1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môi trường rất cần thiết cho cuộc sống của con người. Môi
trường cung cấp cho con người những điều kiện sống (như ăn
ở,mặc hít thở…) Nếu không có điều kiện đó con người không
thể sống tồn tại và phát triển được.
Trong bối cảnh toàn cầu nói chung, môi trường đang bị ô nhiễm
trầm trọng đặc biệt là ở các nước đang phát triển, Việt Nam
cũng nằm trong tình trạng này trong quá trình xây dựng và phát
triển kinh tế. Do vậy, bảo vệ môi trường là một trong những vấn
đề quan trọng được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm gần đây tốc độ phát triển đô thị cũng như
công nghiệp hóa trên địa bàn thành phố Vinh, diễn ra rất nhanh
chóng, trong khi đó các công trình hạ tầng kỹ thuật như giao
thông, cấp điện, cấp thoát nước, xử lý nước thải, thu gom và xử
lý rác thải…không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển đô
2
thị và sự gia tăng dân số. Vì vậy môi trường và mỹ quan đô thị
thành phố Vinh ngày càng xuống cấp trầm trọng, đặc biệt là vấn
đề cấp thoát nước, rác thải có khắp mọi nơi đã ảnh hưởng rất lớn
đến cuộc sống và sức khỏe của người dân thành phố Vinh. Nhận
thấy đây vẫn là vấn đề mang tính thời sự và cấp thiết, là một
sinh viên, sau khi học tập, nhận được sự giảng dạy tận tình của
thầy cô giáo, em xin được vận dụng những kiến thức đã học vào
thực tiễn cơ sở, cụ thể là em chọn đề tài “Phân tích đánh giá
thực trạng công tác và giải pháp quản lý môi trường ở thành
phố Vinh” để làm bài luận kết thúc môn học “ Quản lý xã hội
về Khoa học – Công nghệ - Tài nguyên – Môi trường”
2, Tình hình nghiên cứu: Có nhiều tác giả trong và ngoài nước
nghiên cứu, từ việc nghiên cứu lý luận đến thực tế về đề tài nay.
Tuy nhiên, các nghiên cứu ấy chủ yếu ở tầng vĩ mô, còn chung
chung, rất ít các công trình nghiên cứu về công tác quản lý, tình
trạng ô nhiễm môi trường ở một địa phương cụ thể.
3, Mục đích nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
3
Thông qua khảo sát thực trạng công tác quản lý môi trường ở
thành phố Vinh, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nhằm
nâng cao công tác quản lý môi trường trên địa bàn thành phố,
giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân sinh sống ở đây.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hoá các vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài nghiên
cứu
- Đánh giá công tác quản lý về môi trường ở thành phố Vinh
- Đưa ra các giải pháp nâng cao công tác quản lý Nhà nước về
môi trường.
4, Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý cũng như thực
trạng ô nhiễm môi trường trên địa bàn thành phố Vinh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Trong địa giới hành chính thành phố Vinh
Về thời gian: Từ năm 2007 đến nay
4
5, Phương pháp nghiên cứu:
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
6, Kết cấu bài tiểu luận
Bài tiểu luận được chia thành 3 nội dung chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý Nhà nước về môi trường
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý môi trường ở thành phố
Vinh trong những năm gần đây.
Chương 3: Các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác quản lý môi trường.
Do trình độ bản thân còn hạn chế nên em không thể tránh khỏi
những sai sót trong quá trình trình bày, vì vậy em rất mong nhận
được sự giúp đỡ đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để em có
thể hoàn thành tốt bài tiểu luận của mình. Em xin chân thành
cảm ơn!
5
B NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý Nhà nước về môi
trường
1. Các khái niệm cơ bản
1.1 Khái niệm môi trường
Môi trường là: Bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất
nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có
ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và thiên nhiên. (Theo Điều 1, Luật Bảo vệ Môi trường
của Việt Nam).
Môi trường theo nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã
hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài
nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan,
quan hệ xã hội
Môi trường theo nghĩa hẹp không xét tới tài nguyên thiên nhiên,
mà chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên
quan tới chất lượng cuộc sống con người.
