Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Quy trình xây dựng và ban hành văn bản QLNN của Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.45 KB, 96 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để đề ra đường lối đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đưa
nước ta vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hoá, Hiện đại
hoá đất nước, hội nhập quốc tế và khu vực, đồng thời đáp ứng các yêu cầu về
tăng cường quản lý nhà nước đối với xã hội, vai trò của công tác xây dựng và
ban hành văn bản trong các cơ quan nhà nước ngày càng giữ vị trí quan trọng,
đặc biệt là các cơ quan nhà nước ở Trung ương. Văn bản vừa là công cụ, vừa là
phương tiện để các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình.
Những năm qua, nhà nước đã quan tâm và từng bước hoàn thiện công tác
xây dựng và ban hành văn bản cho các cơ quan nhà nước ở Trung ương. Thể
hiện bằng việc: năm 1996 Quốc hội đã ban hành Luật Ban hành văn bản QPPL
và luật này được sửa đổi bổ sung năm 2002, năm 2005 Chính phủ ban hành
Nghị định 161/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật ban hành văn bản QPPL và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật Ban hành văn bản QPPL. Các văn bản pháp lý nêu trên đã hình thành một
quy trình tương đối đồng bộ về thủ tục, trình tự soạn thảo các văn bản QPPL.
Tuy nhiên đối với các văn bản hành chính thì tuỳ theo đặc điểm hoạt động của
từng cơ quan mà có quy trình ban hành tương ứng, chưa được pháp luật quy
định.
Thực tế cho thấy, hoạt động xây dựng và ban hành văn bản của các cơ
quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan nhà nước ở Trung ương đã mang lại
nhiều kết quả đáng kể, đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Tuy vậy, trong hoạt động xây dựng và ban hành văn
bản vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trên nhiều phương diện.
Nguyên nhân của những tồn tại này chính là do việc xây dựng và ban
hành văn bản không tuân thủ đầy đủ các bước trong quy trình xây dựng và ban
hành văn bản, dẫn đến các văn bản được ban hành kém chất lượng, làm giảm
hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước.
1
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, trong thời gian vừa qua có nhiều nhà


nghiên cứu về văn bản đã đưa ra nhiều ý kiến, công trình nghiên cứu góp phần
hoàn thiện quy trình xây dựng và ban hành văn bản nhằm nâng cao chất lượng
soạn thảo văn bản QLNN. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về quy trình xây dựng và
ban hành văn bản trong các cơ quan cụ thể còn ít và chưa đồng bộ. Có thể nói
việc nghiên cứu về quy trình xây dựng và ban hành văn bản là yêu cầu cấp thiết
đặt ra hiện nay. Vì vậy em đã chọn đề tài “Quy trình xây dựng và ban hành văn
bản QLNN của Bộ Giáo dục và Đào tạo” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Năm 1996, khi Luật ban hành văn bản QPPL được ban hành, chủ đề
nghiên cứu về khung pháp luật của các văn bản QPPL đã thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà khoa học thuộc các chuyên ngành khác nhau: Luật học, Hành
chính học, Văn bản học ở những góc độ và phạm vi khác nhau. Về văn bản
QPPL nói chung đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố như: Giáo
trình “Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật” của Học viện Hành chính Quốc
gia, Giáo trình “Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật” của Đại học Luật Hà
Nội, Giáo trình “Kỹ thuật xây dựng và ban hành văn bản” của Học viện Hành
chính Quốc gia, Sách “Soạn thảo và xử lý văn bản QLNN” của Học viện Hành
chính Quốc gia,…Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu ở cấp độ luận
văn Thạc sỹ chuyên ngành Quản lý Hành chính công như: “Hoàn thiện thủ tục
xây dựng và ban hành văn bản QPPL của UBND Thành phố Hà Nội” của
Nguyễn Công Long; “Nâng cao chất lượng ban hành văn bản QPPL ở cấp Bộ
nước ta hiện nay” của Nguyễn Quốc Việt; “Ban hành văn bản QLNN của cấp
xã” của Nguyễn Văn Bình; “Hoàn thiện quy trình xử lý văn bản của UBND
quận, huyện” của Nguyễn Lương Bằng…Một số Khoá luận tốt nghiệp cử nhân
Hành chính như: “Tình hình ban hành văn bản QLNN và công tác thẩm định
văn bản QPPL của Sở Tư pháp Hà Tây” của Phạm Thị Diễm, “Hoàn thiện công
tác ban hành văn bản trong hoạt động của Vụ Thanh tra – Pháp chế ( Ban Tổ
2
chức Cán bộ của Chính phủ)” của Doãn Quốc Trung, “Quy trình xây dựng và

ban hành văn bản QPPL tại bộ Thuỷ sản” của Phạm thị Kim Liên.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập trực tiếp hoặc
gián tiếp đến nội dung quy trình xây dựng và ban hành văn bản QLNN ở những
mức độ và phạm vi khác nhau. Có đề tài đề cập trực tiếp đến quy trình xây dựng
và ban hành văn bản như đề tài “Quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL
tại bộ Thuỷ sản” của Phạm Thị Kim Liên. Một số đề tài khác chỉ đề cập đến một
phần nhỏ về quy trình xây dựng và ban hành văn bản.
Tuy nhiên việc nghiên cứu về quy trình xây dựng và ban hành văn bản
QLNN đặc biệt là các cơ quan nhà nước ở Trung ương vẫn còn ít và chưa hệ
thống. Các đề tài nghiên cứu chủ yếu đề cập đến quy trình xây dựng và ban hành
các văn bản QPPL, trong khi quy trình xây dựng và ban hành các văn bản hành
chính lại ít được đề cập đến. Vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ
thống và toàn diện về quy trình xây dựng và ban hành các văn bản QLNN của
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhưng những công trình nghiên cứu nói trên là nguồn
tài liệu quan trọng được tham khảo trong quá trình làm khoá luận của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Trên cơ sở lý luận chung, nhiệm vụ của khoá luận là:
- Mô tả quy trình xây dựng và ban hành văn bản QLNN của Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
- Đánh giá thực trạng quy trình xây dựng và ban hành văn bản của Bộ.
- Tìm ra các nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong quy trình xây
dựng và ban hành văn bản của Bộ.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hướng tới hoàn thiện quy trình xây dựng
và ban hành văn bản của Bộ.
Như vậy, đề tài hướng tới mục đích là: nghiên cứu quy trình xây dựng và
ban hành văn bản qua đó làm rõ thực trạng việc thực hiện quy trình xây dựng và
ban hành văn bản tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ đó đưa ra một số kiến nghị và
đề xuất góp phần khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy những ưu điểm,
tiến tới hoàn thiện quy trình xây dựng và ban hành văn bản QLNN của Bộ.
3

