Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

giải quyết xung đột pháp luật (XĐPL) về hợp đồng (HĐ) theo quy định của pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.68 KB, 3 trang )

Hợp đồng trong Tư pháp quốc tế (HĐTPQT) là hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài,
trong đó: các chủ thể hợp đồng có quốc tịch khác nhau; hợp đồng được ký kết ở nước
ngoài; đối tượng của hợp đồng là tài sản ở nước ngoài; sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quan hệ hợp đồng xảy ra ở nước ngoài. HĐTPQT rất đa dạng, ví dụ: hợp
đồng trong quan hệ dân sự, hợp đồng tín dụng quốc tế, hợp đồng lao động quốc tế, hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế...
Cách thức giải quyết xung đột pháp luật (XĐPL) về hợp đồng (HĐ) theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành:
1. Giải quyết XĐPL về hình thức của HĐ:
Đ770 BLDS quy định: “Hình thức của HĐ phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết
HĐ”. Quy định này là phù hợp với nhu cầu thực tế. Nó cho phép các bên tham gia ký kết
HĐ tiến hành một cách thuận tiện các thủ tục về hình thức tại nơi ký kết HĐ mà Pháp luật
(PL) nơi ký kết HĐ yêu cầu. Bên cạnh đó, quy định này cũng nhằm bảo vệ quyền lợi của
các chủ thể trong HĐ; bảo vệ quyền lợi của quốc gia nơi giao kết HĐ. Nhưng cũng có sự
khó khăn trong sự xác định nơi giao kết HĐ là nơi nào . Trong trường hợp HĐ được giao
kết ở nước ngoài mà vi phạm hình thức HĐ thì vẫn có hiệu lực về hình thức HĐ tại VN
nếu hình thức HĐ đó không trái với quy định của PL CHXHCN VN .
Ngoại lệ của nguyên tắc xác định PL điều chỉnh hình thức của HĐ (hình thức của HĐ phải
tôn trọng PL VN mặc dù được ký kết ở nước ngoài): (i) hình thức của HĐ liên quan đến
việc xây dựng hay chuyển giao quyền sở hữu công trình, nhà cửa và các bất động sản khác
trên lãnh thổ VN (Đ770.2 BLDS); (ii) những trường hợp HĐ được giao kết gián tiếp
(mạng, thư điện tử...) thì hình thức của HĐ được xác định theo Đ771 BLDS: tuân theo PL
của nước nơi cư trú của cá nhân hay nơi có trụ sở chính của pháp nhân là bên đề nghị giao
kết HĐ; (iii) một số loại HĐ PL VN quy định phải bằng văn bản mới có giá trị pháp lý:
HĐ mua bán hàng hóa quốc tế, HĐ mua bán nhà ở, HĐ thuê tài sản...
2. Giải quyết XĐPL về nội dung của HĐ:
Điều 769 BLDS quy định: “Quyền, nghĩa vụ của các bên theo HĐ dân sự được xác định
theo PL của nước nơi thực hiện HĐ nếu không có thỏa thuận khác”. Như vậy, BLDS VN
đã cho phép các bên lựa chọn PL áp dụng cho HĐ và các bên có quyền lựa chọn luật vào
bất kỳ thời điểm nào: giao kết HĐ hay sau đó như trong quá trình tranh tụng tại tòa chẳng
hạn... Thường các bên chọn PL của một nước liên quan đến HĐ, nhất là PL của nước mà


một bên trong hợp đồng có quốc tịch. Tuy nhiên, các bên còn có quyền chọn luật của một
nước không có quan hệ nào với HĐ. Các bên còn có quyền lựa chọn 2 hay nhiều PL để
điều chỉnh HĐ. Ngoài ra, các bên có quyền lựa chọn những quy tắc không phải là pháp luật
một nước hay tập quán quốc tế để điều chỉnh HĐ (PL VN không quy định nên có thể hiểu
là không cấm các bên được lựa chọn). Ví dụ: Các bên có quyền chọn nguyên tắc HĐ
Thương mại quốc tế hay những nguyên tắc Châu Âu về HĐ. Sở dĩ chúng ta nên cho phép
các bên lựa chọn những nguyên tắc trên là vì: (i) HĐ là sự thỏa thuận giữa các bên do đó
phải để họ tự định đoạt quan hệ của họ bằng hệ thống PL mà họ cho là hợp lý; (ii) PL thực
chất của 1 nước là PL được thiết lập cho những quan hệ trong nước nên thường xuyên
không phù hợp với quan hệ quốc tế; (iii) thông thường, bên nước ngoài không thích chọn
luật VN còn bên VN không hài lòng khi bị ép buộc chọn luật nước ngoài.
Một số ngoại lệ hạn chế tự do lựa chọn luật áp dụng:
(i) Đầu tư nước ngoài tại VN: các bên chỉ được chọn áp dụng PL nước ngoài khi PL VN
chưa có quy định cụ thể. Đối với những trường hợp cụ thể mà PL VN quy định thì các bên
không có quyền chọn PL nước ngoài để điều chỉnh .
(ii) Đ769.1 BLDS quy định: “HĐ được giao kết tại VN, thực hiện hoàn toàn tại VN thì
phải tuân theo PL VN”. Như vậy, các bên không được chọn PL nước ngoài nếu HĐ được
ký và thực hiện hoàn toàn ở VN. Nếu các bên ký ở VN nhưng không thực hiện hoàn toàn ở
VN thì có quyền chọn PL nước ngoài.
(iii) HĐ liên quan đến Bất Động Sản (quy định tại Đ769.2 BLDS).
Khi các bên không có thỏa thuận chọn PL áp dụng, Đ769.2 BLDS quy định: “Trong trường
hợp HĐ không ghi nơi thực hiện thì việc xác định nơi thực hiện HĐ theo PL CHXHCN
VN”. Có nghĩa là khi các bên có quy định nơi thực hiện HĐ thì PL áp dụng là PL của nước
nơi HĐ được thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Còn trường hợp không có thỏa thuận
thì phải xác định nơi thực hiện theo PL VN. Thiết nghĩ nên quy định nơi thực hiện HĐ là
nơi thực hiện nghĩa vụ đặc thù của HĐ và đưa ra một danh sách nghĩa vụ đặc thù của
những hợp đồng thông dụng .
3. Giải quyết XĐPL về điều kiện có hiệu lực của HĐ:
Theo PL VN, điều kiện có hiệu lực của HĐ được xác định theo PL của nơi ký kết HĐ hay
luật nơi thực hiện HĐ. Nếu HĐ liên quan đến bất động sản thì điều kiện có hiệu lực HĐ sẽ