6
Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành
các loại:
Môi trường tự nhiên và Môi trường xã hội
1.2 Quản lý Nhà nước về môi trường
"Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp,
chính sách kinh tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất
lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội
quốc gia". Là sự tác động mang tính tổ chức và quyền lực của
các cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền lên các quan
hệ xã hội về môi trường nhằm đạt được những mục tiêu được
xác định.
Quản lý môi trường là một hoạt động trong lĩnh vực quản lý xã
hội, có tác động điều chỉnh các hoạt động của con người dựa
trên sự tiếp cận có hệ thống và các kỹ năng điều phối thông tin
đối với các vấn đề môi trường có liên quan đến con người xuất
phát từ quan điểm định hướng, hướng tới phát triển bền vững
và sử dụng hợp lý tài nguyên” (Lưu Đức Hải và Nguyễn Ngọc
Sinh, 2001)
7
Quản lý môi trường được thực hiện bằng tổng hợp các biện
pháp: luật pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, xã hội,
văn hóa, giáo dục Các biện pháp này có thể đan xen, phối hợp,
tích hợp với nhau tùy theo điều kiện cụ thể của vấn đề đặt ra.
Quản lý Nhà nước về môi trường là quản lý môi trường thông
qua các công cụ luật pháp, chính sách về môi trường trên
phương diện quốc tế và quốc gia.
Quản lý Nhà nước về môi trường để đảm bảo môi trường tồn tại
và phát triển bền vững nhằm: Sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên,
gắn khai thác với bảo vệ môi trường.
Nguyên tắc về QLNN đối với MT:
Tài nguyên môi trường là tài sản chung
Tài nguyên môi trường thuộc sở hửu toàn dân do nhà nước
thống nhất quản lý
Việc khai thác phải kết hợp với bảo vệ và phát triển
Đảm bảo về tính đa dạng của bảo vệ, khai thác, phát triển và
quản lý tài nguyên môi trường.
QLNN về tài nguyên môi trường bằng hệ thống pháp luật
8
Việc khai thác, sử dụng, phát triển theo quy hoạch nghành, lãnh
thổ
Quản lý tài nguyên môi trường phải huy động toàn dân tham gia
(vẽ sơ đồ)
2. Nội dung công tác quản lý Nhà nước về môi trường
Luật Bảo vệ môi trường.
Bộ Luật này được Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 25/11/2005 gồm: 15 chương với 135
điều
Nội dung công tác quản lý Nhà nước về môi trường của Việt
Nam được thể hiện trong Điều 37, Luật Bảo vệ Môi trường,
gồm các điểm:
Ban hành và tổ chức việc thực hiện các văn bản pháp quy về bảo
vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
9
Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi
trường, kế hoạch phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô
nhiễm môi trường, sự cố môi trường.
Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, các công
trình có liên quan đến bảo vệ môi trường.
Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá
hiện trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường.
Thẩm định các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự
án và các cơ sở sản xuất kinh doanh.
Cấp và thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường.
Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ
môi trường, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về bảo vệ
môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường.
Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Thiết lập quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
10
3. Vị trí, vai trò của Nhà nước về quản lý môi trường
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con
người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất
nước, dân tộc và nhân loại;
Để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và trách nhiệm của
chính quyền các cấp, các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân trong
việc bảo vệ môi trường nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo
đảm quyền con người được sống trong môi trường trong lành,
phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước, góp phần
bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu;
Căn cứ vào Điều 29 và Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
Luật này quy định việc bảo vệ môi trường:
Điều 3
Nhà nước thống nhất quản lý bảo vệ môi trường trong phạm vi
cả nước, lập quy hoạch bảo vệ môi trường, xây dựng tiềm lực
cho hoạt động bảo vệ môi trường ở Trung ương và địa phương.
11
Nhà nước có chính sách đầu tư, khuyến khích và bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước đầu tư
dưới nhiều hình thức, áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ
vào việc bảo vệ môi trường.