4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là: Quy trình xây dựng và ban hành
văn bản QLNN của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được tiếp cận theo phương pháp tư duy khoa học, lôgic, dựa vào
nội dung của các văn bản pháp luật của nhà nước về quy trình xây dựng và ban
hành văn bản làm nền tảng. Sau đó qua quan sát, gắn kết lý luận với thực tiễn
hoạt động xây dựng và ban hành văn bản QLNN của Bộ Giáo dục và Đào tạo
rút ra nhận xét, đánh giá.Trong quá trình thực hiện, tôi đã sử dụng các những
phương pháp sau đây:
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp tổng hợp từ các báo cáo, tài liệu tham khảo, các tài liệu thu
thập được liên quan đến quy trình xây dựng và ban hành văn bản của Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về văn bản và công tác xây dựng, ban hành văn
bản
Chương II: Quy trình xây dựng và ban hành văn bản QLNN của Bộ Giáo
dục và Đào tạo
Chương III: Một số kiến nghị và đề xuất nhằm hướng tới hoàn thiện quy
trình xây dựng và ban hành văn bản QLNN của Bộ Giáo dục và Đào tạo
4
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN BẢN VÀ CÔNG TÁC
XÂY DỰNG, BAN HÀNH VĂN BẢN
I. TỔNG QUAN VỀ VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước, văn bản có vai trò quan

trọng, văn bản vừa là phương tiện, vừa là sản phẩm của quá trình đó. Văn bản là
phương tiện để ghi lại và truyền đạt các quyết định quản lý, là hình thức để cụ
thể hoá pháp luật, là phương tiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc phạm
vi quản lý của Nhà nước. Văn bản là công cụ điều hành không thể thiếu và là
sản phẩm tất yếu của hoạt động quản lý nhà nước.
1. Khái niệm
Hoạt động giao tiếp của nhân loại được thực hiện chủ yếu bằng ngôn ngữ.
Với sự ra đời của chữ viết, con người đã thực hiện được giao tiếp ở những
khoảng không gian cách biệt nhau vô tận qua các thế hệ. Hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ luôn được thực hiện qua quá trình phát và nhận các ngôn bản. Là
sản phẩm của ngôn ngữ của hoạt đông giao tiếp, ngôn bản tồn tại ở dạng âm
thành (là lời nói ) hoặc được ghi lại duới dạng chữ viết. Ngôn bản được ghi lại
dưới dạng chữ viết chính là văn bản.
Như vậy: Văn bản là phương tiện ghi lại và truyền đạt lại thông tin bằng
một ngôn ngữ (hay ký hiệu) nhất định. Với cách hiểu như vậy, văn bản còn có
thể gọi là vật mang tin được bằng ký hiệu ngôn ngữ.
Trong hoạt động QLNN, giao dịch giữa các cơ quan nhà nước với nhau,
cơ quan nhà nước với tổ chức, công dân, với các yếu tố nước ngoài…văn bản là
phương tiện thông tin cơ bản, là sợi dây liên lạc chính, là một trong những yếu
tố quan trọng, nhất thiết để kiến tạo thể chế của nền hành chính nhà nước. Có
thể thấy văn bản chính là phương tiện để xác định và vận dụng các chuẩn mực
pháp lý vào quá trình quản lý nhà nước.
Như vậy: Văn bản QLNN là những quyết định và thông tin quản lý thành
văn (được văn bản hoá) do các cơ quan quản lý nhà nước ban hành theo thẩm
5
quyền, trình tự, thủ tục, hình thức nhất định và được nhà nước đảm bảo thi hành
bằng những biện pháp khác nhau nhằm điều chỉnh các mối quan hệ quản lý nội
bộ nhà nước hoặc giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức và công dân.
Văn bản QLNN có các đặc điểm nhận biết sau:
- Về chủ thể ban hành: Văn bản QLNN do cơ quan nhà nước có thẩm

quyền ban hành như: Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Bộ, cơ quan
ngang Bộ Giáo dục và Đào tạo, UBND, HĐND các cấp.
- Về nội dung: Văn bản QLNN dùng để truyền đạt các quyết định quản lý
nhà nước và các thông tin quản lý thông thường của các chủ thể quản lý.
- Về cách thức ban hành: Văn bản QLNN được ban hành theo hình thức,
trình tự, thủ tục nhất định ( được Luật định hoặc các nguyên tắc khác). Khi ban
hành phải được đảm bảo thi hành bằng các biện pháp khác nhau kể cả biện pháp
cưỡng chế.
- Về mục đích ban hành: Văn bản QLNN được ban hành dùng để điều
chỉnh các mối quan hệ quản lý nội bộ nhà nước hoặc giữa cơ quan nhà nước với
các tổ chức và công dân.
2. Chức năng của văn bản QLNN
Văn bản có nhiều chức năng khác nhau. Mỗi loại văn bản có chức năng
nhất định. Tuỳ theo góc độ tác động và nội dung thực hiện của văn bản mà các
chức năng ấy phát huy tác dụng khác nhau. Nhìn chung, văn bản có các chức
năng cơ bản sau:
- Chức năng thông tin:
Thông tin là chức năng cơ bản nhất của mọi loại văn bản. các thông tin
chứa đựng trong văn bản là một trong những nguồn của cải quý giá của đất
nước; là yếu tố quyết định để đưa ra những chủ trương, chính sách, những quyết
định hành chính cá biệt nhằm giải quyết những công việc nội bộ nhà nước, cũng
như những công việc liên quan đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của chính phủ.
Dưới dạng văn bản, về thời điểm, nội dung thông báo thông tin thường
bao gồm 3 loại với những nét đặc thù riêng của mình:
6
+ Thông tin quá khứ: là những thông tin liên quan đến những sự việc đã
được giải quyết trong quá trình hoạt động của các cơ quan quản lý.
+ Thông tin hiện hành; là những thông tin liên quan đến những sự việc
đang xảy ra hàng ngày trong các cơ quan thuộc hệ thống bộ máy quản lý nhà
nước.