áp dụng luật nơi có tài sản. BLDS quy định HĐ có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác hay PL có quy định khác. Thời điểm giao kết HĐ
miệng là thời điểm các bên thỏa thuận về nội dung chủ yếu của HĐ. Thời điểm giao kết
HĐ bằng văn bản là thời điểm các bên ký vào văn bản. Nếu HĐ cần có công chứng, chứng
thực thì HĐ có hiệu lực kể từ thời điểm HĐ có chứng nhận, chứng thực.
Về năng lực PL và năng lực hành vi của các bên chủ thể trong HĐ: PL điều chỉnh năng lực
hành vi dân sự (NLHVDS) cá nhân và năng lực pháp luật dân sự (NLPLDS) của pháp nhân
trong HĐ không được điều chỉnh bởi PL điều chỉnh HĐ. Đ762 BLDS quy định:
“NLHVDS của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo PL của nước mà người đó
là công dân”. Đ 765 BLDS quy định: “NLPLDS của pháp nhân nước ngoài được xác định
theo PL của nước nơi pháp nhân đó được thành lập”.
Ngoại lệ của nguyên tắc trên:
(i) Đ762.2 BLDS quy định: “Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao
dịch dân sự tại VN thì NLHVDS của người nước ngoài được xác định theo PL VN”.
(ii) Đ765.2 BLDS quy định: “Trường hợp pháp nhân nước ngoài thực hiện các giao dịch
dân sự tại VN thì NLPLDS của pháp nhân được xác định theo PL VN”.
Đối với trường hợp một người có 2 quốc tịch, theo Đ760.1 BLDS “trong trường hợp Bộ
Luật này hoặc các văn bản khác của CHXHCN VN dẫn chiếu đến việc áp dụng PL của
nước mà người nước ngoài là công dân thì PL áp dụng đối với người nước ngoài có 2 hay
nhiều quốc tịch nước ngoài là PL của nước mà người đó có quốc tịch và cư trú vào thời
điểm phát sinh quan hệ dân sự; nếu người đó không cư trú tại một trong các nước mà
người đó có quốc tịch thì áp dụng PL của nước mà người đó có quốc tịch và có quan hệ
gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân”. Như vậy, ở đây chỉ đề cập đến “người nước
ngoài có từ 2 quốc tịch nước ngoài trở lên” chứ trường hợp người có quốc tịch VN và quốc
tịch nước ngoài chưa có quy định xử lý. Thiết nghĩ nên áp dụng quy định đã được sử dụng
trong lĩnh vực năng lực PL tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự (áp dụng PL
VN). Như vậy theo PL VN, năng lực hành vi ký kết HĐ của các bên chủ thể được xác định
theo Luật quốc tịch của họ hoặc theo luật nơi thực hiện hành vi. BLDS còn thiết lập một số
quy phạm liên quan đến HĐ được giao kết vắng mặt: “Việc xác định nơi giao kết HĐ phải
tuân theo PL của nước nơi cư trú của cá nhân hoặc nơi có trụ sở chính của pháp nhân là

bên đề nghị giao kết HĐ. Thời điểm giao kết HĐ được xác định theo PL của nước của bên
đề nghị giao kết HĐ nếu bên này nhận được trả lời chấp thuận của bên được đề nghị giao
kết HĐ” (Đ771 BLDS). Bên cạnh đó, PL VN không có quy phạm xung đột quy định về
thẩm quyền ký kết HĐ./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005.
2. ĐH Luật Hà Nội: Giáo trình Tư pháp Quốc tế, TS. Bùi Xuân Nhự (chủ biên), NXB.
CAND, 2006.
3. ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh: Tư pháp quốc tế Việt Nam, TS.Đỗ Văn Đại, PGS.TS Mai
Hồng Quỳ, NXB.ĐHQG TP HCM, 2006.
4. TS. Đoàn Năng: Một số vấn đề lý luận cơ bản về Tư pháp quốc tế, NXB. Chính trị quốc
gia năm 2001.

×