Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.06 KB, 17 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Một số vấn đề lý luận chung về nhà nước:
1.1. Nguồn gốc của Nhà nước:
Nhà nước là một hiện tượng chính trị - xã hội rất phức tạp, có liên quan đến
lợi ích của giai cấp, các dân tộc, các quốc gia và tác động trức tiếp đến đời sống
mọi mặt của con người trong xã hội.
Nhà nước ra đời từ bao giờ và do nguyên nhân gì? Đây là vấn đề đã được đặt ra
từ xa xưa và đã có rất nhiều cách giải thích khác nhau. Trước C.Mác, đã có nhiều
nhà triết học giải thích vấn đề này, nhưng do những hạn chế có tính chất lịch sử
và thế giới quan nên họ đã giải thích không đúng về nguồn gốc nhà nước, không
nhìn thấy điều kiện kinh tế - xã hội của quá trình hình thành nhà nước. Theo họ,
nhà nước là một hiện tượng vốn có của xã hội và tồn tại vĩnh viễn cùng với sự
phát triển của xã hội loài người, là một tổ chức quyền lực của mọi thành viên
trong xã hội.
Cho đến khi xuất hiện học thuyết Mác – Lênin về Nhà nước thì những vấn đề
về Nhà nước, trong đó có vấn đề về nguồn gốc nhà nước mới được giải đáp đúng
đắn có căn cứ khoa học. trên cơ sở hương háp luận duy vật biện chứng và lịch sử,
các nhà sáng lập chủ nghĩ Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: nhà nước không phải là
một hiện tượng xã hội vốn có và bất biến trong lịch sử, mà là một phạm trù lịch
sử, có quá trình hình thành , phát triển và diệt vong. nhà nước chỉ xuất hiện khi
xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, nó luôn luôn vận
động, hát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của
nó không còn.
Lịch sử đã chứng minh rằng, có một thời kỳ dài trong lịch sử xã hội loài
người không có nhà nước. Đó là thời kỳ xã hội công xã nguyên thủy – thời kỳ xã
hội chưa có sự phân chia giai cấp. Trong tác phẩm “Nguồn gốc cảu gia đình, của
chế độ tư hữu và của Nhà nước”, F.Ăngghen đã viết: “ Như vậy, nhà nước tồn tại
không phải là mãi mãi từ ngàn xưa. Đã từng đã có những xã hội không cần đến
nhà nước, không có một khái niệm nào về nhà nước và chính quyền của nhà
nước cả. Đến một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định, giai đoạn tất nhiên phải


gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai cấp thì sự phân chia đó làm cho Nhà
nước trở thành một tất yếu”.
1
Như vậy, Nhà nước ra đời khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, khi
xã hội phân chia thành giai cấp, mẫu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng gay gắt
đến mức không thể điều hòa được
1.2.Bản chất của Nhà nước:
Khi bàn về bản chất của nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin cho rằng: “ Đây là một vấn đề rất cơ bản, mấu chốt trong toàn bộ chính
trị” , bởi vì nếu động chạm đến lợi ích của các giai cấp trong xã hội, trước hết là
giai cấp thống trị. Làm rõ bản chất của nhà nước tức là xác định rõ nhà nước đó
là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ trước hết lợi ích của giai
cấp nào trong xã hội.
Nghiên cứu về nguồn gốc của Nhà nước, chúng ta thấy rõ bản chất của Nhà
nước được thể hiện tập trung ở tính chất giai cấp và vai trò xã hội của nhà nước.
Từ việc nghiên cứu nguồn gốc của nhà nước các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác -Lênin khẳng định: “ Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị
của một gia cấp này đối với giai cấp khác” .
Sự thống trị giai cấp, xét về mặt nội dung, thể hiện ở 3 mặt: chính trị, kinh tế
và tư tưởng. Để thực hiện sự thống trị của mình, giai cấp thống trị phải tổ chức và
sử dụng nhà nước để duy trì, củng cố quyền lực về chính trị, kinh tế và tư tưởng
đối với toàn xã hội. Bằng nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai
cấp thống trị về chính trị; ý chí của giai cấp chính trị biến thnahf ý chí của nhà
nước, bắt buộc mọi người phải tin theo; Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị cũng
thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội.
Tính giai cấp là thuộc tính cơ bản thể hiện bản chất của giai cấp nhà nước.
nhưng bản chất của nhà nước còn thể hiện ở vai trò xã hội của nhà nước. Một
Nhà nước sẽ không thể tồn tại nếu nhà nước đó chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp
thống trị mà không tính đến lợi ích, nguyện vọng và ý chí của các giai tầng khác
trong xã hội.

