Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tiểu luận quản trị kinh doanh Giải pháp cho những khiếm khuyết của thị trường cạnh tranh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.98 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN

BÀI TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MƠ
ĐỀ TÀI:

GIẢI PHÁP CHO NHỮNG
KHIẾM KHUYẾT CỦA THỊ
TRƯỜNG CẠNH TRANH.
GV hướng dẫn : GV Trần Thừa
SV thực hiện : Huỳnh Thị Thanh Trang
MSSV

: 108202137

Lớp 21 – K34.

TP. HCM , Ngaøy 02 tháng 11 năm 2009


MỤC LỤC:
A-Lời mở đầu.........................................................................................................................1
B-Nội dung.............................................................................................................................3

I. Một số lý luận chung về thị trường cạnh tranh và nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay.......................................................................................................................................3
1, Kinh tế thị trường...............................................................................................................3
2, Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN......................................................................4
II.Thực trạng của thị trường cạnh tranh hiện nay....................................................................6
1. Một số ưu điểm nổi bật.....................................................................................................6


2. Các khiếm khuyết còn tồn đọng của thị trường cạnh tranh............................................7
a. Các tác động ngoại vi....................................................................................................7
b. Thiếu hàng hóa công cộng............................................................................................7
c. Sự gia tăng quyền lực độc quyền..................................................................................7
d. Chu kỳ kinh doanh........................................................................................................8
e. Chênh lệch thái quá về thu nhập của dân cư...............................................................8
f. Thông tin thị trường lệch lạc và những suy thoái đạo đức.........................................8
3. Những khiếm khuyết quan trọng của thị trường cạnh tranh ở Việt Nam.....................9
III. Giải pháp........................................................................................................................10
1
2

Giải pháp chung.............................................................................................................10
Giải pháp cho thị trường cạnh tranh ở VIỆT NAM....................................................13
2.1. Các tác động ngoại vi...............................................................................................13
2.2. Thiếu hàng hóa cơng cộng.......................................................................................13
2.3. Sự gia tăng quyền lực độc quyền............................................................................13
2.4. Chu kỳ kinh doanh...................................................................................................14
2.5. Chênh lệch thái quá về thu nhập của dân cư..........................................................14


2.6. Thông tin thị trường lệch lạc và những suy thoái đạo đức..................................14
C-Kết luận............................................................................................................................16

A - Lời mở đầu
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mơ hình
phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mơ từ trung tâm, trong bối
cảnh của thời đại ngày nay, là mơ hình hợp lý hơn cả.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định
của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường vừa là vấn đề của

lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải đạt đến một trình độ phát
triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thốt khỏi tình trạng tự cung tự cấp, mới có sản
phẩm dư thừa để trao đổi.
Các nền kinh tế thị trường có thể mang tính thực tiễn, nhưng nó cũng dựa trên các
nguyên tắc cơ bản của tự do cá nhân: quyền tự do của khách hàng trong việc lựa chọn các
hàng hóa và dịch vụ cạnh tranh; quyền tự do của nhà sản xuất bắt đầu hoặc mở rộng kinh
doanh, phân chia rủi ro và lợi nhuận; quyền tự do của người lao động trong việc lựa chọn
công việc hoặc nghề nghiệp, tham gia vào nghiệp đoàn lao động hoặc thay đổi chủ.
Đó là sự khẳng định về quyền tự do, về rủi ro và cơ hội, tất cả cùng nhau tạo thành
nền kinh tế thị trường hiện đại và nền dân chủ chính trị.
Nhưng nền kinh tế thị trường khơng phải khơng có những bất cơng và lạm dụng –
nhiều khi còn trầm trọng là đằng khác
Bên cạnh đó, bên trong nền kinh tế thị trường vẫn còn tồn đọng rất nhiều khuyếm
khuyết mà lịch sử thế giới hơn mấy mươi năm qua vẫn chưa giải quyết được.
Nền kinh tế nước ta hiện đang ở giai đoạn quá độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung,
hành chính - bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Do vậy, thực chất của giai đoạn quá độ
trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề đặc biệt có ý nghĩa, rất cần phải
được nghiên cứu, xem xét: Nhận thức được thực chất của bước chuyển này, chi phối được
nó, chúng ta sẽ tính được những sai lầm chủ quan, nóng vội duy ý chí hoặc khuynh hướng
cực đoan, máy móc, sao chép, "nhập ngoại" các mơ hình kinh tế thị trường ngoại lai một
cách máy móc. Đặc biệt là Chính phủ ta phải xác định rõ những ưu khuyết điểm cụ thể
của nền kinh tế thị trường, để từ đó tìm ra những chính sách khéo léo khi áp dụng cơ cấu
kinh tế thị trường vào một nước XHCN như Việt Nam.
Qua bài tiểu luận dưới đây, em xin trình bày một số phân tích, nhận định về những
khuyếm khuyết của thị trường cạnh tranh và đưa ra một số giải pháp cho thị trường cạnh
tranh nói chung và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam nói riêng.
Dựa vào bài giảng của thầy và tham khảo thêm ở các sách, báo, tình hình kinh tế hiện
nay, em sẽ cố gắng nêu được trọn vẹn 3 ý chính :



-

Lý luận

-

Thực tiễn

-

Giải pháp

Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, em đã cố gắng hết sức, song do trình độ hạn
chế cũng như kinh nghiệm thực tế con ít, em tin chắc mình khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót. Qua đây, em mong mình sẽ nhận nhiều sự chỉ bảo góp ý của thầy
giáo để bài viết được hồn thiện hơn.Em xin chân thành cám ơn !