Điều 4
Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc giáo dục, đào
tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ, phổ biến kiến thức khoa
học và pháp luật về bảo vệ môi trường.
Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia vào các hoạt động nói
tại Điều này.
Điều 5
Nhà nước bảo vệ lợi ích quốc gia về tài nguyên và môi trường.
Nhà nước Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường với các nước trên thế giới, các tổ chức và cá nhân
nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng quản lý môi trường ở thành phố
Vinh
1. Đặc điểm về kinh tế - xã hội thành phố Vinh
12
Thành phố Vinh là trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh Nghệ
An và đã được Chính phủ quy hoạch để trở thành trung tâm kinh
tế - văn hóa của vùng Bắc Trung Bộ. Hiện nay, thành phố Vinh
là một trong 8 đô thị loại 1 trực thuộc tỉnh, là trung tâm kinh tế
lớn nhất khu vực Bắc Miền Trung. Diện tích 104,96 km².
Dân số: 435.208 người theo chính quyền thành phố năm 2010.
Số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2009 là 303.714
người.
Vinh là thành phố nằm bên bờ sông Lam, phía Bắc giáp
huyện Nghi Lộc, phía Nam và Đông Nam giáp huyện Nghi
Xuân, phía Tây và Tây Nam giáp huyện Hưng Nguyên. Thành
phố Vinh cách thủ đô Hà Nội 295 km về phía Nam, cách Thành
phố Hồ Chí Minh 1.424 km, cách thủ đô Viên Chăn(Lào)400
km về phía Tây.
Về khí hậu: Vinh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có
2 mùa rõ rệt và có sự biến động lớn từ mùa này sang mùa khác.
13
Có hai mùa gió đặc trưng: Gió Tây Nam - gió khô xuất hiện từ
tháng 5 đến tháng 9 và gió Đông Bắc - mang theo mưa phùn
lạnh ẩm ướt kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau.
Đơn vị hành chính gồm 25 phường, xã : Phường Lê
Mao, Phường Lê Lợi, Phường Hà Huy Tập, Phường Đội
Cung, Quang Trung, Cửa Nam, Trường Thi, Hồng Sơn, Trung
Đô, Bến Thuỷ, Đông Vĩnh, Hưng Bình, Hưng Phúc, Hưng
Dũng, Vinh Tân, Quán Bàu, Hưng Đông, Hưng Lộc, Hưng Hòa,
Hưng Chính, Nghi Phú, Nghi Ân, Nghi Kim, Nghi Liên, Nghi
Đức.
Về kinh tế: Thành phố Vinh nằm giữa hai khu kinh tế lớn
là Nghi Sơn (Thanh Hóa) và Vũng Áng (Hà Tĩnh), bên cạnh
thành phố là khu kinh tế Đông Nam (Nghệ An).
Năm 2010, Tốc độ tăng trưởng giá trị SX so với cùng kỳ là
18,1%, thu nhập bình quân đầu người đạt 38,1 triệu đồng, thu
ngân sách đạt 2800 tỷ đồng. TP phấn đấu trong năm 2011, tốc
độ tăng trưởng giá trị SX từ 18,5-19.5%, thu ngân sách đạt từ
3.200 - 3.300 tỷ đồng.
14
Nhiều Tổng Công ty, doanh nghiệp lớn có trụ sở chính ở Vinh
(Ngân hàng Bắc Á, Tập đoàn TH,Tổng Công ty công trình giao
thông 4, Tổng Công ty hợp tác kinh tế QK4, Tổng công ty Hợp
tác kinh tế Việt Lào, Tổng Công ty xây lắp dầu khí Nghệ An,
Tổng công ty CP Vật tư nông nghiệp Nghệ An )
Vinh cũng được biết đến là một thành phố trẻ năng động, có
nhiều tòa nhà cao tầng. Hiện có rất nhiều dự án phát triển đô thị
tại đây. Trong tương lai không xa, Vinh sẽ là một thành phố
hiện đại xứng tầm là đô thị trung tâm vùng Bắc Trung Bộ.