Từ những phân tích trên đây ta có thể định nghĩa về bản chất của nhà nước
như sau: nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt của giai cấp thống
trị, đồng thời đó cũng là tổ chức quyền lực công. Xét về bản chất giai cấp, Nhà
nước mang bản chất giai cấp của giai cấp thống trị.
Nghiên cứu về bản chất của Nhà nước, chúng ta cần lưu ý các điểm sau:
- Một là, trong xã hội bóc lột, Nhà nước đều có một thuộc tính chung: là bộ
máy cưỡng chế và đàn áp đặ biệt của giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén để duy
trì sự thống trị của thiểu số đối với đa số là nhân dân lao động.
2
- Hai là, vai trò xã hội của nhà nước là một thược tính khách quan, phổ biến,
nhưng biểu hiện cụ thể và mức độ thực hiện vai trò này không giống nhau ở
những kiểu nhà nước khác nhau.
2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam:
2.1. Nguyên tắc nhân dân tham gia vào công việc Nhà nước, quản lý xã hội:
Khi chế độ phong kiến bị xóa bỏ, các chế độ cộng hòa, dân chủ lần lượt
xuất hiện làm thay đổi căn bản chủ thể của quyền lực Nhà nước. Từ chổ mọi
quyền lực trong tay một người được thay bằng quyền lực trong tay nhân dân.
Khẩu hiệu mang tính bản chất của mọi nền dân chủ, tuy chất lượng tính
hiện thực có khác nhau nhưng nó có một cái chung, bắt nguồn từ bản chất của
một thể chế, đó là: quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là quan điểm cách mạng,
làm thay đổi “chủ sở hữu” của quyền lực.Từ chỗ quyền lực xuất phát từ ý chí của
một người, đến chỗ quyền lực là ý chí của đa số nhân dân.
Sự thay đổi chủ thể của quyền lực Nhà nước ở nước ta có tính cách mạng.
Nhân dân từ chổ vừa ở vị trí thần dân, vừa ở vị trí nô lệ phụ thuộc bởi chế độ
thuộc địa nửa phong kiến, trở thành người chủ của đất nước trong xã hội dân chủ
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ sau thắng lợi của Cách mạng dân tộc, dân chủ, Nhà nước ta ban hành
bản Hiến pháp đầu tiên, sự đảm bảo bằng pháp luật khả năng tham gia quản lý
nhà nước và quản lý xã hội của nhân dân ta có đặc trưng: nó luôn thay đổi bằng

Hiến pháp và ngày càng mở rộng, cụ thể hóa trong Hiến pháp, các văn bản luật
và các văn bản dưới luật.
Điều 53 của Hiến pháp 1992 ghi nhận: công dân có quyền tham gia quản lý
nhà nước và xã hội, thảo luận, kiến nghị với Nhà nước và địa phương biểu quyết
khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý. Như vậy, thể thức trưng cầu dân ý được
ghi nhận trong chế định quyền công dân và trong quyền hạn của Quốc hội theo
Hiến pháp năm 1992 là một bước cụ thể hóa rộng rãi hơn và là một chế định mới
so với Hiến pháp 1980.
Ngoài ra, trong Hiến pháp còn ghi nhận quyền của công dân tham gia
quản lý nhà nước và quản lý xã hội ở các điều nói về quyền bầu cử và ứng cử vào
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất, vào hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan
đại diện địa phương (Điều 54), quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm
pháp luật của cơ quan nhà nước và của bất cứ ai (trong bộ máy nhà nước) (Điều
74). những người trong cơ quan bảo vệ pháp luật làm trái ahir chịu trách nhiệm
3
pháp lý, hải bị xử lý nghiêm minh khi họ có hành vi bắt, giam giữ hoặc truy tố,
xét xử trái pháp luật.
Như vậy, việc nhân dân tham gia quản lý Nhà nước không những bao gồm
những phản ứng tích cực, mà còn có cả những phản ứng tiêu cực của họ đối với
Nhà nước. Với những phản ứng tiêu cực này, nhân dân đã sử dụng pháp luật để
làm lạnh hoặc “chữa chạy” những khuyết tật của Nhà nước trong hoạt động quản
lý. Chẳng những thế, Nhà nước còn tạo những khả năng, điều kiện, phương tiện
cho nhân dân thực hiện quyền của mình. Theo nguyên lý Mác- Lênin, xã hội càng
tiến đến xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý của nhà nước, quản lý xã hội của
nhân dân ngày càng mở rộng và được tăng cường.
2.2. Nguyên tắc Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam:
Nguyên tắc này thể hiện trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta, nó
không những được minh thị bằng thực tiễn, mà còn chứa đựng yếu tố khách quan
của sự phát triển các hình thức Nhà nước.