B - Nội dung
I – Một số lý luận chung về thị trường cạnh tranh và
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
1, Kinh tế thị trường:
Trên lý thuyết, kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán
tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường.
Xuyên suốt tiến trình lịch sử, mọi xã hội đều phải đối mặt với một vấn đề kinh tế cơ
bản là việc quyết định phải sản xuất cái gì và cho ai trong một thế giới mà các nguồn tài
nguyên bị hạn chế. Trong thế kỷ 20, nhìn chung có hai cơ chế kinh tế đối chọi nhau đã
mang những kết quả rất khác nhau, đó là: nền kinh tế chỉ huy được định hướng từ chính
phủ trung ương và nền kinh tế thị trường được dựa trên doanh nghiệp tư nhân. Vào buổi

bình minh của thế kỷ 21, một điều rõ ràng đối với toàn thế giới là nền kinh tế chỉ huy, tập
trung đã thất bại trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế, trong việc đạt được sự thịnh
vượng, hoặc thậm chí trong việc bảo đảm an ninh kinh tế cho các cơng dân của mình.
Thế mà những nguyên tắc căn bản và cơ cấu của nền kinh tế thị trường vẫn còn chưa
quen thuộc hay vẫn còn bị hiểu lầm bởi nhiều người, dù những sự thành cơng của nó đã
thể hiện ở nhiều xã hội khác biệt hẳn nhau, từ Tây Âu tới Bắc Mỹ và Á Châu. Một phần là
vì nền kinh tế thị trường không phải là một chủ thuyết mà chỉ là một tập hợp những hoạt
động và những định chế đã được thử thách với thời gian về cách thức theo đó những cá
nhân và xã hội có thể sống và phát triển phồn vinh về phương diện kinh tế. Bản chất tiên
quyết của những nền kinh tế thị trường là phân quyền, uyển chuyển, thực tiễn và thay đổi
được. Yếu tố trung tâm của những nền kinh tế thị trường nằm ở chỗ nó khơng có trung
tâm. Thật thế, một trong những ẩn dụ cho thị trường tư nhân được gọi là thị trường của
"bàn tay vơ hình."
Những nền kinh tế thị trường có thể là thực tiễn nhưng nó cũng dựa trên nguyên tắc cơ
bản là quyền tự do cá nhân: khách hành tự do chọn lựa trong số những sản phẩm hay dịch
vụ cạnh tranh nhau; nhà sản xuất tự do khai lập hay mở mang cơ sở kinh doanh và chấp
nhận những điều may rủi hay thành công; công nhân viên tự do lựa chọn nghề nghiệp, gia
nhập cơng đồn lao động hay đổi qua các hãng xưởng khác.
Chính những sự khẳng định của tự do, may rủi và cơ hội này đã kết hợp những nền
kinh tế thị trường và nền chính trị dân chủ lại với nhau.


Song hiện nay, mơ hình kinh tế thị trường là một mơ hình kinh tế phổ biến và có hiệu
quả nhất trong việc phát triển kinh tế, của hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Mơ
hình này không chỉ được áp dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà con được áp dụng ở
các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nó được vận dụng ở các nước phát triển và
các nước đang phát triển.
Cạnh tranh là một trong những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa bao gồm các yếu
tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Trên thị trường, các nhà sản xuất,

người tiêu dùng và những người hoạt động buôn bán kinh doanh quan hệ với nhau thông
qua hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa. Như vậy thực chất thị trường là chỉ các hoạt
động kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi, lưu thông hàng hóa và mối quan hệ về
kinh tế giữa người với người.
Hình tức đầu tiên của nền kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa là
một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi và buôn bán
trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao nhất của nền kinh tế
hàng hóa mà ở đó mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều được quy định
bởi thị trường.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp ln muốn có được những
điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất như : thuê được lao động rẻ mà có kỹ thuật,
mua được nguyên nhiên vật liệu rẻ, có thị trường các yểu tố đầu ra tốt. Điều đó dẫn tới sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để chiếm lấy, nắm giữ lấy những điều kiện thuận lợi.
Sự cạnh tranh này chỉ kết thúc khi nó được đánh dấu bởi một bên chiến thắng và một bên
thất bại. Tuy vậy, cạnh tranh không bao giờ mất đi trong nền kinh tế thị trường. Cạnh
tranh là sự sống còn của các doanh nghiệp, muốn tồn tại được buộc các doanh nghiệp phải
nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp mình bằng cách : nâng cao năng lực sản xuất
của các doanh nghiệp, giam chi phí sản xuẩt để cạnh tranh về giá cả, cải tiến khoa học kỹ
thuật... Điều này sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, khoa học kỹ thuật phát triển, do đó địi
hỏi phải nâng cao năng suẩt lao động của doanh nghiệp, cải tiến khoa học kỹ thuật.
Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ được chuyển từ nơi sản xuất
kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả cao hơn. Cạnh tranh đem lại sự đa dạng của
sản phẩm và dịch vụ, do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách hàng, người tiêu dùng.
Như vậy, cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh
giúp cho sự phân bố nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại lợi ích lớn cho xã hội. Cạnh
tranh có thể xem như q trình tích lũy về lượng để thực hiện các bước nhảy cơ bản thay
đôi về chất. Mỗi bước nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc thang xã hội, nó làm cho xã hội
phát triển đi lên, tốt đẹp hơn. Vậy , sự tồn tại của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
là một tất yếu khách quan.



2, Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Cho đến nay, nhân loại mới chỉ biết đến nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như là
nền kinh tế phát triển ở trình độ cao. Nhân loại chưa biết đến nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vì ở nơi mà chủ nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời thì lại khơng
phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; còn ở nơi phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chủ nghĩa xã hội chưa phát triển hồn chỉnh.
Sau 1986 nước ta đã chuyển mơ hình kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một q trình thể hiện
sự đổi mới về tư duy và ngày càng hoàn thiện cả về lí luận cũng như thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đây cũng là một quá trình về sự nhận thức đúng hơn các quy luật khách quan, chuyển
từ một nền kinh tế mang nặng tính chất hiện vật sang nền kinh tế hàng hố với nhiều
thành phần, khôi phục các thị trường để từ đó các quy luật thị trường phát huy tác dụng
điều tiết hành vi các tác nhân trong nền kinh tế thay cho phương pháp quản lí bằng các
cơng cụ kế hoạch hố trực tiếp mang tính pháp lệnh, xố bỏ bao cấp tràn lan của nhà nước
để các doanh nghiệp tự chủ, tự chịu trong sản xuất kinh doanh. Nhà nướcthực hiện quản lí
nền kinh tế thơng qua pháp luật và điều tiết thơng qua các chính sách và các công cụ kinh
tế vỉ mô Chuyển sang nền kinh tế thị trường là chuyển sang nền kinh tế năng động, có cơ
chế điều chỉnh linh hoạt hơn, thúc đẩy sự phân phối, sử dụng các nguồn lực và các tác
nhân của nền kinh tế hoạt độmg hiệu quả Mặt khác sự chuyển từ mơ hình kinh tế kế
hoạch hố tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề còn
mới trong lịch sử kinh tế nước ta.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là một điểm đột phá lý luận, một mô hình thực tiễn
đang trong quá trình thử nghiệm, là sự phủ định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội tập
trung, quan liêu, bao cấp. Đương nhiên, đó khơng phải là nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa, tuy rằng nó có thể học hỏi nhiều điều từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
hiện đại. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất kinh tế khác với
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được quy định bởi các quan hệ kinh

tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Phân tích một cách lịch sử cụ thể, kinh tế tư bản của thời kỳ đổi mới ở Việt Nam là
sản phẩm của đường lối đổi mới của Chính phủ . Nó khơng hồn tồn giống với kinh tế tư
bản của chủ nghĩa tư bản. Theo một nghĩa nào đấy, trong xã hội VN hiện nay vẫn có mâu
thuẫn giữa cơng hữu và tư hữu, giữa lao động và bóc lột, nhưng đó là những mâu thuẫn có
thể giải quyết được một cách êm thấm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, chúng ta có thể
yên tâm thực hiện nhất quán một chính sách tích cực, cách mạng đối với kinh tế tư bản
chủ nghĩa.
Vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam đã được làm rõ dần qua các kỳ đại hội Đảng, đặc biệt là qua Đại hội IX


Theo như ý kiến của một số nhà nghiên cứu lý luận, thực chất của bước chuyển đó
trước hết là ở sự đổi mới các quan hệ sở hữu. Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ
có một kiều sở hữu tương đối thuần nhất với hai hình thức tập thể và Nhà nước, thì hiện
nay, cùng với hình thức sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước, nền kinh tế nước ta cịn tồn
tại nhiều hình thức sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tiễn vận hành của
nền kinh tế, không hẳn đã đồng bộ với nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận
khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động
của kinh tế thị trường.
Điều có ý nghĩa đối với việc xác định đặc điểm của nền kinh tế quá độ ở nước ta hiện
nay có lẽ vẫn là sự thừa nhận xu hướng chủ yếu trong sự vận động của nó: tiếp tục đổi
mới và hoạt động có hiệu quả kinh tế Nhà nước để kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò
chủ đạo, làm đòn bẩy thúc đẩy và điều chỉnh các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế đề
trên cơ sở đó, giải quyết các vấn đề xã hội ngay ở tầng vĩ mô sao cho tăng trưởng kinh tế
không trở nên mâu thuẫn gay gắt với trật tự bình thường của đời sống xã hội.

II- Thực trạng của thị trường cạnh tranh hiện nay :
1, Một số ưu điểm nổi bật:
• Có sự phối hợp tự động, linh hoạt, mềm dẻo, nhanh nhạy … giữa khu vực hộ gia đình

và khu vực hộ doanh nghiệp. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các nhà sản xuất năng động
thích nghi với các điều kiện biến động của thị trường,tìm mặt hàng mới và thị trường tiêu
thụ, mở rộng quan hệ kinh doanh, tìm cách đạt lợi nhuận tối đa Hệ thống cạnh tranh có
thể đáp ứng tốt các nhu cầu hang hóa mn hình muôn vẻ của dân chúng và cả những nhu
cầu thay đổi rất nhanh chóng ( mặt hàng thời trang ….)

Khuyến khích, cải tiến, đổi mới và phát triển. Do cơ chế cạnh tranh trên thị trường
mà doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến, đổi mới kỹ thuật, hình thức và phương pháp
sản xuất, thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học cơng nghệ, kích thích tăng năng suất lao động,
nâng cao trình độ xã hội hóa sản xuất để cắt giảm chi phí, đồng thời nâng cao chất lượng
sản phẩm, hạ giá thành, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của khách hàng và của thị trường.

Tự điều chỉnh trạng thái mất cân bằng ( cung cầu ) và xác lập lại những trạng thái
cân bằng mới. Do giá cả là tín hiệu để người mua và người bán điều chỉnh lượng hàng
hóa mua ( cầu ) và hàng hóa bán ( cung ). Nếu cầu lớn hơn cung, giá sản phẩm sẽ tăng
lên, cầu giảm và cung tăng. Ngược lại, nếu cầu nhỏ hơn cung, giá sản phẩm sẽ giảm
xuống, cầu tăng và cung giảm.

Phân bổ các nguồn lực có hiệu quả cao. Nếu hệ thống thị trường cạnh tranh đạt
những điều kiện cạnh tranh hồn hảo thì nó sẽ phâm bổ và sử dụng các nguồn lực ( đất
đai, lao động, vốn, năng lực quản lý…)



Thúc đẩy q trình tích tụ và tạp trung tư bản, tập trung sản xuất là hai con đường
để mở rông quy mô sản xuất, một mặt, các đơn vị chủ thể làm ăn giỏi, có hiệu quả cao co
phép mở rộng quy mô sản xuất. Mặt khác, chỉ những đơn vị làm ăn có hiệu quả thì mới
tồn tại, mới đứng vững được trên thị trường. Chính q trình cạnh tranh kinh tế là động
lực thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất.
.


2, Các khuyếm khuyết còn tồn đọng của thị trường cạnh tranh:
a) Các tác động ngoại vi: là những hành vi diễn ra ngoài thị trường , khơng thong qua
thanh tốn bằng tiền. Có 2 loại tác động ngoại vi :
- Tác động ngoại vi tiêu cực : Doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường , khai thác tài
ngun bừa bãi … nhưng khơng thanh tốn những chi phí đó cho xã hội , cho cá
nhân bị thiệt hại .
- Tác động ngoại vi tích cực :Doanh nghiệp làm lợi cho xã hội cũng không nhận
được những lợi lộc bằng tiền.
Trong thị trường cạnh tranh như chúng ta đã biết nó có nhiều tác động ngoại vi tiêu
cực hơn là tác động ngoại vi tích cực.
b) Thiếu hàng hóa cơng cộng :
Hàng hóa cơng cộng là loại hàng hóa sử dụng chung, mọi người được hưởng nhưng
khơng phải trả tiền như : quốc phịng, Luật pháp ,hệ thống đường sá, cầu cống đê điều
,giáo dục cơ sở, y tế chăm sóc ban đầu,y tế cơng cộng, công viên,đèn báo hiệu giao thông
, chống thiên tai , bảo vệ mơi trường . Do hàng hóa cơng cộng tạo ra cho mọi người sử
dụng không phải trả tiền nên khu vực doanh nghiệp khơng có động cơ đầu tư tạo ra hàng
hóa cơng cộng . Vì thế thị trường sẽ thiếu hàng hóa cơng cộng .
Hàng hóa cơng cộng khơng mang tính kinh doanh. Các danh nghiệp thường khơng
đầu tư vào lĩnh vực hàng hóa cơng do nó có những tính chất sau đây :
- Tính tiêu dùng chung hay tính khơng có cạnh tranh trong tiêu dùng. Khi tăng thêm
một người tiêu dùng hàng hóa cơng sẽ khơng làm giảm đi lợi ích của những người
tiêu dùng hiện có và chi phí đáp ứng địi hỏi của các đối tượng tiêu dùng tăng thêm
là bằng khơng.
-