Trong nhiều năm qua cơ cấu kinh tế thành phố Vinh chuyển
dịch tích cực và đúng hướng, trong đó tốc độ phát
triển công nghiệp khá nhanh tập trung chủ yếu là công
nghiệp sạch. Tạo tiền đề phát triển nhiều ngành công
nghiệp của vùng Bắc Trung Bộ với các ngành chế biến
thực phẩm - đồ uống, chế biến thuỷ hải sản, dệt may,
vật liệu xây dựng, cơ khí, sản xuất đồ thủ công mỹ
nghệ, chế tác đá mỹ nghệ, đá trang trí, sản xuất bao bì,
nhựa, giấy
15
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Vinh có 7 khu công nghiệp và
một số cụm công nghiệp:
Khu công nghiệp Bắc Vinh
Khu công nghiệp Đông Nam
Khu công nghiệp Nghi Phú
Khu công nghiệp Hưng Đông
Khu công nghiệp Hưng Lộc
Khu công nghiệp Nghi Thạch
Khu công nghiêp công nghệ cao: Công viên phần mềm
VTC (Tổng Công ty Truyền thông đa phương tiện VTC),
Công viên Công nghệ Thông tin Nghệ An Park (Tập đoàn
Bưu chính viễn thông VNPT)
Cụm công nghiệp dệt may, khai thác cảng Bến Thủy.
Cụm công nghiệp sản xuất Vật liệu xây dựng Trung Đô.
Các ngành dịch vụ như thương mại, tài chính ngân hàng, du
lịch, khách sạn cũng phát triển nhanh chóng và ổn định. Với hệ
thống ngân hàng, các công trình chợ đầu mối bán buôn bán
16
lẻ, siêu thị, hệ thống khách sạn đa cấp, đầu mối các tour du lịch
của tỉnh và vùng Bắc Trung Bộ, tạo cơ sở để trở thành trung
tâmtài chính, thương mại, dịch vụ và du lịch của khu vực Bắc
miền Trung. Từ năm 2003 - 2008, tỷ trọng dịch vụ đạt gần
60% GDP của thành phố và so với tính quy luật chung thì tỷ
trọng dịch vụ trên thể hiện sự tiến bộ trong cơ cấu kinh tế của
thành phố Vinh ngày càng rõ nét.
Về Giáo dục
Thành phố Vinh là một trong 3 trung tâm giáo dục & đào tạo
lớn nhất của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Hiện nay trên
địa bàn thành phố có 7 trường đại học, 13 trường cao đẳng và
nhiều phân hiệu, cùng nhiều trường trung học chuyên nghiệp,
trung tâm dạy nghề và hàng trăm trường học từ bậc học phổ
thông tới ngành học mầm non.
Về Du lịch
Thành phố Vinh là một trong những trung tâm du lịch của tỉnh
Nghệ An và là một điểm đến quan trọng trong tour du lịch con
đường di sản miền Trung. Thành phố Vinh từ lâu đã hấp dẫn du
17
khách bởi một quần thể khu du lịch với những nét đặc trưng tiêu
biểu của một đô thị xứ Nghệ. Đến với thành phố Vinh, du khách
có thể tham gia vào nhiều loại hình du lịch như: du lịch nghiên
cứu, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng Thành phố còn có nhiều di
tích, danh thắng trong đó có tới 14 di tích được xếp hạng cấp
quốc gia, 16 di tích được xếp hạng của tỉnh Nghệ An.
2. Thực trạng quản lý Nhà nước về môi trường ở thành phố
Vinh
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng đến
sự phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Vinh hiện nay. Vậy mà
thành phố hầu như “bó tay” trong việc thực hiện các biện pháp
xử lý và có chăng cũng chỉ là những giải pháp tình thế, đối phó
trước mắt mà tình hình ô nhiễm môi trường ngày càng trầm
trọng thêm.
Tiếp tục Chương trình giám sát về “Công tác quản lý, bảo vệ và
xử lý ô nhiễm môi trường trên địa bàn tỉnh”, ngày 16/4/2012,
Đoàn Giám sát của Ban kinh tế và Ngân sách HĐND tỉnh đã có
buổi làm việc với UBND TP. Vinh.