+ Thông tin dự báo: được phản ánh trong văn bản là những thông tin
mang tính kế hoạch tương lai, các dự báo chiến lược, hoạt động bộ máy nhà
nước cần dựa vào đó để hoạch định phương hướng hoạt động cho mình.
Cả ba thông tin trên đây có tầm quan trọng , có mối quan hệ mật thiết với
nhau, giúp cho toàn xã hội có thể hiểu được quá khứ, đánh giá, phân tích được
hiện tại và đinh hướng mục đích cho tương lai.
- Chức năng quản lý:
Là công cụ tổ chức các hoạt động QLNN , văn bản giúp cho các cơ quan
và lãnh đạo điều hành các hoạt động của bộ máy nhà nước trong nhiều phạm vi
không gian và thời gian.
Với chức năng thông tin và thực hiện chức năng quản lý, văn bản trở
thành một trong những cơ sở đảm bảo cung cấp cho hoạt động quản lý những
thông tin cần thiết giúp cho các nhà lãnh đạo nghiên cứu, ban hành các quyết
định quản lý chính xác, thuận lợi. Là phương tiện thiết yếu để các cơ quan quản
lý có thể truyền đạt chính xác các quyết định quản lý đến hệ thống bị quản lý
của mình, đồng thời cũng là đầu mối để kiểm tra, theo dõi các hoạt động của các
cơ quan cấp dưới.
- Chức năng pháp lý:
Văn bản được sử dụng để ghi lại những quy định pháp luật và các quan hệ
xã hội được gọi là văn bản luật hay văn bản dưới luật, được hình thành để quy
định những điều được phép hay không được phép của tất cả mọi người trong xã
hội, nhằm mục đích điều chỉnh, duy trì sự phát triển của xã hội theo đúng chiều
hướng đã định trước của Nhà nước.
Văn bản là sản phẩm của hoạt động áp dụng pháp luật, do đó là cơ sở
pháp lý vững chắc để nhà nước giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ quản lý hết
7
sức phức tạp của mình. Việc nắm vững chức năng pháp lý của văn bản QLNN
có ý nghĩa rất thiết thực. Nên việc xây dựng và ban hành chúng đòi hỏi phải cẩn
thận và chuẩn mực, đảm bảo các nguyên tắc pháp chế, tính phù hợp với thực
tiến khách quan, tiết kiệm, dễ hiểu và dễ thực hiện.

- Chức năng văn hoá - xã hội:
Văn bản là sản phẩm sáng tạo của con người hình thành trong quá trình
nhận thức, quá trình lao động để tổ chức xã hội, cải tạo tự nhiên. Văn bản ghi
lại, truyền bá lại cho thế hệ sau những truyền thống quý báu được tích luỹ từ
nhiều thế hệ. Qua văn bản quản lý ta tìm thấy những định chế cơ bản về cách
sống trong các thời kỳ lịch sử, đời sống văn hoá phong phú giao tiếp hành chính.
Văn bản đúng yêu cầu, chính xác về nội dung thể hiện trình độ văn hoá và trở
thành biểu mẫu văn hoá.
- Ngoài các chức năng cơ bản trên văn bản còn có các chức năng khác
như: chức năng thông kê, chức năng sử liệu, chức năng kinh tế…
Như vậy, văn bản có nhiều chức năng khác nhau và mọi chức năng của
văn bản được thực hiện trong một chỉnh thể thống nhất của việc quản lý nhà
nước nói riêng và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nói chung.
3. Vai trò của văn bản QLNN
Văn bản có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước. Vài trò
đó được thể hiện như sau:
- Văn bản là phương tiện đảm bảo thông tin cho hoạt động quản lý: Thực
tiễn cho thấy rằng chất lượng hoạt động quản lý nhà nước phụ thuộc rất nhiều
vào cách tổ chức và sử dụng một cách khoa học hệ thống thông tin, trong đó có
thông tin văn bản. Đối với người lãnh đạo ở bất kỳ cấp nào trong cơ quan, tổ
chức hay doanh nghiệp nào, muốn làm tốt công việc cũng cần phải có những
thông tin cần thiết thông qua hệ thống văn bản.
- Văn bản là phương tiện truyền đạt các quyết định quản lý: Sau khi thu
thập đầy đủ và phân tích những thông tin cần thiết , người lãnh đạo phải đưa ra
những quyết định quản lý đối với đơn vị mình phụ trách thông qua văn bản.
Thông thường các quyết định hành chính được truyền đạt sau khi được thể chế
8
hoá thành các văn bản mang tính quản lý nhà nước. Các quyết định quản lý cần
phải được truyền đạt nhanh chóng và đúng đối tượng được đối tượng bị quản lý
thông suốt, hiểu được nhiệm vụ và nắm bắt được ý đồ của lãnh đạo để nhiệt tình,

yên tâm và phấn khởi thực hiện. Sử dụng văn bản với nhiệm vụ truyền đạt quyết
định quản lý là một mặt của tổ chức khoa học lao động quản lý.
- Văn bản là phương tiện kiểm tra, theo dõi hoạt động của bộ máy lãnh
đạo và quản lý. Kiểm tra có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với hoạt động quản lý
nhà nước. Kiểm tra là điều kiện tiên quyết và tất yếu nhằm đảm bảo cho bộ máy
quản lý hoạt động có hiệu quả, hạn chế được bệnh quan liêu, giáy tờ, giúp cấp
trên đánh giá đúng năng lực, tinh thần trách nhiêm của cán bộ cấp dưới, để phát
hiện và khắc phục kịp thời những thiếu sót, sai lầm. Không có kiểm tra, theo dõi
thường xuyên, thiết thực và chặt chẽ thì mọi nghị quyết, chỉ thị, quyết định quản
lý rất có thể chỉ là lý thuyết suông.
- Văn bản là công cụ xây dựng hệ thống pháp luật: Hệ thống pháp luật
hành chính gắn liền với việc đảm bảo quyền lực nhà nước trong hoạt động quản
lý của các cơ quan. Xây dựng hệ thống pháp luật hành chính là nhằm tạo ra cơ
sở cho các cơ quan hành chính nhà nước, các công dân có thể hoạt động theo
những chuẩn mực pháp lý thông nhất, phù hợp với sự phân chia quyền hành
trong quản lý nhà nước.
Khi xây dựng và ban hành các văn bản quản lý nhà nước cần chú ý đảm
bảo các yêu cầu về nội dung và hình thức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mỗi cơ quan sao cho các văn bản ban hành có giá trị điều hành
thực tế chứ không chỉ mang tính hình thức và về nguyên tắc chỉ khi đó các văn
bản mới đảm bảo được quyền uy của cơ quan nhà nước.
Như vậy, văn bản QLNN có vai trò quan trọng bậc nhất trong việc xây
dựng và định hình một chế độ pháp lý cần thiết cho việc xem xét các hành vi
hành chính trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ quản lý của các cơ quan, dặc
biệt có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với hoạt động quản lý nhà nước.
9
4. Phân loại văn bản QLNN
Hệ thống văn bản QLNN gồm nhiều loại, do nhiều chủ thể khác nhau ban
hành, mỗi loại có những tính chất đặc thù riêng. Để nâng cao chất lượng, hiệu
quả tác động của chúng cũng như tạo điều kiện cho công tác nghiên cứu, soạn