Tính khơng loại trừ trong tiêu dùng. Khi hàng hóa cơng được cung cấp thì khơng
thể loại trừ hoặc rất tốn kém để loại trừ một người nào đó tiêu dùng hàng hóa mà
khơng chịu trả tiền cho hành động tiêu dùng của mình.Ví dụ quốc phịng là hàng
hóa cơng cộng , nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền cịn

khơng bảo vệ những ai khơng làm việc đó. Mặt khác các doanh nghiệp cung cấp
hàng hóa cơng sẽ làm tăng chi phí.

c) Sự gia tăng quyền lực độc quyền :


"Bàn tay vơ hình của thị trường" theo Adam Smith hoạt động như kết quả của việc
cạnh tranh giữa những người bán tư lợi. Khi xuất hiện độc quyền, giá cả có khuynh hướng
cao hơn và sản lượng thấp hơn so với trong hoàn cảnh thị trường cạnh tranh . Chính vì
vậy nó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Do tối đa hóa doanh thu nên doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ sản xuất hàng hóa ở
mức sản phẩm mà tại đó doanh thu biên bằng với thu nhập biên thay vì sản xuất ở mức
sản lượng mà ở đó giá sản phẩm cao hơn nhiều chi phí biên như trong thị trường (cân
bằng cung cầu). Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nơi mà giá bán sản phẩm phụ
thuộc vào số lượng sản phẩm do một doanh nghiệp sản xuất ra, trong tình trạng chiếm
đoạt quyền giá bán sẽ tăng lên khi doanh nghiệp chiếm đoạt quyền giảm sản lượng. Vì thế
lợi nhuận biên sẽ lớn hơn giá bán sản phẩm và cứ một đơn vị sản phẩm sản xuất thêm
doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ thu thêm được một khoản tiền lớn hơn giá bán sản
phẩm đó. Điều này có nghĩa là nếu cứ sản xuất thêm sản phẩm thì doanh thu thu thêm
được có thể đủ bù đắp tổn thất do giá bán của tất cả sản phẩm giảm xuống. Mặt khác, nếu
áp dụng nguyên tắc biên của tính hiệu quả nghĩa là sản xuất sẽ đạt hiệu quả khi lợi ích
biên bằng doanh thu biên, tất nhiên lợi ích biên và chi phí biên ở đây xét trên góc độ xã
hội chứ khơng phải đối với doanh nghiệp độc quyền ta thấy rằng: ở mức sản lượng mà
doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sản xuất thì lợi ích biên (chính là đường cầu) lớn hơn chi
phí biên đồng nghĩa với tình trạng khơng hiệu quả. Tóm lại, doanh nghiệp chiếm đoạt
quyền sẽ sản xuất ở sản lượng cao hơn và bán với giá thấp hơn so với thị trường cạnh
tranh. Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do sản lượng tăng lên trừ đi tổng chi phí biên để
sản xuất ra phần sản lượng đáng lẽ nên được sản xuất ra thêm đó chính là tổn thất do
chiếm đoạt quyền.
d) Chênh lệch thái quá giữa các tầng lớp dân cư ( các hộ gia đình ). Do chênh lệch về sở

hữu tài sản, năng lực cá nhân quá trình đào tạo. Nền kinh tế thị trường, “ cá lớn nuốt cá bé
”, dẫn đến phân hóa đời sống dân cư, một bộ phận dẫn đến phá sản, phân hóa giàu nghèo
dẫn đến khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và số đông người lao động lâm vào cảnh nghèo
khó.
e) Chu kỳ kinh doanh :
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo
trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan
điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy
thối và hưng thịnh
Các pha của chu kỳ kinh tế
• Suy thối là pha trong đó GDP thực tế giảm đi.
• Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái.
Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
• Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền
kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh
lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới
gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Chu kỳ kinh tế khiến cho kế hoạch kinh doanh của khu vực tư nhân và kế hoạch kinh
tế của (hay mở rộng).nhà nước gặp khó khăn. Việc làm và lạm phát cũng thường biến


động theo chu kỳ kinh tế. Đặc biệt là trong những pha suy thoái, nền kinh tế và xã hội
phải gánh chịu những tổn thất, chi phí khổng lồ.
f) Thơng tin thị trường lệch lạc và những suy thoái đạo đức :
Cũng do chạy theo lợi nhuận nhiều doanh nghiệp lường gạt , lừa đảo ,bội tín ,sản
xuất hàng giả, hàng kém phẩm chất .Đặc biệt đối với sản xuất thuốc chữa bệnh và thực
phẩm mà làm giả ,kém phẩm chất …thì đó là suy thối đạo đức .Tác động của thơng
tin khơng hồn hảo đối với hiệu quả kinh tế sẽ được làm tương đối rõ. Người mua
hoặc người bán có thể khơng có lợi từ thương mại tự nguyện nếu họ không biết chất
lượng sản phẩm được mua hoặc được bán. Trong những năm gần đây, các phát hiên ra

hàng hóa Trung Quốc kem chất lượng được bán trên thế giới như quần áo, đồ chơi trẻ
em, sữa và các loại thực phẩm khác, khiến cho người tiêu dùng nổi lên phong trào tẩy
chay hàng Trung Quốc.