18
Theo báo cáo của UBND Thành phố Vinh, từ tháng 7/2006 đến
hết tháng 3/2012, ngoài việc áp dụng triển khai thực hiện Luật
Bảo vệ môi trường và các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ
quan nhà nước cấp trên ban hành, UBND TP Vinh đã ban hành
được 12 văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp và gián tiếp liên
quan đến lĩnh vực môi trường; đã cấp được 345 giấy xác nhận
đăng ký cam kết bảo vệ môi trường cho các tổ chức, cá nhân
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn.
Ngoài ra, TP cũng đã lập 6 đoàn thanh, kiểm tra được trên 100
đơn vị, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường, tài nguyên nước đối với 21 đơn vị, tổng số tiền trên 93
triệu đồng. Đội Cảnh sát môi trường thuộc CATP Vinh dù mới
thành lập cuối năm 2011 nhưng cũng đã kiểm tra được 26 đơn
vị, xử lý vi phạm hành chính với tổng số tiền trên 72 triệu đồng.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến vấn đề môi
trường cũng được chú trọng, UBND TP. Vinh đã giải quyết
được 65 trường hợp khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực môi trường.
Tuy nhiên, trên địa bàn thành phố vẫn tồn tại một số vấn nóng
về môi trường khó giải quyết như: xử lý rác thải sinh hoạt trên
19
địa bàn, Nhà máy bia Sài gòn – Nghệ Tĩnh, khu công nghiệp
Bắc Vinh….
Tại buổi làm việc, lãnh đạo TP. Vinh kiến nghị: cần phải sửa
đổi, bổ sung quy định thu phí bảo vệ môi trường; tập trung
nguồn lực đẩy nhanh tiến độ xây dựng Khu liên hợp xử lý chất
thải rắn Nghi Yên và giải quyết vấn đề liên quan; thực hiện đề
án nâng cao năng lực quản lý, chuyên môn của đội ngũ cán bộ
phụ trách môi trường cấp xã…
Tại buổi làm việc, Đoàn Giám sát ghi nhận những nỗ lực của TP
Vinh trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, những ý kiến kiến nghị
của TP. Vinh sẽ được Đoàn tổng hợp và báo cáo lên Thường
trực HĐND tỉnh. Đoàn cũng đề nghị TP.Vinh tiếp tục thực hiện
các biện pháp, chính sách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
nhằm xây dựng TP. Vinh tiến tới văn minh, hiện đại xanh -
sạch- đẹp.
Những vấn đề “nóng hổi nhất” về môi trường ở thành phố
Vinh hiện nay có thể kể đến là:
20
Rác thải và xử lý rác thải là một đề tài quen thuộc của người
dân và chính quyền các cấp tại tỉnh Vinh nhiều năm nay. Người
dân bức xúc vì hàng ngày phải chung sống với ô nhiễm, còn
chính quyền thì loay hoay nhiều năm nay mà vẫn chưa tìm được
vị trí để xây nhà máy xử lý rác. Ở các bãi chôn lấp rác thì đã rơi
vào tình trạng quá tải, gây ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa trực
tiếp đến sức khỏe của hàng ngàn hộ dân. Hiện nay, trên địa bàn
TP Vinh tình trạng mất vệ sinh môi trường đang diễn ra âm ỉ để
lại hậu quả khó lường. Sự chồng chéo trong công tác quản lí,
chế tài xử phạt chưa đủ mức răn đe đang khiến cho lực lượng
chức năng gặp rất nhiều khó khăn.
“Sống chung với rác” là thảm cảnh chung mà người dân thành
phố Vinh đang phải gánh chịu. Dọc các tuyến đường Minh
Khai, Hồ Tùng Mậu, Quang Trung, Nguyễn Trường Tộ…nhiều
đống rác cao, bốc mùi hôi thối nồng nặc, gây cản trở cho các
phương tiện tham gia giao thông, đã có nhiều va chạm giao
thông xảy ra vì phải tránh các đống rác bất đắc dĩ trên đường.