Những khái niệm đảng phái, đảng chính trị chỉ xuất hiện từ khi chủ nghĩa
tư bản ra đời và nó được khẳng định ở giai đoạn chính muồi của cuộc đấu tranh
giữa các đảng phái chính trị giành quyền lực nhà nước.Giai đoạn chính muồi là
giai đoạn khẳng định tinh phổ biến vai trò cầm quyền của một đảng phái chính trị
đối với Nhà nước. Đồng thời cũng có nghĩa là: trong nền dân chủ hiện đại đã chín
muồi, nguyên tắc “Đảng cầm quyền” tồn tại ở hầu hết các quốc gia thực hành chế
độ dân chủ cũng là hiện tượng phổ biến mang tính quy luật. Định thức này có thể
sử dụng để nhìn nhận hai hiện tượng trong lịch sử chính trị.
Thứ nhất, khi còn tồn tại chiến tranh lạnh, sự giao lưu giữa các dân tộc, quốc gia,
về mặt kinh tế, văn hóa, ngoại giao và chính trị xã hội còn hạn chế, và lý luận
phương tây thường có quan điểm: các nước có chế độ dân chủ tư sản thường là
các nước phi Đảng phái, tập trung về mặt chính trị trong cương lĩnh tổ chức Nhà
nước.
Thứ hai, những năm cuối của cuộc “cải tổ” chuẩn bị cho sự tan rã của Liên Xô
cũ và các nước Đông Âu, lực lượng đối lập bắt đầu tuyên truyền tư tưởng đa
nguyên chính trị, rằng sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nguyên nhân trì trệ xã
hội toàn diện ở các nước này; Đảng cộng sản trở thành đồng nghĩa vói tình trạng
trì trệ, bảo thủ, lạc hậu.
Ở Việt Nam, tư tưởng về tổ chức Nhà nước căn cứ vào hai luận điểm: thứ
nhất, về bản chất Nhà nước ta phải là nhà nước của dân, tổ chức, xây dựng trên
4
nền tảng xã hội rộng rãi (Điều 2, Điều 6 Hiến pháp 1992).Thứ hai, về chính trị và
thực tiễn, sự lựa chọn của nhân dân cũng như lập trường trước sau như một Đảng
Cộng Sản Việt Nam trong sự lãnh đạo chính trị của mÌnh đối với Nhà nước. Nhà
nước Việt Nam luôn có một lực lượng chính trị lãnh đạo, đó là Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Vai trò đó được ghi nhận ở hai bản Hiến pháp gần nhất: đó là Hiến
pháp 1980 (Điều 4) và Hiến pháp 1992 (cũng Điều 4).
* Về nguyên tắc lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có một số đặc
điểm:
- Thứ nhất, Đảng lãnh đạo Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ chiếm lược lâu