3, Những khuyếm khuyết quan trọng của nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam:
Đảng ta không coi cơ chế thị trường là liều thuốc vạn năng và vì vậy khơng khuyến
khích phát triển nó về mọi phương diện. Bởi lẽ, việc tuyệt đối hố vai trị của kinh tế thị
trường sẽ rơi vào một sai lầm nguy hiểm từ phía khác. Kinh tế thị trường tuy có nhiều
điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát
hết sức bướng bỉnh. Hơn thế nứa, quan hệ thị trường cịn là mơi trường thuận lợi để phát
sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tiễn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới vừa
qua cho thấy, bên cạnh tác động tích cực là cơ bản, những tác động tiêu cực do mặt trái
của kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt trên phương diện tư
tưởng, đạo đức, lối sống. Chúng ta mới áp đụng cơ chế thị trường chưa được bao nhiêu,
song bên cạnh những thành tựu, chúng ta đã phải trả giá không nhỏ cho những hiện tượng
tiêu cực, như do cách làm ăn thuần tuý chạy theo lợi nhuận đã dẫn đen các hình thức lừa
đảo hối lộ, trốn thuế, nợ nần khó trả, do thương mại hoá một cách tràn lan, xâm nhập cả
vào các lĩnh vực dễ thương tổn như y tế, giáo dục, văn hoá... đã làm cho các giá trị đạo
đức, tinh thần bị băng hoại và xuống cấp, đồng tiền đã chi phối nhiều quan hệ giữa người
với người, sự phân hoá giàu nghèo và bất cơng xã hội có chiều hướng tăng lên, lối sống
ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng...

Kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Đó là xu thế phân hố giàu nghèo q mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền
mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm..
Trong cơ chế cạnh tranh , các doanh nghiệp thường muốn tối đa hóa lợi nhuận nên họ sẽ
bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục tiêu này.Thực tiễn ở Việt Nam đã có nhiều cơng



ty thải chất thải chưa qua xử lý ra môi trường hay sử dụng tài nguyên thiên nhiên một
cách bừa bãi .
Vấn đề ô nhiễm môi trường của công ty Vedan là môt minh chứng cho trường hợp này .
Công ty này đã xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ mười lần trở lên trong lượng
nước thải 50 m3/ngày đến dưới 5000 m3/ngày . Theo kết quả phân tích của đồn kiểm tra
liên ngành cơng bố, sau khi lấy mẫu nước thải tại Vedan cho thấy có nhiều chỉ tiêu vượt
hàng ngàn lần qui định cho phép như: chỉ tiêu màu vượt 2.600 lần, hàm lượng ơxi hóa
vượt gần 3.000 lần và nhiều tiêu chuẩn khác vượt hàng trăm lần.
Chính những chất thải chưa qua xử lý được Vedan lén lút xả qua hệ thống ngầm đã góp
phần “giết chết” sông Thị Vải suốt 14 năm qua và cơng ty này đã trốn khơng đóng tiền
phí nước thải 91 tỷ đồng (theo vietnamnet.vn).Chính những hành vi trên đã để lại hậu quả
nặng nề cho những người dân vô tội . Đây mới chỉ là một trong số hàng trăm hàng nghìn
vụ vi phạm đươc phanh phui.Thiết nghĩ vì sao Vedan vi phạm trong suốt 14 năm qua mà
các cơ quan chức năng khơng hề hay biết , đó chính là do sự thiếu đồng bộ trong cơng tác
quản lý .
Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề nói trên, dù ít dù nhiều cũng là các vấn đề của
bản thân cơ chế quản lý. Trong nền kinh tế hiện nay của ta, cơ chế quản lý đang ở giai
đoạn hình thành nên thường là khơng đồng bộ, thiếu hụt. Chúng ta chưa thực sự tạo ra
môi trường an toàn và ổn định cho sản xuất và kinh doanh. Cơ sở pháp lý của các hoạt
động kinh tế còn có nhiều điều bất cập. Các hoạt động tài chính, ngân hàng, phân cấp
quản lý... còn nhiều điều bất hợp lý. Do vậy, trong một số vụ án kinh tế, cơ chế quản lý
đôi khi vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của kinh tế thị trường. Tính chất không rõ ràng,
thiếu xác định trên cả phương điện pháp lý lẫn trên phương diện kinh tế - xã hội dường
như đang là một cái gì đó rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế
nước ta.
Rõ ràng là cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta đang trong quá trình tiến tới một
cơ chế thị trường đích thực, văn minh, nhưng hiện tại vẫn còn mang dấu ấn của cơ chế
kinh tế cũ. Cơ chế quản lý kinh tế mới bước đầu đã hình thành nhưng chưa đồng bộ, đang
ở giai đoạn sơ khai, mang nhiều yếu tố tự phát, chưa tạo được mơi trường thực sự lành
mạnh và an tồn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là với vẫn còn những yếu kém cả về

mặt chính sách lẫn pháp lý hướng dẫn nền kinh tế. Cơng tác tài chính, ngân hàng, giá cả,
kế biểu hoạch hoá, quy hoạch, xây dựng, quản lý đất đai, thủ tục hành chính... đã đổi
nhưng chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Lĩnh vực quản lý xuất nhập khẩu có những sơ
hờ, tiêu cực, một số trường hợp đã gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối
thu nhập còn bất hợp lý. Vẫn còn hiện tượng bội chi ngân sách và nhập siêu.
Thực tế những năm đổi mới vừa qua chứng tỏ rằng, trong một số quá trình kinh tế - xã
hội nhất định, chúng ta đã thực sự làm chủ được những tác động tự giác cũng như những
tác động tự phát của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có quá nhiều hiện
tượng và quá trình mà chúng ta cịn bng lỏng sự kiểm sốt hoặc chưa thực sự có khả
năng kiểm sốt sự vận động của chúng.


Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội, nó có khả
năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không
nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội..

III- Giải pháp :
1, Giải pháp chung :
• Thứ nhất, về các tác động ngoại vi , nạn ơ nhiễm và các phí tổn phụ trội. Hãy xem thí
dụ về một cơng ty sản xuất ra các sản phẩm bằng giấy - từ giấy viết cho đến các thùng
giấy cứng ở một cơ xưởng trên một con sông. Vấn đề là công ty phải đổ các chất hóa học
ơ nhiễm, sản phẩm phụ trong q trình sản xuất, xuống sơng. Nhưng khơng có cá nhân
hay cơ quan nào làm chủ con sông, nên không bắt buộc cơng ty đó ngưng việc gây ơ
nhiễm đó. Như những sự phụ trội khác, nạn ô nhiễm thường thường xảy ra khi chủ nhân
của nguồn tài nguyên - ở đây là dịng sơng - khơng phải là những cá nhân hay cơ quan tư
nào cả. Đất đai công cộng và các lề đường thường bị xả rác nhiều hơn là sân cỏ trước nhà
người ta vì khơng ai là chủ nhân của đất đai công cộng và chịu trách nhiệm giữ gìn vệ
sinh và phạt những ai làm hư hại chúng. Phần lớn sự ô nhiễm là thải vào không khí, các
đại dương và những dịng sơng, chính là vì khơng có chủ nhân riêng của các nguồn tài
ngun đó để có động cơ khích lệ mạnh mẽ để buộc tội những người gây ô nhiễm về