Không chỉ tấn công các tuyến đường, thời gian gần đây các khu
dân cư trên địa bàn thành phố Vinh cũng bị rác thải hành hạ. Ở
21
các khu tập trung đông người như chợ, trường học, bệnh viện,
điểm chờ xe buýt… đều xuất hiện các đống rác lớn. Rác lâu
ngày không được bốc đi, lại gặp thời tiết nắng nóng, mưa nên
bốc mùi hôi bao trùm lên hầu hết các khu dân cư trong Tp. Để
đối phó với rác người dân phải đóng kín cửa suốt ngày. Bên
cạnh đó, các hộ dân phải tự xử lý các đống rác bằng cách gom
lại đem đốt, khói bốc mù mịt nhưng đỡ hôi hơn.
Vào tháng 4/2011, sự việc người dân “cấm cửa” bãi rác ở xã
Nghi Yên, Nghi Lộc đã khiến cho TP Vinh tràn ngập rác. Hàng
trăm tấn rác thải tuồn ra đường với đủ chủng loại, kích cỡ, màu
sắc, mùi vị làm cho cuộc sống người dân gặp rất nhiều khó
khăn.
Được biết, bãi rác Nghi Yên là bãi chứa rác lớn và hiện đại nhất
tỉnh Nghệ An, đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện. Trước
đó, trong phiên họp thường kỳ tháng 4/2011, ông Hồ Đức Phớc,
Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An yêu cầu
huyện Nghi Lộc, thành phố Vinh và các ngành liên quan phải
coi việc xử lý ô nhiễm môi trường tại bãi rác Nghi Yên là công
việc chung để cùng nhau phối hợp làm cho tốt; không để nước
22
từ bãi rác rỉ, chảy ra ngoài gây ô nhiễm môi trường và phải xây
dựng hệ thống xử lý để làm sao nguồn nước thải ra không ảnh
hưởng đến sông Cấm, đến hoạt động du lịch và đến các khu dân
cư xung quanh.
Nhà máy bia Sài Gòn - Nghệ An gây ô nhiễm liên tục trong
nhiều năm. Nhiều gia đình ở phường Trường Thi, phường Hưng
Dũng thành phố Vinh phải đóng hết cửa mà mùi hôi thối vẫn
bốc vào nhà chịu không nổi. Những gia đình ở gần nhà máy phải
sơ tán trẻ con đến chỗ khác. Theo đơn thư của nhân dân, ngày
17-6-2010, UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường
phối hợp với Cảnh sát Môi trường công an tỉnh và UBND thành
phố Vinh tổ chức kiểm tra. Đoàn yêu cầu nhà máy bịt các đường
ống xả bùn thải, nước thải trái quy định, lắp đặt đồng hồ và mở
sổ nhật kí vận hành hệ thống xử lí nước thải. Phạt vi phạm hành
chính 72,5 triệu đồng và truy thu hơn 1 tỉ đồng phí bảo vệ môi
trường. Đến nay, những yêu cầu đó, nhà máy thực hiện đều
không có hiệu quả. Nhà máy không lắp đặt hệ thống quan trắc
nước thải tự động và giảm công suất 25 triệu lít bia/ năm. Theo
nhân dân khu vực này, (trong đó có một số cán bộ, đảng viên và
23
công nhân nhà máy) phản ánh, sở dĩ các đoàn kiểm tra xử lí
không nghiêm, Nhà máy không thực hiện theo yêu cầu của các
đoàn kiểm tra là vì quan chức ở thành phố, tỉnh có cổ phần ở
đây.
Xã Hưng Đông, thành phố Vinh có 6 lò gạch thủ công với tổng
công suất 6,7 triệu viên/ năm nằm hai bên sông Kẻ Gai nơi giáp
ranh với xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên khói bụi làm ô
nhiễm nặng 2 xóm Khoa Đà và Phúc Hòa xã Hưng Tây. Ở xã
Nghi Liên có 13 lò gạch thủ công, tổng công suất 8,66 triệu
viên/ năm, làm ô nhiễm các xóm Thọ Sơn, Tân Sơn xã Nghi
Vạn và nhiều xóm ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc. Nhân
phản ánh nhiều, yêu cầu UBND thành phố Vinh kiên quyết đình
chỉ những lò gạch gây ô nhiễm, làm ảnh hưởng đến sức khỏe
người dân, nhưng UBND thành phố Vinh không xử lí.