dài là xây dựng nhà nước ta, đất nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục đích “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội là mục đích, xây dựng cuộc sống cuộc sống của nhân
dân lao động ngày càng cải thiện và phát triển. Hai yếu tố đó hòa quyện vào nhau
để phát triển. Bài học lịch sữ ấy cho thấy: chúng ta không thể “nhập khẩu” cả
chính trị và cả sự giàu có từ bên ngoài được.
- Thứ hai, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện trước hết ở năng
lực lãnh đạo chính trị của Đảng, ở khả vạch ra đường lối chính trị đúng đắn, bằng
tuyên truyền thuyết phục làm cho xã hội nhận thức, tự giác chấp, chứ không phải
dựa vào uy quyền, mệnh lệnh. Đảng không nắm quyền Nhà nước để áp đặt
(cưỡng chế) lên xã hội đường lối của Đảng, mà dựa vào việc xây dựng đường lối
đúng đắn, phù hợp với lợi ích của đa số nhân dân lao động, thì đương nhiên được
xã hội chấp nhận.
- Là Đảng cầm quyền, Đảng phải giáo dục, lựa chọn đảng viên ưu tú của mình
tham gia vào các cơ quan nhà nước, trước hết là Quốc hội bằng con đường giói
thiệu đẻ nhân dân bầu. Vì vậy, cơ chế dân chủ cũng chính là thước đo, là hòn đá
thử vàng về uy tín và năng lực của Đảng trước xã hội và nhân dân. Qua bốn bản
Hiến pháp và nhiều khóa Quốc hội, Hội đòng nhân dân các cấp, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thực sự chứng tỏ năng lực và uy tín lãnh đạo của mình.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước, các Đảng viên ứng cử vào các chức vụ của cơ quan
nhà nước, nhưng Đảng vẫn tồn tại với tư cách là một chủ thể độc lập của hệ
thống chính trị. Không thể có một đảng “hóa thân thành nhà nước” để tự làm mất
đi sự hiện diện của mình – là thành viên trong hệ thống chính trị và lãnh đạo hệ
thống chính trị. Đương nhiên, để thích ứng với tình hình mới của công cuộc đổi
mới, Đảng Cộng sản Việt Nam phải tự chỉnh đốn, tụ đổi mới các mặt, trong đó có
vấn đề tổ chức, cơ cấu, đội ngũ,…
5
2.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc Hiến định
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta. Tuy nhiên, nguyên tắc này mới chỉ

được ghi nhận từ Hiến pháp 1959 (Điều 4) và tiếp tục được ghi nhận ở Điều 4
của Hiến pháp 1992.
Các nhà nghiên cứu pháp lý hành chính phương Tây khi nghiên cứu các
phương diện tổ chức và hoạt động của nhà nước thường chỉ nhấn mạnh các khía
cạnh tổ chức, kỹ thuật.
Chẳng hạn, họ cho rằng nhà nước muốn hoạt động tốt, muốn trở thành nhà
nước hiệu quả thì nó tổ chức sao cho nó trở thành nhà nước gần dân. Hoặc đề cặp
đến vai trò của Nhà nước tác động tới kinh tế. Như vậy, Nhà nước được nhìn
nhận từ góc độ hoạt động, chứ không chú ý đến khá cạnh tổ chức.
Khi nhận xét các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, những nhà nghiên cứu này thường cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ
được “du nhập” từ nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản do Lênin sáng tạo.
Chúng ta nhìn nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là sự nhận thức khía cạnh
cơ bản, chi phối hoạt động của các nhà nước hình thành theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Một nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân lao động tổ chức
thì nền tảng xã hội của nó là một đa số từ phương diện tổ chức đến phương diện
mục đích.
Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992 (và cả Hiến pháp 1980, 1959) bao
gồm ba cơ quan thực hiện ba chức năng khác nhau: Quốc hội thực hiện quyền lập
pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và tòa án thực hiện quyền tư pháp.
Hoạt động của các cơ quan này theo quy định của Hiến pháp, theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Nhưng ở mỗi cơ quan, nguyên tắc này thể hiện khác nhau.
Khi quyết định các vấn đề mà Quốc hội bàn, các đại biểu thường đứng
trước những vấn đề liên quan đến:
• Lợi ích của cả nước, các đại biểu quyết theo phương án nào trong nhiều
phương án tức là biểu quyết lựa chọn phương án tối ưu;
• Lợi ích cục bộ (lãnh thổ, thành phần…), các đại biểu cần thể hiện không
những ý chí của cả nước mà còn phù hợp với nguyện vọng của các cử tri đã bầu
họ.
Do những chi phối như vậy nên Quốc hội không có cách thức nào tốt hơn là