những hư hại họ làm ra.
Vai trị của chính quyền trong tình trạng này là cố gắng điều chỉnh sự bất quân bình
này. Để can thiệp, chính quyền có thể bắt buộc các nhà sản xuất hay các người tiêu thụ
sản phẩm phải trả cho khoản chi phí thanh lọc mơi trường
Khơng may, rất hiếm khi thấy chính quyền dễ dàng quyết định bao nhiêu là đáng
trong những trường hợp này. Một điều là thường thì khó và tốn kém để biết chắc chắn
nguồn ô nhiễm hay là ô nhiễm gây tổn thất cho xã hội bằng một con số chắc chắn là bao
nhiêu. Vì những khó khăn này, chính quyền phải chắc chắn từ đầu là khơng áp đặt thêm
số tiền chi phí cho việc giảm thiểu ô nhiễm nhiều hơn là sự tổn thất mà ô nhiễm gây ra
cho xã hội. Làm như thế rõ ràng là vô hiệu quả và lãng phí những nguồn tài nguyên quý
Một khi mà chính quyền đã thiết lập một mức độ ô nhiễm chấp nhận được hay tối
thiểu là tạm dung được, họ có thể dùng những luật pháp, điều lệ, tiền phạt, án tù hay
những thứ thuế đặc biệt để giảm thiểu sự ô nhiễm.
• Thứ hai, về cạnh tranh và sự gia tăng quyền lực độc quyền. Để giảm thiểu những sự
độc quyền hay và duy trì được một mức độ cạnh tranh hiệu quả trong hệ thống kinh tế,
những hình luật gọi là chống nạn độc quyền kinh doanh đã được phê chuẩn trong hầu hết
các nền kinh tế thị trường, kể cả Hoa Kỳ.
Hạn chế cạnh tranh có thể xảy ra trong vài lãnh vực kỹ nghệ, như hàng khơng, vì mức
độ nhu cầu của thị trường chỉ đủ để giúp vài công ty lớn hoạt động - với những kỹ thuật
sản xuất hữu hiệu nhất cho các sản phẩm đó. Các chính trị gia phải quyết định xem sự
cạnh tranh giữa một số ít các cơng ty lớn sản xuất những sản phẩm đó có đủ để giữ đuợc
giá thành và lợi nhuận ở mức độ hợp lý và chất lượng sản phẩm cao. Nếu không, họ một


lần nữa sẽ chuyển hướng qua việc điều chỉnh giá cả và dịch vụ, hay phân tán vài công ty
lớn đó thành ra nhiều cơng ty nhỏ hơn một cách hợp pháp, nếu điều đó có thể làm mà
khơng làm giá thành sản phẩm tăng quá đáng. Nếu chuyện đó khơng thành, các nhà làm
luật ít nhất cũng làm cho vấn đề cấu kết thông đồng nhau giữa các công ty lớn đó là việc
làm phi pháp và thực thi những luật lệ để bảo đảm có sự canh tranh trực tiếp giữa các
cơng ty này càng nhiều càng tốt.


• Thứ ba, thuế thu nhập và trợ cấp xã hội. Nhiều người khơng có kỹ năng hay các nguồn
thu nhập nào khác để sinh sống trong một nền kinh tế thị trường. Những người khác
hưởng lợi nhờ vào việc thừa hưởng của cải tài sản hay tài lộc, hay nhờ vào những mối
quan hệ trong kinh doanh, xã hội, chính trị của gia đình hay bạn bè họ.
Chính quyền trong các nền kinh tế thị trường tất phải đề xướng những chương trình để
phân phối lại khoản tiền thu nhập và họ thường làm thế với chủ ý rõ ràng qua các chính
sách thuế và sự phân phối khoản tiền thu nhập sau khi cắt trừ thuế một cách công bằng
hơn.
Trong thế kỷ này, một sự đồng thuận xã hội đã phát sinh, từ tình nhân ái giữa con
người và từ sự cơng bằng, là chính quyền trong hầu hết các nền kinh tế thị trường nên
đóng một vai trị trong việc trợ cấp cho những gia đình cần giúp nhất trong nước và giúp
họ thoát khỏi cuộc sống nghèo khó. Chính quyền trong tất cả mọi nền kinh tế thị trường
đều trợ cấp cho những người thất nghiệp, chăm sóc y tế cho người nghèo, tiền hưu bổng
cho những người về hưu. Góp chung lại với nhau, những chương trình này thường được
gọi là "mạng lưới an sinh xã hội."

• Thứ tư, các chính sách tài chính và tiền tệ của chính quyền. Các chính quyền trong
những nền kinh tế thị trường đóng những vai trị thiết yếu trong việc thiết lập những điều
kiện kinh tế để thị trường của những cơ sở kinh doanh tư nhân vận hành hữu hiệu.
Một trong những vai trị đó là lưu hành tiền tệ vững vàng và được công nhận rộng rãi
để loại trừ những hệ thống đổi chác phiền tối, vơ hiệu quả, và duy trì giá trị của đồng tiền
bằng những chính sách giới hạn nạn lạm phát (sự gia tăng tồn bộ các giá hàng hóa và
dịch vụ).
Các chính sách tài chính sử dụng tài khoản chi tiêu của chính quyền và những kế
hoạch thuế má để kích thích nền kinh tế quốc gia những khi nạn thất nghiệp cao và mức
lạm phát thấp, hay kiềm hãm nó lại khi mức lạm phát cao và nạn thất nghiệp hạ thấp. Để
khích thích tồn bộ mực độ chi tiêu, năng suất và tạo ra việc làm, tự chính quyền cũng
phải chi tiêu nhiều và giảm thuế, ngay cả nếu điều này làm ngân sách thâm thủng. (Lúc
nào đó trong tương lai, cũng sẽ có chuyện thặng dư tạo ra để bù lại thiếu hụt này).