thảo, bên cạnh việc phải xem xét chúng một cách toàn diện, biện chứng trong
một hệ thống cần phải phân chia hệ thống phức tạp này thành những nhóm nhỏ.
Có nhiều tiêu chí để phân loại, một số tiêu chí phân loại cơ bản là :
- Phân loại theo tác giả: các văn bản được phân biệt với nhau theo từng
loại cơ quan đã xây dựng và ban hành chúng.
- Phân loại theo tên loại.
- Phân loại theo nội dung.
- Phân loại theo mục đích biên soạn.
- Phân loại theo địa điểm ban hành.
- Phân loại theo thời gian ban hành.
- Phân loại theo kĩ thuật chế tác, ngôn ngữ thể hiện,v.v…
- Phân loại theo hướng chu chuyển của văn bản.
- Phân loại theo hiệu lực pháp lý.

Với mục đích giúp cho người soạn thảo trong khi tiến hành công việc
soạn thảo xác định được mục tiêu biên soạn và sử dụng văn bản phù hợp, việc
phân loại ở đây dựa theo tiêu chí hiệu lực pháp lý và tên loại. Theo cách này văn
bản QLNN được phân làm bốn loại chính :
4.1. Văn bản quy phạm pháp luật (QPPL)
Văn bản QPPL là những văn bản do CQNN có thẩm quyền ban hành theo
thủ tục, trình tự, hinhg thức luật định, trong đó có chứa các quy tắc xử sự chung
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống văn bản QPPL được quy định chi tiết tại Điều 1 Luật Ban hành
văn bản QPPL ngày 12/11/1996, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/1997; đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành
10
văn bản QPPL do Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 2 thông qua 16/12/2002, có
hiệu lực từ 27/12/2002. Theo đó, hệ thống văn bản QPPL bao gồm:
1. Văn bản do Quốc hội ban hành : Hiến pháp, luật, nghị quyết
Văn bản do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội : Pháp lệnh. nghị quyết

2. Văn bản do các CQNN có thẩm quyền khác ở trung ương ban hành
đểthi hành văn bản QPPL của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội :
a. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
b. Nghị quyết, nghị định của Chính phủ;
Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ;
c. Quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ;
d. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Quyết
định, chỉ thị, thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao;
đ. Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các CQNN có thẩm quyền giữa
CQNN có thẩm quyền với tổ chức chính trị xã hội;
3. Văn bản do HĐND, UBND ban hành để thi hành văn bản QPPL của
Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và văn bản của CQNN cấp trên; Văn bản
do UBND ban hành còn để thi hành nghị quyết của HĐND cùng cấp :
a. Nghị quyết của HĐND.
b. Quyết định, chỉ thị của UBND.
* Đặc điểm của văn bản QPPL : Văn bản QPPL có các đặc điểm sau:
- Chứa đựng quy tắc xử sự chung, nghĩa là quy định các chuẩn mực mà
mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia vào mối quan hệ xã
hội mà quy tắc đó điều chỉnh.
- Có hiệu lực đối với toàn xã hội hay một bộ phận xã hội ( trên địa bàn
toàn quốc hay từng địa phương).
- Áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần trong thời gian dài.
- Được Nhà nước đảm bảo thi hành: việc đảm bảo thi hành được thực hiện
thông qua các biện pháp như: tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, hành chính,
11
kinh tế,.. trong những trường hợp cần thiết thì Nhà nước áp dụng các biện pháp
cưỡng chế bắt buộc phải thi hành và quy định chế tài đối với hành vi vi phạm.
- Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo hình thức, trình tự,

thủ tục luật định (được quy định trong Luật ban hành văn bản QPPL và Luật sửa
đổi bổ sung một số điều trong Luật ban hành văn bản QPPL).
4.2. Văn bản cá biệt
Văn bản cá biệt là những văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo trình tự, thủ tục nhất định nhằm đưa ra các quy tắc xử sự riêng đối với
từng trường hợp, vụ việc cụ thể .
Văn bản cá biệt là những văn bản có hình thức tên gọi giống như một số
văn bản lập quy, song chúng không chứa đựng QPPL mà chỉ bao hàm các quy
tắc xử sự riêng thuộc thẩm quyền của từng cơ quan, cá nhân ban hành nhằm giải
quyết các vụ việc cá biệt cụ thể như: quyết định xử phạt, nâng lương, thuyên
chuyển công tác, tiếp nhận cán bộ, …Thực chất nó là một loại văn bản áp dụng
pháp luật. Vì vậy nó có những đặc điểm khác với văn bản lập quy.
Đặc điểm của văn bản cá biệt là:
- Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành, được
bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế Nhà nước.
- Có tính chất cá biệt, được áp dụng một lần đối với cá nhân, tổ chức cụ
thể trong những trường hợp xác định và thời hạn định rõ.
- Có cơ sở ban hành và phù hợp với luật và dựa trên những QPPL cụ thể
để đưa ra quy tắc xử sự riêng. Ngược lại nếu không đúng với các quy định trong
các văn bản QPPL sẽ bị huỷ bỏ, đình chỉ theo luật.
- Được thể hiện trong những hình thức pháp lý nhất định như quyết định,
chỉ thị, lệnh. Thể thức, trình tự ban hành theo những hình thức nhất định chưa có
luật điều chỉnh.
Các văn bản cá biệt như quyết định, chỉ thị, có cơ cấu và thể thức gần
giống như văn bản QPPL . Về cơ bản nó có các phần nội dung và cách trình bày
như văn bản QPPL. Tuy nhiên quy trình soan thảo văn bản cá biệt đơn giản hơn
nhiều so với quy trình của văn bản QPPL . Văn bản cá biệt là một dạng của văn
12
bản áp dụng pháp luật và để điều chỉnh các quan hệ cụ thể vì vậy văn bản cá biệt
được ban hành với tỷ lệ lớn hơn gấp nhiều lần so với văn bản QPPL.