khi biểu quyết cần thực hành nguyên tắc đa số. Biểu quyết của Quốc hội là: trong
nhiều giải pháp, các đại biểu lựa chọn giải pháp hợp lý nhất, có lợi cho số đông
6
trong nhân dân. Vì thế, tập trung dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội là: thiểu
số phục tùng đa số trong mọi trường hợp.
Đối với Chính phủ, thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ theo phương
hướng thực hiện đúng tiến độ làm việc và ban hành các văn bản quản lý của
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ (chế độ tập thể và chế độ người đứng đầu
hành chính); giữa Chính phủ và cán bộ, quan hệ giữa Chính phủ, các bộ với các
cấp chính quyền địa phương.
Đối với cơ quan tư pháp, nhất là hoạt động xét xử, nguyên tắc tập trung dân
chủ đòi hỏi thực hành đúng quan hệ làm việc giữa thẩm phán, hội thẩm và các
thành viên khác trong hoạt động tố tụng, xác lập quan hệ giữa các cấp xét xử cơ
sở đến cơ quan xét xử cao nhất, quan hệ giữa các co quan điều tra.v.v.
Quán triệt nguyên tắc này là yếu tố bảo đảm hiệu lực quản lý của bộ máy nhà
nước ta trên cơ sở phát huy tính chủ động, sang tạo của các cơ quan trung ương
cũng như ở địa phương.
2.4. Nguyên tắc pháp chế:
Không phải có nhà nước, có pháp luật là có pháp chế. Nhưng pháp luật lại là
tiền đề cho một trật tự pháp chế. Bởi vì pháp luật là thước đo, là tiêu chuẩn thầm
định một xã hội đã có pháp chế và tình trạng pháp chế cụ thể trong từng thời kì
của xã hội đó.
Quan hệ giữa pháp luật và pháp chế là quan hệ giữa yếu tố định lượng (pháp
luật) và yế tố định tính (pháp chế). Để nhận ra pháp chế, người ta xem xét pháp
luật có hay không có; được thực hiện hay là hình thức; tính xã hội của pháp luật
ra sao. Bản than pháp luật (với tính cách là văn bản, ngôn từ, những quy định bắt
buộc…) phải cộng với yếu tố con người sử dụng, vận dụng, thực hiện nó mới tạo
ra môi trường của pháp chế. Vì vậy, có nguyên tắc pháp chế mà không có nguyên
tắc pháp luật. Phải chăng, quan hệ giữa pháp luật và pháp chế cũng giống như
quan hệ giữa công bằng và công lý trong xã hội, thực hiện công bằng mới có

được công lý thông qua công bằng để nhận biết công lý.
Những điều kiện để tổ chức và hoạt động của Nhà nước bảo đảm nguyên tắc
pháp chế:
Thứ nhất, Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật một các kịp thời và
có hệ thống.
Thứ hai, yêu cầu của nguyên tắc pháp chế đòi hỏi các cơ quan nhà nước lập ra
và hoạt động trong khuôn khổ luật pháp quy định về địa vị pháp lý, quy mô và
thẩm quyền.
7
Nguyên tắc này không chấp nhận hai khả năng thường xảy ra ở những nơi mà
tình trạng pháp chế bị vi phạm. Khả năng thứ nhất là, các hoạt động quản lý vượt
thẩm quyền. Khả năng này xảy ra phổ biến ở các cơ quan hành chính. Chẳng hạn
việc cấp đất khi không có thẩm quyền được giao; phạt vi phạm hành chính quá
mức quy định.v.v. Khả năng thứ hai, buôn lỏng, bỏ trống một số lĩnh vực thuộc
thẩm quyền như trong giao thông, trong quản lý đất đai, quản lý thuế… còn khá
phổ biến hiện nay.
Thứ ba, sự tôn trọng hiến pháp, và cơ quan nhà nước. Đây là đòi hỏi thể hiện
sự tôn trọng trong nguyên tắc pháp chế, đồng thời thể hiện tính dân chủ của Nhà
nước. Nhà nước thay mặt nhân dân ban hành pháp luật, nhưng nhà nước cũng bị
luật pháp điều chỉnh. Nghĩa là: cơ quan nhà nước trong hoạt động có thể phạm
phải sai lầm đó. Nếu sai lầm gây thiệt hại thì phải bồi thường. Nhà nước vì vậy
vừa là chủ thể của pháp luật vừa là đối tượng bị pháp luật điều chỉnh. Yêu cầu
này rất quan trọng trong quản lý hành chính, trong hoạt động của các cơ quan tư
pháp.
Việc xúc tiến thành lập cơ quan tòa án hành chính và phân định thẩm quyền và
xét xử của tòa án nhân dân là một yêu cầu của cải cách hành chính song song với
cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam hiện đại. sự hình thành của tòa án hành chính trong tổ chức cơ
cấu bộ máy nhà nước, mà còn thể hiện tính dân chủ cao trong quản lý nhà nước,
phù hợp với hiến pháp mới, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.