Để kiềm hãm lại nền kinh tế đang phát triển quá mạnh mẽ - khi mà hầu như mọi người
cần việc đều có việc làm nhưng mức chi tiêu và giá cả cũng lên cao quá nhanh - chính
quyền cũng cần vài biện pháp để giữ giá hàng hóa khơng tiến lên quá cao. Họ có thể cắt
giảm chi tiêu, tăng thuế hay cả hai, để làm giảm toàn bộ mức tiêu xài và sản xuất.
Chính sách tiền tệ bao gồm những thay đổi trong nguồn tiền tệ luân lưu và tín dụng
của quốc gia. Để gia tăng khả năng chi tiêu trong những lúc nạn thất nghiệp cao và mức
lạm phát thấp, các sách lược gia tăng nguồn tiền tệ luân lưu để giảm mức lãi xuất (nghĩa
là giảm giá trị của đồng tiền), làm ngân hàng cho vay dễ dàng hơn. Điều này khuyến kích
sự tiêu thụ vì xem như là đưa thêm tiền vào tay dân chúng. Mức lãi xuất thấp cũng kích
thích sự sử dụng tiền vào đầu tư vì các cơ sở kinh doanh tìm cách khuếch trương và mướn
thêm nhiều công nhân viên.
Ngược lại, trong giai đoạn mà mức lạm phát cao và nạn thất nghiệp thấp, các sách
luợc gia có thể làm chậm nền kinh tế bằng cách tăng mức lãi xuất, do đó sẽ giảm nguồn
tiền tệ luân lưu và giảm nguồn tín dụng. Từ đó, với ít tiền tệ ln lưu trong nền kinh tế để
chi tiêu và mức lãi xuất gia tăng, sự chi tiêu và cùng với giá cả sẽ có khuynh hướng giảm
xuống hay ít ra là tăng chậm lại. Kết quả là cả hai nguồn hàng sản xuất ra và việc làm sẽ
có khuynh hướng co lại với nhau.
Phần lớn các kinh tế gia ngày nay đều cơng nhận vai trị quan trọng của chính quyền
trong vấn đề chống nạn thất nghiệp và lạm phát bằng những chính sách ổn định kinh tế
dài hạn, kể cả ổn định tốc độ gia tăng trong việc luân lưu tiền tệ hay những kế hoạch chi
tiêu của chính quyền, tự động tăng lên khi nền kinh tế bị trì trệ hay giảm lại khi kinh tế
phục hồi (thí dụ như tiền trả cho các công nhân viên thất nghiệp) và những kế hoạch thâu
thuế, để tăng trợ cho những kế hoạch chi tiêu tự động trên, bằng cách thâu thuế những
người tiêu thụ và cơng nhân viên ít lại khi thu nhập của họ giảm và thâu nhiều hơn khi thu
nhập tăng.
Những chính sách tiền tệ và ngân sách ngắn hạn áp dụng bởi những sách lược gia để
đối phó với những gia tăng tạm thời nhưng đôi khi quá nhanh chóng của nạn thất nghiệp
và lạm phát, thường được sử dụng trong nhiều nền kinh tế thị trường, mặc dầu nhiều kinh

tế gia bất đồng ý kiến nhiều hơn về sự kịp thời đúng lúc và cả sự hữu hiệu của những
chính sách này.
Sau cùng, trong mọi nền kinh tế, kể cả kinh tế thị trường, điều quan trọng cần nhận
thức là có những vấn đề tồn tại mà khơng thể giải quyết được một cách hồn tồn hay
vĩnh viễn. Những vấn đề này phải được nghiên cứu từng trường hợp một cách thực tiễn,
cẩn thận xem xét nhiều động lực kinh tế và chính trị tác động lên chúng. Và chính ở điểm
này mà một hệ thống chính trị tự do - là hệ thống cổ động sự thảo luận mở rộng về những
bất đồng ý kiến về các vấn đề cơng cộng - có thể cống hiến hữu hiệu nhất vào sự vận hành
của một nền kinh tế thị trường.

2, Những giải pháp chính mà chính phủ Việt Nam cần thực hiện :
2.1 Các tác động ngoai vi :


Ô nhiễm môi trường và sử dụng bừa bãi nguồn tài nguyên do cạnh tranh là điều
không tránh khỏi khi ngay càng có nhiều doanh nghiệp cạnh tranh như hiện nay .
Song để hạn chế bớt những khiếm khuyết này chính phủ nên có những biện pháp
như:
- Chính phủ nên có sự đồng bộ trong việc quản lí các doanh nghiệp . Nếu giao việc
quản lí cho bộ , ngành nào thì phải cụ thể , tránh chồng chéo trong cơng tác quản lí
, như thế sẽ quản lí chặt chẽ và có hiệu quả hơn .Thường xuyên tổ chức các đoàn
thanh tra liên ngành để giám sát , kiểm tra việc xử lí chất thải cơng nghiệp của các
doanh nghiệp .
- Chính phủ nên có cơ chế phát triển kinh tế gắn với bảo vệ mơi trường .Bên cạnh
đó chính phủ nên tạo ra một mơi trường cạnh tranh với các cơ chế khuyến khích áp
dụng tiêu chuẩn sản xuất phù hợp,các dịch vụ môi trường và sử dụng các kỹ thuật
bảo vệ mơi sinh và an tồn sản phẩm có sức mạnh cạnh tranh trong và ngồi nước.
- Chính phủ nên có chính sách dùng vật liệu tái tạo.Chính quyền trung ương và địa
phương cũng phải có chính sách làm dễ dàng hơn cho doanh nghiệp tham dự vào
việc bảo vệ môi trường tài nguyên chung .

- Một khi mà chính quyền đã thiết lập một mức độ ô nhiễm chấp nhận được hay tối
thiểu là tạm dung được, họ có thể dùng những luật pháp, điều lệ, tiền phạt, án tù
hay những thứ thuế đặc biệt để giảm thiểu sự ơ nhiễm .Và chính phủ có thể thu
thêm những mức phí để đầu tư nghiên cứu các quy trình xử lý chất thải tiên tiến
hơn.
2.2 Thiếu hàng hóa cơng cộng :
Như ta đã phân tích trong phần khiếm khuyết thiếu hàng hóa cơng , doanh nghiệp
cung cấp hàng hóa cơng sẽ khơng hiệu quả và làm giảm phúc lợi xã hội .Chính phủ
cung cấp những hàng hóa này sẽ hiệu quả hơn . Chính vì vậy chính phủ nên huy
động từ các nguồn thu khác và điều chỉnh nâng mức thuế hợp lí để đầu tư vào vấn
đề “an sinh xã hội”
2.3 Sự gia tăng quyền lực độc quyền :
- Để giảm thiểu sự độc quyền hay duy trì được một mức độ cạnh tranh hiệu quả
trong hệ thống kinh tế , Chính phủ nên phê chuẩn những hình luật như là hình luật
chống nạn độc quyền kinh doanh .
- Chính phủ cần tạo ra cơng cụ pháp lý hạn chế cạnh tranh không lành mạnh , đảm
bảo sự cơng bằng , bình đẳng trong kinh doanh như ban hành luật cạnh tranh.
2.4. Chênh lệch thái quá về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư :


Lập quỹ hổ trợ người thu nhập thấp. Quỹ này dùng kinh phí tự doanh nghiệp để:
- Lập các nghiệp đồn, nhằm đào tạo tay nghề, bổ sung kiến thức miễn phí...
- Xây dựng trung tâm tìm kiếm việc làm, với trách nhiệm giới thiệu việc làm miễn
phí
cho
thành
viên.
- Xây dựng các trung tâm thông tin về doanh nghiệp sử dụng lao động và mức
lương
cụ

thể,
chế
độ
lao
động…
- Lập trung tâm pháp lý bảo vệ người thu nhập thấp, đẩy mạnh hoạt động pháp lý
để yêu cầu các công ty sử dụng lao động hoạt động đúng pháp luật.




Huy động chuyên gia, tình nguyện viên,.... làm việc với Cơng đồn nhằm đào tạo
miễn phí các khóa Kỹ năng mềm và cứng (hard skills & soft skills...).
2.5. Chu kì kinh doanh :

Nguyên lý cầu hữu hiệu khẳng định rằng, lượng cung hàng hóa là do lượng cầu quyết
định. Do đó, vào những thời kỳ suy thối kinh tế, nếu Chính phủ tăng lượng cầu đầu tư
hàng hóa cơng cộng (tăng chi tiêu cơng cộng), thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ
đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thối. Chính phủ nên có chính sách tài chính
và tiền tệ hợp lí .
Các chính sách tài chính sử dụng tài khoản chi tiêu của chính quyền và những kế
hoạch thuế má để kích thích nền kinh tế quốc gia những khi nạn thất nghiệp cao và mức
lạm phát thấp, hay kiềm hãm nó lại khi mức lạm phát cao và nạn thất nghiệp hạ thấp. Để
khích thích tồn bộ mực độ chi tiêu, năng suất và tạo ra việc làm, tự chính quyền cũng
phải chi tiêu nhiều và giảm thuế, ngay cả nếu điều này làm ngân sách thâm thủng. (Lúc
nào đó trong tương lai, cũng sẽ có chuyện thặng dư tạo ra để bù lại thiếu hụt này).
Để kiềm hãm lại nền kinh tế đang phát triển quá mạnh mẽ - khi mà hầu như mọi người
cần việc đều có việc làm nhưng mức chi tiêu và giá cả cũng lên cao quá nhanh - chính
quyền cũng cần vài biện pháp để giữ giá hàng hóa khơng tiến lên q cao. Họ có thể cắt
giảm chi tiêu, tăng thuế hay cả hai, để làm giảm toàn bộ mức tiêu xài và sản xuất.

Ngoài ra ngân hàng trung ương cần có quỹ dự trữ hợp lí để điều tiết các pha của chu kì
kinh doanh .
2.6 . Thông tin thị trường lệch lạc và những suy thối :
Tác động của thơng tin thị trường lệch lạc đối với hiệu quả kinh tế sẽ được làm tương đối
rõ. Người mua hoặc người bán có thể khơng có lợi từ thương mại tự nguyện nếu họ không
biết chất lượng sản phẩm được mua hoặc được bán. Nếu vậy ít nhất họ sẽ ra một quyết
định trao đổi khiến họ phải hối tiếc sau đó. Chính phủ có thể sửa chữa kiểu thất bại này
của thị trường bằng việc:

• yêu cầu sản phẩm phải dán nhãn danh mục thành phần chịu trách nhiệm dán mác
cảnh báo với sản phẩm có thể gây nguy hiểm

• Tăng cường hệ thống pháp luật, xử lí nghiêm minh những hành vi làm sai lệch
thông tin sản phẩm, những hành vi buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại.

• Tăng cường việc áp dụng các thủ tục hành chính như phải có giấy chứng nhận đủ


diều kiện kinh doanh.
Cơng bố cơng khai trên phương tiện thông tin đại chúng các hành vi gian lận trong
kinh doanh của các cơ sở sản xuất, kinh doanh có hành vi vi phạm để nhân dân biết
và phối hợp các cơ quan chức năng giám sát, kiểm tra, xử lý.


• Tăng cường kiểm tra, kiểm soát, chống nhập lậu, gian lận thương mại đối với các
mặt hàng trọng điểm, như: pháo nổ, vũ khí, động vật quý hiếm, kính xây dựng, rượu
ngoại, bia, đường kính, giấy, đồ điện tử, điện thoại di động, xe đạp điện, tiền giả;
chống xuất lậu than, các loại quặng, gỗ quý hiếm trên các tuyến biên giới, đất liền và
các địa bàn trọng điểm


• yêu cầu bảo hộ cho một số sản phẩm
• cấm khẳng định không trung thực và yêu cầu "trung thực trong quảng cáo"
• Phát triển hơn nữa đội ngũ quản lý thị trường


C – Kết luận :
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường . Nó là động lực
thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó nó vẫn cịn tồn đọng những khiếm
khuyết cơ bản . Khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN , Việt Nam phải chấp nhận những quy luật của nền kinh tế thị trường trong
đó có quy luật cạnh tranh . Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình
phát triển kinh tế . Nhưng bên cạnh những thành tựu đó nền kinh tế nước ta đang đối mặt
với những thách thức to lớn .
Nền kinh tế nước ta hiện đang ở giai đoạn quá độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung,
hành chính - bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Do vậy, thực chất của giai đoạn quá độ
trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề đặc biệt có ý nghĩa, rất cần phải
được nghiên cứu, xem xét: Nhận thức được thực chất của bước chuyển này, chi phối được
nó, chúng ta sẽ tính được những sai lầm chủ quan, nóng vội duy ý chí hoặc khuynh hướng
cực đoan, máy móc, sao chép, "nhập ngoại" các mơ hình kinh tế thị trường ngoại lai một
cách máy móc. Do đó, tìm ra được những khuyết điểm chủ yếu của nền kinh tế thị trường
hiện nay , để từ đó nghiên cứu đưa ra những giải pháp hạn chế và khắc phục đóng vai trị
vơ cùng quan trọng.

Lời nhận xét của giáo viên


Điểm :




×