Thông thưòng văn bản cá biệt là những văn bản liên quan đến quyết định
nhân sự như quyết định tuyển dụng, bổ nhiệm, thuyên chuyển, điều động, khen
thưởng, kỷ luật cán bộ công chức,…liên quan đến quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, quyết định phê duyệt dự án; chỉ thị về phát động phong trào thi
đua….
Có hai hình thức văn bản chủ yếu là: quyết định cá biệt và chỉ thị cá biệt
Sự khác biệt giữa văn bản cá biệt và văn bản QPPL được thể hiện như
sau:
Văn bản quy phạm pháp luật Văn bản cá biệt
- Đưa ra quy tắc xử sự chung
- Có hiệu lực đối với toàn xã hội hoặc
một bộ phận xã hội
- Áp dụng nhiều lần trong thời gian dài
- Điều chỉnh quan hệ xã hội nói chung
- Thể thức, trình tự luật định
- Đưa ra quy tắc xử sự riêng (trên cơ sở
văn bản QPPL)
- Có hiệu lực đối với đối tượng cụ thể
- áp dụng một lần, thời hạn định rõ
- Giải quyết vụ việc cụ thể
- Thể thức, trình tự nhất định (chưa có
luật định)
Được Nhà nước đảm bảo thi hành
4.3. Văn bản hành chính thông thường
Văn bản hành chính thông thường là những văn bản mang tính chất thông
tin điều hành nhằm thực hiện các văn bản QPPL hoặc dùng để giải quyết các
nghiệp vụ cụ thể. Nó thường dùng để phản ánh tình hình giao dịch, trao đổi, ghi
chép công việc, báo cáo công vụ của các cơ quan nhà nước, đoàn thể, tổ chức với
nhau hay trong cùng một đơn vị.
* Văn bản hành chính thông thường có đặc điểm là:

- Không quy định rõ thẩm quyền và không giới hạn thẩm quyền.
- Ra đời theo tính chất, yêu cầu của công việc;
- Không mang tính chế tài bắt buộc.
13
- Có nhiều biến thể bao gồm các văn bản có tên loại và các văn bản không
có tên loại.
Văn bản hành chính thông thường là phương tiện được dùng đến hàng
ngày do đó chiếm tỷ lệ rất lớn so với 2 loại trên, văn bản hành chính có nội dung
bao quát, phạm vi rông rãi, bố cục đa dạng tuỳ thuộc vào vấn đề của nội dung
cần trình bày.
Văn bản hành chính thông thường có một số hình thức cơ bản sau: công
văn, thông báo, thông cáo, báo cáo, tờ trình, biên bản, đề án, phương án, kế
hoạch chương trình, diễn văn, công điện, các loại giấy (giấy nghỉ phép, giấy đi
đường..), các loại phiếu (phiếu gửi, phiếu thu, phiếu chi…).
4.4. Văn bản chuyên môn – kỹ thuật
(Nghị định 110/2004/NĐ-CP ngày 08/4/2004 của Chính phủ về công tác
văn thư gọi là văn bản chuyên ngành).
Đây là hệ thống văn bản đặc thù thuộc thẩm quyền ban hành của một số
cơ quan nhà nước nhất định theo quy định của pháp luật. Những cơ quan, tổ
chức khác khi có nhu cầu sử dụng các loại văn bản này phải theo mẫu quy định
của các cơ quan nói trên, không được tuỳ tiện thay đổi nội dung và hình thức
của những văn bản đã được mẫu hoá.
- Văn bản chuyên môn: trong các lĩnh vực như tài chính, tư pháp, ngoại
giao…
- Văn bản kỹ thuật: trong các lĩnh vực như xây dựng, kiến trúc, trắc địa,
bản đò, khí tượng, thuỷ văn…
Tóm lại, văn bản QLNN rất đa dạng do nhiều chủ thể ban hành dưới các
hình thức khác nhau để đưa pháp luật vào thực tiễn quản lý mọi mặt của đời
sống xã hôi như: chính trị, văn hoá, an ninh, giáo dục…Văn bản quản lý giúp ổn
định tổ chức nội bộ các cơ quan nhà nước trong việc xác định cơ chế, lề lối làm

việc, quan hệ giữa các bộ phận trong việc đặt ra và thực hiện các quy định về
quyền và nghĩa vụ của công dân. Văn bản quản lý giúp các cấp, các cán bộ có
thẩm quyền đặt ra những quy định cần thiết để điều chỉnh quan hệ xã hội phát
14
sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Ban hành văn bản QLNN trở
thành hình thức hoạt động quan trọng của các chủ thể quản lý Nhà nước.
II. NHỮNG YÊU CẦU VỀ KỸ THUẬT SOẠN THẢO VĂN BẢN QLNN
Văn bản QLNN là công cụ để các cơ quan QLNN cụ thể hoá và truyền đạt
kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc
sống. Việc soạn thảo, ban hành văn bản đảm bảo các yêu cầu quy định có vai trò
quan trọng trong hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước từ Trung ương
đến cơ sở, giúp các cơ quan nhà nước có chuẩn mực trong việc xây dựng văn
bản cũng như phục vụ mọi nhu cầu chính đáng của đời sống xã hội.
Những yêu cầu về kỹ thuật soạn thảo văn bản QLNN bao gồm những yêu
cầu sau:
1. Văn bản phải đảm bảo tính hợp pháp
Tính hợp pháp của văn bản được thể hiện ở chỗ:
- Văn bản ban hành phải phù hợp với pháp luật hiện hành, không trái với
các văn bản của cấp trên.
- Văn bản được ban hành phải đảm bảo đúng thẩm quyền : thẩm quyền
ban hành văn bản bao gồm 2 mặt là thẩm quyền nội dung và thẩm quyền hình
thức.
Về thẩm quyền nội dung: văn bản phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và phạm vi hoạt động của cơ quan ban hành. Có nghĩa là, hệ thống
văn bản phải được ban hành đúng thẩm quyền theo trật tự pháp lý quy định,
không có sự mâu thuẫn, chồng chéo giữa các cơ quan.
Về thẩm quyền hình thức: các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành
những văn bản QPPL được quy định cho chính cơ quan mình, không sử dụng
những hình thức văn bản không được quy định theo pháp luật.
- Văn bản được ban hành theo đúng hình thức và trình tự do pháp luật quy