Sông Kẻ Gai đoạn đi qua xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên và
xã Hưng Đông thành phố Vinh bị ô nhiễm nặng do cơ sở tái chế
dầu nhớt thải của Công ty TNHH Phúc Thịnh và do nước thải
của Nhà máy tấm lợp Việt Nhật
24
Nhiều loại rác và nhiều tác nhân gây ô nhiễm môi trường vẫn
đang âm thầm gặm nhấm ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.
Nguy hiểm nhất phải kể đến rác thải y tế. Bệnh viện đa khoa
tỉnh Nghệ An là một trong 8 điểm ô nhiễm môi trường nặng
trong tỉnh. Hệ thống xử lí nước thải của bệnh viện bị hỏng. Toàn
bộ nước ở trong bệnh viện thu gom về hai bể điều hòa rồi đổ ra
kênh Bắc và sông Rào Đừng. Hệ thống nước bẩn này làm ô
nhiễm nước ngầm xã Hưng Lộc, Hưng Dũng và Hưng Hòa
thành phố Vinh. Vừa qua, UBND tỉnh đã xử phạt vi phạm hành
chính 100 triệu đồng. Theo nhân dân trong vùng bị ô nhiễm,
mặc dù có đơn gửi lên các cấp kêu nhiều nhưng Bệnh viện chưa
có giải pháp tích cực, trình trạng ô nhiễm đã kéo dài liên tục
nhiều năm. Trong đó có nguyên nhân các ngành chức năng
trong tỉnh xử lí không kiên quyết. Hiện nay, trên địa bàn TP
Vinh có 17 bệnh viện, chưa kể hàng chục trạm y tế và phòng
khám tư. Và hầu hết trong số này đều chưa có hệ thống xử lí rác
thải y tế đạt chuẩn.
Trung tá Trần Đình Chiến - Đội trưởng Đội Cảnh sát Môi
trường Công an TP Vinh cho biết: Hệ thống xử lí rác thải ở các
25
bệnh viện và trung tâm y tế hiện nay còn rất sơ sài. Cả thành
phố chỉ có hệ thống lò đốt của Bệnh viện đa khoa Nghệ An là
đạt tiêu chuẩn nhưng cũng đang xuống cấp nhanh. Vì vậy, thời
gian tới, nếu TP Vinh không có thêm lò đốt rác thải y tế thì hiện
tượng rác thải từ các bệnh viện tuồn ra ngoài là khó tránh khỏi.
Đây là mối nguy hại rất lớn cho sức khỏe người dân bởi các loại
nhựa, bơm kim tiêm từ bệnh viện sẽ trôi về các cơ sở sản xuất
nhựa tái chế và cho ra những sản phẩm trong sinh hoạt hàng
ngày. Đó chính là mầm bệnh cực kì nguy hiểm, ảnh hưởng lâu
dài đến sức khỏe người dân.
Bên cạnh đó, hiện nay, ý thức bảo vệ môi trường của cơ quan,
doanh nghiệp còn thấp. Hầu hết nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản
xuất chưa có hệ thống xử lí nước thải đạt chuẩn. Thậm chí,
nhiều cơ sở đã thải thẳng chất thải độc hại ra môi trường khiến
nguồn nước bị ô nhiễm, môi trường bị hủy hoại từng ngày.
Hiện nay, nhiều nơi, nhiều nhà máy, xí nghiệp vi phạm pháp
luật về môi trường rất tinh vi như đào ngầm hệ thống nước thải,
thải rác vào đêm khuya… gây khó khăn cho lực lượng kiểm tra.
Trong lúc đó, lực lượng Cảnh sát môi trường Công an TP Vinh