa

25
đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Để bảo vệ các lợi ích này, Luật
Hình sự quy định và mô tả hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội
phạm, quy định loại và mức hình phạt cụ thể đối với từng tội phạm để dựa vào đó các
cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được chính xác, công minh, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
Nhiệm vụ tiếp theo của Luật Hình sự là giáo dục mọi người ý thức tuân theo

pháp luật, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm được thể hiện ở chỗ các quy
định của Luật Hình sự giúp cho mọi người biết được hành vi nào là tội phạm để tự
điều chỉnh hành vi của mình, trong những hành vi bị cấm hoặc tự thực hiện hành vi mà
pháp luật bắt buộc phải làm thực chất, nhiệm vụ giáo dục của Luật Hình sự là nhiệm
vụ phòng ngừa tội phạm nói chung.
Từ nhiệm vụ "bảo vệ" và nhiệm vụ "giáo dục" của Luật Hình sự chúng ta thấy
nổi lên nhiệm vụ chính của Luật Hình sự là đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
3. Những nguyên tắc cơ bản
Các nguyên tắc cơ bản của Luật Hình sự là những tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá
trình xây dựng và áp dụng các quy định của Luật Hình sự vào đấu tranh phòng chống
tội phạm. những nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản
của pháp luật XHCN. Những nguyên tắc đó là:
- Nguyễn tắc Pháp chế XHCN là một nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ
hoạt động xây dựng cũng như áp dụng Luật Hình sự.
Đối với cơ quan lập pháp (Quốc hội), nguyên tắc pháp chế XHCN được thể hiện
ở chỗ: Những hành vi bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt phảo được Luật Hình
sự quy định; việc sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ tội phạm nhất định phải được tiến hành
một cách kịp thời và hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với các cơ quan hành pháp và tư pháp, nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi
việc áp dụng Luật Hình sự cũng như việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội
phạm và của bản thân người phạm tội phải chính xác và thống nhất. Nguyên tắc pháp
chế XHCN cũng đòi hỏi việc xét xử đúng người, đúng tội, không một hành vi phạm tội
và người phạm tội nào tránh khỏi việc bị xử lý theo Luật Hình sự, không được xử oan
người vô tội. Mọi sự tùy tiện trong điều tra, truy tố và xét xử đối với công dân đều bị
coi là vi phạm nghiêm trọng pháp chế XHCN.
- Nguyên tắc dân chủ XHCN thể hiên ở chỗ, Luật Hình sự bảo vệ, tôn trọng và
kiên quyết xử lý mọi hành vi xâm phạm đến các quyền tự do dân chủ của công dân.
Luật Hình sự không phân biệt đối xử về địa vị xã hội hoặc tình trạng tài sản, mọi
người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, đồng thời, bảo đảm cho nhân dân trực tiếp

hoặc gián tiếp tham gia vào việc xây dựng và áp dụng Luật Hình sự, đấu tranh phòng
và chống tội phạm.
Mặt chuyên chính của nguyên tắc dân chủ XHCN thể hiện ở chỗ xử lý nghiêm
các hành vi phạm tội, nhất là các trường hợp cố ý phạm tội, gây thiệt hại lớn cho nhà
nước, cho xã hội và công dân cũng như chuyên chính với kẻ phạm tội là người chủ
mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm,

×