định.
2. Văn bản phải đảm bảo tính khoa học
Tính khoa học của văn bản được thể hiện ở các khía cạnh nội dung và
hình thức của văn bản.
15
- Về nội dung: một văn bản có tính khoa học phải đảm bảo:
+ Có đủ lượng thông tin quy phạm và thông tin thực tế cần thiết. Chức
năng thông tin là chức năng tổng quát nhất của văn bản. Thông tin quản lý
chuyển đạt văn bản được xem là đáng tin cậy nhất.
+ Các thông tin được sử dụng để đưa vào văn bản phải được xử lý và đảm
bảo chính xác: Sự kiện và số liệu chính xác, đúng thực tế và còn hiện thời,
không sử dụng sự kiện và số liệu quá cũ, các thông tin chung chung và lặp lại từ
văn bản khác.
+ Đảm bảo sự lôgic về nội dung, sự nhất quán về chủ đề, bố cục chặt chẽ.
Trong một văn bản cần khai triển những việc có quan hệ mật thiết với nhau.
+ Đảm bảo tính hệ thống của văn bản. Nội dung của văn bản phải là một
bộ phận cấu thành hữu cơ của hệ thống văn bản quản lý nhà nước nói chung.
+ Phải có tính dự báo cao.
+ Hướng tới quốc tế hoá ở mức độ thích hợp.
- Về hình thức của văn bản: Hình thức của văn bản được thể hiện ở việc sử
dụng ngôn ngữ và thể thức của văn bản.
+ Sử dụng tốt ngôn ngữ hành chính- công vụ chuẩn mực. Ngôn ngữ và
hành văn phải đảm bảo sự nghiêm túc, chuẩn xác, khách quan, chuẩn mực và
phổ thông. Đối tượng thi hành chủ yếu của văn bản là các tầng lớp nhân dân có
trình độ học vấn khác nhau, trong đó phần lớn là trình độ văn hoá thấp. Vì vậy
phải sử dụng ngôn ngữ phổ thông đại chúng, tránh lạm dụng các thuật ngữ hành
chính – công vụ chuyên môn sâu.
+ Thể thức của văn bản: Văn bản có tính khoa học phải đảm bảo các yêu
cầu về thể thức như sau:
* Khái niệm:

Theo thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 6/5/2005 của
Bộ Nội Vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình
bày văn bản thì:
16
Thể thức văn bản là tập hợp các thành phần cấu thành văn bản, bao gồm
những thành phần chung áp dụng đối với các loại căn bản và thành phần bổ sung
trong những trường hợp cụ thể hoặc đối với một số loại văn bản nhất định.
* Vùng trình bày:
Theo thông tư số 55/TTLT ngày 6/5/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng
Chính phủ, văn bản QPPL và văn bản hành chính được trình bày trên giấy khổ
A4 (210 mm x 297 mm).
Các loại văn bản như giấy giới thiệu, giấy biên nhận hồ sơ, phiếu gửi,
phiếu chuyển có thể được trình bày trên giấy khổ A5 (148 mm x 210 mm) hoặc
trên giấy mẫu in sẵn.
* Các yếu tố về thể thức:
Theo thông tư 55/TTLT và Điều 5 nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày
8/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư, thể thức văn bản QPPL và văn bản
hành chính bao gồm các thành phần sau:
- Quốc hiệu
- Tên cơ quan, tổ chức ban hành văn bản
- Số và ký hiệu của văn bản
- Địa danh và ngày, tháng, năm ban hành văn bản
- Tên loại và trích yếu nội dung của văn bản
- Nội dung văn bản
- Chức vụ, họ tên và chữ ký của người có thẩm quyền
- Dấu của cơ quan, tổ chức
- Nơi nhận
- Dấu chỉ mức độ khẩn, mật (đối với những văn bản loại khẩn, mật).
- Các thành phần thể thức khác như:
+ Địa chỉ cơ quan, tổ chức; địa chỉ e-mail, địa chỉ trên mạng, số điện

thoại, số Telex, số Fax.
+ Các chỉ dẫn về phạm vi lưu hành như “trả lại sau khi họp (hội
nghị)”, “xem xong trả kại”, “lưu hành nội bộ” hoặc chỉ dẫn về dự thảo
văn bản như “dự thảo” hay “dự thảo lần…”/
17
+ Ký hiệu người đánh máy và số lượng bản phát hành.
+ Phụ lục
+ Số trang
Cách viết các yếu tố của thể thức văn bản được hướng dẫn cụ thể tại
Thông tư liên tịch số 55/TTLT.
Các thành phần thể thức văn bản được bố trí theo sơ đồ sau: (Trang sau)
18
SƠ ĐỒ BỐ TRÍ CÁC THÀNH PHẦN THỂ THỨC VĂN BẢN
Nội dung văn bản


19
20-25 mm

30-35 mm 20-25 mm 15-20
mm



20-25 mm
2
3
5b
10a
10b 12

1
4
5a
9a
6
9b
13
7a
7c
7b
14
11
Ghi chú:
Ô số Thành phần thể thức văn bản
1 : Quốc hiệu
2 : Tên xơ quan, tổ chức ban hành văn bản
3 : Số, ký hiệu của văn bản
4 : Địa danh và ngày, tháng, năm ban hành văn
bản
5a : Tên loại và trích yếu nội dung văn bản
5b : Trích yếu nội dung công văn hành chính
6 : Nội dung văn bản
7a, 7b, 7c : Chức vụ, họ tên và chữ ký của người có
thẩm quyền
8 : Dấu của cơ quan, tổ chức
9a, 9b : Nơi nhận
10a : Dấu chỉ mức độ mật
10b : Dấu chỉ độ khẩn
11 : Dấu thu hội và chỉ dẫn về phạm vi lưu hành
12 : Chỉ dẫn về dự thảo văn bản