Các nguyên tắc có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác
động lẫn nhau giữa các nguyên tắc thể hiện ở một số quan hệ nhất định.
Thứ nhất, càng đảm bảo tính pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, thì tính chất vì dân, do dân trong hoạt động quản lý càng đậm nét, càng
đảm bảo sự tham gia rộng rãi, đúng pháp luật của nhân dân và hoạt động quản lý
xã hội và quản lý nhà nước.
Thứ hai, giữa nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc tập trung dân chủ là mối
quan hệ giữ nội dung và hình thức thể hiện ở chỗ: nguyên tắc pháp chế đòi hỏi
những quy định có tính pháp lý các quan hệ trong quản lý, trong đó có các quan
hệ các cơ quan, giữa các bộ phận trong một cơ quan, giữa nững con người cụ thể
khác nhau có những thẩm quyền (nhiệm vụ , quyền hạn ) khác nhau, giữa các cấp
khác nhau về quyền, nghĩa vụ. Trái lại, nguyên tắc tập trung dân chủ quy định cơ
chế vận hành của các nguyên tắc khác trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của từng chủ thể. Vì thế, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ tất
8
nhiên dẫn đến vi phạm nguyên tắc pháp chế và ngược lại, nguyên tắc pháp chế
không cụ thể, không rành mạch ( về địa chỉ, thẩm quyền …) sẽ rất khó thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ.
Có thể lấy một dẫn chứng: pháp luật về ngân sách điều chỉnh quan hệ về
quyền và ngĩa vụ pháp lý của các cơ quan nhà nước trong việc sử dụng, phân bố,
tạo nguồn ngân sách. Nếu không có luật ngân sách ( nhất là phân bổ, sử dụng, thu
ngân sách) hoặc không có những văn bản pháp luật xác định một cách rành mạch
những nội dung trên thì cơ quan, nhất là các cấp hành chính lãnh thổ địa phương
rất khó thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc tự chủ của địa
phương, khi chưa có pháp luật về ngân sách giữa các chủ thể rất dễ xuất hiện xin
– cho dấu ấn của tập trung quan liêu bao cấp và mầm mống của những tiêu cực.
Vì vậy, luật ngân sách và được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 khóa X ngày
29/03/1996; pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân và
ủy ban nhân dân mỗi cấp là việc làm rất kịp thời trong hoạt động ban hành pháp
luật của nhà nước.

3. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Bộ máy nhà nước là một cơ cấu các cơ quan nhà nước thực hành các chức
năng cơ bản khác nhau theo thẩm quyền được luật pháp quy định và có mối quan
hệ tác động qua lại lẫn nhau trong một cơ cấu thống nhất. theo hiến pháp 1992,
cơ cấu tổ chức bộ máy của nước ta bao gồm: quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội; Chủ tịch nước; Chính phủ; Tòa án nhân dân và Viện kiểm soát nhân dân;
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
3.1. Cơ cấu bộ máy Nhà nước:
Theo Hiến pháp năm 1992, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta gồm có:
• Quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội;
• Chủ tịch nước;
• Chính phủ;
• Tòa án nhân dân và viện kiểm soát nhân dân;
• Hội động nhân dân và ủy ban nhân dân
3.1.1. Quốc hội
• Vị trí vai trò của quốc hội:
Quốc hội là cơ quan địa biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Điều 83, hiến pháp 1992). Quốc
9
hội là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân trức
tiếp bầu ra thông qua chế độ bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiế bỏ phiếu kín.
là cơ quan quyền lực cao nhất, Quốc hội thống nhất mọi quyền lực ( thống nhất
ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp ).
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
- Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc
chủ yếu về tổ chức và hoạt dộng của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt
động của công dân.
- Quốc hội là cơ quan giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước.

• Nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.
Theo điều 84, Hiến pháp 1992, Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây.
- Làm hiến pháp và sửa đổi hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật quyết định chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh.
- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp luật và nghị quyết
của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước. Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân tối cao;
- Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
- Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách
nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế.
- Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước Chính phủ, Tòa án
nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương;
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc
hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên Ủy ban thường vụ quộc hội, Thủ
tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện Trưởng Viện Kiểm
soát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng chính phủ về việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác
của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội
đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các
chức do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
10
- Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ;
thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương; thành lập hoạc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
- Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ,Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm soát nhân dân tối
cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;

- Quyết định đại xá
- Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao
và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương và danh hiệu vinh dự
nhà nước;
- Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tinh trạng khẩn cấp, các
biện pháp đặc biệt khác đảm bảo quốc phòng an ninh quốc gia;
- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước
quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp kí kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch
nước.
- Quyết định về việc trưng cầu ý dân.
nhiệm kì của mỗi khóa Quốc hội là 5 năm. Hoạt động cơ bản nhất, quan trọng
nhất của Quốc hội là các kỳ họp quốc hội là các kỳ họp Quốc hội. Quốc hội họp
mỗi năm 2 kì, Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập. Ủy ban Thường vụ Quốc
hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, do Quốc hội bầu ra. Theo Điều 91 hiến
pháp 1992, Ủy ban Thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:
+ Công bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội.
+ Tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kì họp Quốc hội;
+ Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
+ Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao.
+ Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi
hành các văn bản của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm soát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật nghi quyết của Quốc hội
và trình Quốc hội quyết định việc hủy bỏ các văn bản đó; hủy bỏ các văn bản
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,Viện kiểm soát nhân
dân tối cao trái với pháp lệnh, nghi quyết của Ủy ban thường vụ quốc hội;
11
+ Giám sát và hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân; bãi bỏ các nghi

quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giải
tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trogn trường hợp
Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân;
+ Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các ủy ban
của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của các điều kiện hoạt
động của các đại biểu quốc hội;
+ Trong trường hợp Quốc hội không thể họp được, quyết định việc tuyên bố
tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và báo cáo Quốc hội xem xét,
quyết định tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội.
+ Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn
cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương;
+ Thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội;
+ Tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.
3.1.2. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại (Điều 101, Hiến pháp 1992). Chủ
tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu của Quốc hội, chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước quốc hội. Theo Hiến pháp 1992, Điều 103, Chủ tịch nước
có Nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
+ Công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh;
+ Thông lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội
đồng quốc phòng an ninh;
+ Đề nghị quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm soát nhân
dân tối cao;
+ Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó
Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
+ Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội ,
công bố quyết định tuyên bố tính trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá;
+ Căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động

viên hoặc động viên cục bộ, công bố tính trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy
ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả
nước hoặc ở từng địa phương;
12
+ Đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10
ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua; nếu pháp lệnh đó được Ủy ban
thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì
Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thi Chủ tịch nước trình quốc hội quyết định tịa
kỳ họp gần nhất;
+ Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phàn Tòa án nhân
dân tối cao, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang
nhân dân , hàm, cấp đại sứ, những hàm, cấp nhà nước trong các lĩnh vực khác;
quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, giải thưởng nhà nước và danh
hiệu vinh dự nhà nước;
+ Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ
đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán; kí kết điều ước quốc
tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với người đứng
đầu Nhà nước khác; trình Quốc hội hê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp kí;
quyết định hê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình
Quốc hội quyết định;
+ Quyết định cho nhập quốc tịch Việt nam, cho thôi quyết định Việt Nam
hoặc tước quốc tịch Việt nam;
+ Quyết định đặc xá.
3.1.3. Chính phủ
• Vị trí pháp lí của chính phủ
- Chính phủ là cơ quan chấ hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Chính phủ thống nhất quản lí việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế -
xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước.

- Bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở bảo đảm
việc tôn trong và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát hiện quyền làm chủ của
nhân dân trogn sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
• Nhiệm vụ và quyền hạn của chính phủ
Theo điều 112 Hiến pháp năm 1992, Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau:
13
+ Lãnh đạo công tác của cán bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống thống nhất
bộ máy hành chính nhà nước Trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội
đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều
kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào
tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ viên chức nhà nước;
+ Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo
công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân;
+ Trình dự án luật, phá lệnh các dự án khác trước Quốc hội Ủy ban Thường vụ
Quốc hội;
+ Thống nhất việc quản lí việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân; thực
hiện chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quản lí và bảo đảm sử dụng có hiệu
quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học và
công nghệ, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước;
+ Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tọa điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình,
bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi trường;
+ Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; bảo đảm
an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; xây dựng các lực lượng vũ trang nhân