13 : Ký hiệu người đánh máy và số lượng bản phát
hành
14 : Địa chỉ cơ quan, tổ chức; địa chỉ e-mail, địa
chỉ Website, số điện thoại, số Telex, số Fax.
20
3. Văn bản phải đảm bảo tính khả thi
Tính khả thi là một yêu cầu đối với văn bản, đồng thời là hiệu quả của sự
kết hợp đúng đắn và hợp lý các yêu cầu vừa nêu trên. Ngoài ra để các nội dung
của văn bản thi hành đầy đủ và nhanh chóng, văn bản phải hội đủ các điều kiện:
- Nội dung văn bản phải đưa ra yêu cầu về trách nhiệm thi hành hợp lý,
nghĩa là phù hợp với trình độ, năng lực, khả năng vật chất của chủ thể thi hành.
Nội dung của văn bản phải phản ánh được các quy luật kinh tế nhằm đưa ra các
định, mệnh lệnh hướng nền kinh tế cũng như toàn bộ xã hội vận động theo đúng
quy luật khách quan.
- Từ yêu cầu trên ta thấy, khi quy định các quyền cho chủ thể được hưởng
phải kèm theo các điều kiện bảo đảm thực hiện các quyền đó.
- Đồng thời phải nắm vững điều kiện, khả năng mọi mặt của đối tượng
thực hiện văn bản nhằm xác lập trách nhiệm của họ trong các văn bản cụ thể.
Như vậy, những yêu cầu về kỹ thuật soạn thảo là những yêu cầu cần thiết
cho việc ban hành một văn bản. Có thể thấy rằng một văn bản khi đảm bảo các
yêu cầu trên sẽ góp phần phát huy vai trò, tác dụng của nó trong thực tế đồng
thời những yêu cầu đó cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng
của việc ban hành văn bản của một cơ quan, tổ chức.
III. QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN
1. Khái niệm
Quy trình xây dựng và ban hành văn bản là các bước mà cơ quan QLNN
có thẩm quyền nhất thiết phải tiến hành trong công tác xây dựng và ban hành văn
bản theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi hoạt động của mình.
Tuỳ theo tính chất, nội dung và hiệu lực pháp lý của từng loại văn bản mà
có thể xây dựng một trình tự ban hành tương ứng. Tuy nhiên, việc xác định một

trình tự chuẩn là hết sức cần thiết nhằm trật tự hoá công tác này. Cho đến nay
mới chỉ có một trình tự chuẩn trong ban hành văn bản QPPL được đưa ra trong
Luật Ban hành văn bản QPPL (1996, sửa đổi năm 2002) và các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật này. Còn các loại văn bản khác hầu hết được xây dựng và ban
21
hành theo các quy tắc được kiến tạo nên bởi hoạt động thực tiễn của từng cơ
quan, đơn vị cụ thể.
2. Hình thức thể chế hoá quy trình
Những nội dung quy định về quy trình xây dựng và ban hành văn bản
phải được thể chế hoá, tức là cần được thể hiện bằng một văn bản. Các văn bản
như Luật ban hành văn bản QPPL (1996), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật ban hành văn bản QPPL (2002), Nghị định 161/2005/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 27/12/2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật ban hành văn bản QPPL và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ban
hành văn bản QPPL, Luật ban hành văn bản QPPL của HĐND và UBND (2004)
là những văn bản quy định về quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL.
Trên cơ sở các văn bản đã quy định và tuỳ theo tính chất, quy mô tổ chức của cơ
quan, đơn vị, những nội dung quy định về quy trình xây dựng và ban hành văn
bản có thể được ban hành riêng thành một quy chế, quy định riêng, độc lập hoặc
là một bộ phận của quy chế quy định về hoạt động của cơ quan, đơn vị. Cũng có
thể ban hành như một văn bản độc lập hoặc như một văn bản phụ kèm theo một
quy định.
3. Trình tự chung xây dựng và ban hành văn bản
Mỗi văn bản khi được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành đều
tuân theo một quy trình nhất định.Tuỳ thuộc vào tính chất, nội dung và tầm quan
trọng của từng loại văn bản mà có những văn bản quy trình xây dựng và ban
hành nó đã được pháp luật quy định như văn bản QPPL và việc ban hành chúng
phải tuân thủ theo đúng quy định của Luật. Nhưng cũng có những văn bản như
văn bản hành chính thì tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của từng cơ quan, tổ
chức mà có quy trình ban hành nhất định. Tuy nhiên để ban hành một văn bản

thì trình tự chung để ban hành chúng được thực hiện qua các bước sau:
3.1. Bước 1: Sáng kiến và dự thảo văn bản
a) Sáng kiến văn bản: bao gồm các công việc sau:
- Đề xuất văn bản;
- Lập chương trình xây dựng dự thảo văn bản;
22
- Quyết định cơ quan, đơn vị, cá nhân chủ trì soạn thảo;
- Thành lập ban soạn thảo, hoặc chỉ định chuyên viên soạn thảo (sau đây
gọi chung là ban soạn thảo).
b) Ban soạn thảo tổ chức nghiên cứu biên soạn dự thảo: để soạn thảo dự
thảo ban soan thảo tiến hành thực hiện các công việc sau:
- Tổng kết đánh giá các văn bản có liên quan, thu thập tài liệu, thông tin;
nghiên cứu rà soát các văn kiện chủ đạo của Đảng, các văn bản pháp luật hiện
hành; khảo sát điều tra xã hội; tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài.
- Chọn lựa phương án hợp lý; xác định mục đích, yêu cầu (ban hành văn
bản để làm gì ? Giới hạn giải quyết đến đâu ? Đối tượng áp dụng là ai ? ) để có
cơ sở lựa chọn thể thức văn bản, ngôn ngữ diễn đạt, văn phong trình bày và thời
điểm ban hành.
- Viết dự thảo: Phác thảo nội dung ban đầu; soạn đề cương chi tiết; tham
khảo ý kiến của thủ trưởng, các chuyên gia; tổ chức thảo luận nội dung phác
thảo; chỉnh lý phác thảo; viết dự thảo.
- Biên tập và đánh máy dự thảo.
Soạn thảo dự thảo văn bản là bước quan trọng trong quy trình xây dựng
và ban hành văn bản, nó liên quan trực tiếp đến nội dung và chất lượng của văn
bản ban hành, do đó phải được thực hiện một cách nghiêm túc.
3.2. Bước 2: Lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo
- Việc tổ chức lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo không phải là bước
bắt buộc đối với trình tự xây dựng và ban hành tất cả mọi loại văn bản. Bước
này có thể được tiến hành nghiêm ngặt theo luật định đối với một số văn bản
QPPL như Hiến pháp, luật, pháp lệnh…, song lại không nhất thiết đối với các

văn bản khác có hiệu lực pháp lý thấp hơn, mà tuỳ theo tính chất và nội dung
của các văn bản đó hoặc tuỳ xét của các cơ quan, đơn vị ban hành chúng.
- Việc tổ chức lấy ý kiến có thể được tiến hành bằng nhiều hình thức khác
nhau như:
+ Tổ chức các cuộc họp, hội thảo để xin ý kiến;
+ Lấy ý kiến bằng văn bản để tham gia ý kiến trực tiếp vào dự thảo;
23
+ Tổ chức hội thảo để thu hút sự tham gia của các chuyên gia, các nhà
quản lý ở cả Trung ương và địa phương trong những lĩnh vực thuộc phạm vi
điêu chỉnh của văn bản.
- Kết quả đóng góp ý kiến tham gia xây dựng dự thảo phải được đánh giá,
sử lý và tiếp thu bằng văn bản tổng hợp các ý kiến tham gia xây dựng dự thảo.
Văn bản này là yếu tố bắt buộc phải có trong hồ sơ thẩm định và hồ sơ trình dự
thảo.
- Trong trường hợp có vấn đề vướng mắc, khó giải quyết , phải xin ý kiến
lãnh đạo.
- Ban soạn thảo chỉnh lý dự thảo trên cơ sở các ý kiến tham gia xây dựng
dự thảo, làm bản tổng hợp ý kiến tham gia xây dựng dự thảo, trong đó nêu rõ đã
yêu cầu bao nhiêu cơ quan, tổ chức, cá nhân có trả lời bằng văn bản với các ý
kiến khác nhau thế nào, và bảo lưu của ban soạn thảo.
Lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo là bước không bắt buộc đối với
việc ban hành mọi loại văn bản nhưng đối với những văn bản QPPL là yêu cầu
cần thiết phải có. Do đó khi tiến hành soạn thảo văn bản QPPL, tổ chức lấy ý
kiến của các cơ quan, tổ chức sẽ giúp cho văn bản ban hành tránh được tính chủ
quan, cục bộ của cơ quan soạn thảo.
3.3. Bước 3: Thẩm định dự thảo
a) Ban soạn thảo xem xét, đề xuất về việc tiến hành thẩm định dự thảo
văn bản. Tuỳ theo tính chất, nội dung văn bản, lãnh đạo cơ quan soạn thảo quyết
định việc thẩm định dự thảo văn bản.
b) Ban soạn thảo chuẩn bị hồ sơ thẩm định và gửi đến cơ quan, tổ chức

thẩm định.
c) Bộ Tư pháp, tổ chức pháp chế bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ có trách nhiệm thẩm định các dự án, dự thảo văn bản QPPL của cơ
quan trung ương tương ứng. Đối với văn bản khác tạm thời pháp luật chưa quy
định là bước bắt buộc, song về nguyên tắc cần thực hiện việc thẩm định ở tất cả
mọi cấp độ đối với dự thảo văn bản có tính chất quan trọng.
Nội dung thẩm định bao gồm:
24
- Sự cần thiêt ban hành văn bản
- phạm vi đièu chỉnh, đối tượng áp dụng
- Tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bbộ của dự thảo văn bản
trong hệ thông pháp luật hiện hành và tính khả thi của văn bản.
- Sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập.
- Hình thức, kỹ thuật soạn thảo văn bản, ngôn từ pháp lý của văn bản
QPPL .
d) Cơ quan thẩm định gửi lại văn bản thẩm định và hồ sơ dự thảo văn bản
đã được thẩm định cho cơ quan, đơn vị soạn thảo.
e) Cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh lý dự thảo và chuẩn bị hồ sơ trình kí.
Thẩm định dự thảo văn bản không phải là yêu cầu nhất thiết đối với mọi
loại văn bản nhưng đối với văn bản QPPL thì đây là khâu tất yếu trong quy trình
xây dựng , ban hành văn bản QPPL với ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo tính
hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tính khả thi của
các QPPL điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra trong các ngành, lĩnh vực.
3.4. Bước 4: Xem xét, thông qua
a) Cơ quan, đơn vị soạn thảo trình hồ sơ trình duyệt dự thảo văn bản lên
cấp trên (tập thể hoặc cá nhân) để xem xét và thông qua. Văn phòng giúp thủ
trưởng xem xét trước các yêu cầu về nội dung, thể thức và các yêu cầu khác của
văn bản trước khi thủ trưởng ký. Phải có hồ sơ trình ký. Trường hợp không có
hồ sơ thì phải trực tiếp tường trình với thủ trưỏng ký. Phải thực hiện việc ký tắt

trước của Chánh hoặc Phó chánh văn phòng trước khi trình ký.
b) Thông qua và ký ban hành văn bản theo đúng thẩm quyền và thủ tục
luật định. Việc thông qua văn bản có thể được tiến hành bằng hình thức tổ chức
phiên họp hoặc theo thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan, tổ chức. Tuỳ theo thẩm
quyền ban hành, tính chất và nội dung của văn bản, văn bản có thể được xem xét
thông qua bằng hình thức tập thể tại một hoặc nhiều phiên họp của cơ quan ban
hành. Việc tổ chức các phiên họp phải đảm bảo các quy định của Nhà nước.
Người ký văn bản phải chiụ trách nhiệm pháp lý về văn bản mình ký. Trách
25

×