dân; thi hành lệnh động viên, ban bố tình trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần
thiết khác để bảo vệ đất nước;
+ Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác
thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà
nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
+ Thống nhất quản lý công tác đối ngoại, đàm phán, kí kết điều ước quốc tế
nhân danh Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, trừ trường hợp quy
định tại điểm 10 điều 103; đàm, phán, kí , hê duyệt, gia nhập điều ước quốc tế
nhân danh Chính phủ; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc gia nhập; bảo vệ lợi ích của nhà nước ,
lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
+ Thực hiện chính sách xã hội, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo;
+ Quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương;
14
+ Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân trogn khi
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tạo điều kiện để các tổ chức hoạt động
có hiệu quả.
• Về cơ cấu tổ chức và chế độ làm việc của Chính phủ.
- Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và thủ tướng
cơ quan ngang bộ. về cơ cấu tổ chức của chính phủ gồm có: các bộ, cơ quan
ngang bộ.
- Chính phủ làm việc theo chế độ kết hợp trách nhiệm của tập thể với việc đề cao
quyền hạn và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng và của mỗi thành viên Chính
phủ. Hình thức hoạt động của tập thể Chính phủ là phiên họp chính phủ.
3.1.4. Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
• Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương , đại diện ở
ý chí, nguyện vọng và quền làm chủ của nhân dân địa phương bầu ra , chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên ( Hiến pháp

1992, Điều 119). Thông qua Hội đồng nhân dân, nhân dân thực hiện quyền làm
chủ của mình.
Hội đồng nhân dân, theo luật định, được đưa ra nghị quyết về các biện pháp
bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa
phương , hoàn thành mọi nghĩa vụ ở địa phương đối với cả nước.
Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường
trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân , Tòa án nhân dân, Viện Kiểm soát
nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân
dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương.
• Ủy ban nhân dân
Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm
chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghi
quyết của Hội đồng nhân dân (Điều 123, Hiến pháp 1992)
Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lí nhà nước ở địa phương, góp phần
bảo đảm sự chỉ đạo, qản lí thống nhất trong bộ máy hành chính của nhà nước từ
Trung ương đến cơ sở.
15
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, Ủy ban nhân
dân ra quyết định, chỉ thị và tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản
đó. Khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, Ủy ban nhân dân
thỏa luận tập thể và quyết định theo đa số.
3.1.5. Tòa án nhân dân và viện kiểm soát nhân dân
• Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tói cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân
sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét sử của nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Điều 127, Hiến pháp 1992). Tòa án xét xử những
vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải

quyết những vụ việc khác theo quy đinh của pháp luật.
trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập
thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân (Điều
126, Hiến pháp 1992).
Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dan tham gia . Khi xét
xử, Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật. Tòa án xét xử công khai ( trừ trường hợp do luật quy định),
xét sử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 131, Hiến pháp 1992)
• Viện kiếm soát nhân dân
Viện kiếm soát nhân dânlà cơ quan nhà nước thực hiện quyền công tố và
kiểm soát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định, bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất ( Điều 137, Hiến pháp
1992)
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện Kiểm soát nhân dân nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội của chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài
sản, tự do , danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm để mọi hành vi xâm
phạm lợi ích của Nhà nước,tập thể, quyên và lợi ích hợp pháp của công dân đều
được xử lí theo pháp luật (Điều 2, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân).
Khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiếm soát nhân dân
có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về các văn bản đó. Các quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của
Viện kiếm soát nhân dân phải được các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có
16
liên quan thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật (Điều 6, Tổ chức
Viện Kiểm soát nhân dân).
3.2. Các đơn vị hành chính của nước ta được phân định như sau:
- Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị tương
đương.

- Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thnahf phố trực thuộc tỉnh. Thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã.
- Huyện chia thành xã, thị trấn. Thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường, xã. Quận chia thành phường.
3.3. Hệ thống tổ chức bộ máy chính quyền gồm 4 cấp:
- Cấp trung ương;
- Cấp tỉnh, thành phố và tương đương;
- Cấp huyện, quận và tương đương;
- Cấp xã , phường.
Hiện nay, nhiều nơi đã chia thành nhiều thôn, có thôn trưởng để giúp ủy ban
nhân dân xã quản lý địa bàn. Tuy nhiên, không được coi đây là cấp chính quyền
cơ sở thứ năm.
17

×