Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN , ĐÌNH CHỈ, GIẢI QUYẾT VADS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160 KB, 8 trang )

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VADS.
1. Khái niệm, đặc điểm của đình chỉ giải quyết VADS.
Đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự là việc Toà án quyết định ngừng hẳn việc giải
quyết vụ án dân sự (VADS) đã thụ lí khi có những căn cứ do pháp luật quy định và sau khi
quyết định đình chỉ giải quyết VADS có hiệu lực pháp luật thì đương sự không có quyền
khởi kiện hoặc yêu cầu Toà án giải quyết vụ án đó nữa, trừ trường hợp đặc biệt mà pháp luật
có quy định khác. Như vậy, đình chỉ là một phương thức xử lý đặc biệt của Tòa án trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự. Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định nhiều
loại đình chỉ tương ứng với từng giai đoạn tố tụng và từng loại căn cứ khác nhau, theo đó Tòa
án sẽ ra nhiều loại quyết định đình chỉ khác nhau: đình chỉ giải quyết VADS trong thủ tục sơ
thẩm, đình chỉ giải quyết VADS trong thủ tục phúc thẩm, đình chỉ xét xử phúc thẩm, đình chỉ
xét xử yêu cầu của đương sự. Vì vậy, việc đình chỉ giải quyết VADS phải thoả mãn những
đặc điểm như: Việc đình chỉ giải quyết VADS phải dựa trên những căn cứ mà pháp luật đã
quy định trước; làm cho hoạt động tố tụng giải quyết VADS đã thụ lí của Toà án được ngừng
lại và Toà án không giải quyết VADS đó nữa; quyết định đình chỉ giải quyết VADS tuy cũng
làm chấm dứt việc giải quyết VADS ở một giai đoạn tố tụng nào đó nhưng nó không phải là
một quyết định giải quyết về nội dung của VADS mà chỉ đơn thuần là một quyết định về tố
tụng làm chấm dứt việc giải quyết VADS mà Toà án đã thụ lí; và việc đình chỉ giải quyết
VADS có thể được tiến hành ở Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
2. Cơ sở khoa học của việc quy định căn cứ đình chỉ giải quyết VADS.
- Phát hiện sự kiện Toà án thụ lí vụ việc mặc dù không thoả mãn các điều kiện mà
pháp luật quy định. Ví dụ như không đảm bảo điều kiện của chủ thể khởi kiện, yêu cầu giải
quyết vụ việc, vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
- Phát sinh sự kiện làm cho đối tượng của vụ việc cần phải giải quyết tại Toà án không
còn tồn tại. Chẳng hạn như: đương sự chết mà quyền và nghĩa vụ không được thừa kế phát
sinh từ quan hệ nhân thân, quan hệ cấp dưỡng; sự kiện người có nghĩa vụ chết nhưng không
để lại di sản thừa kế…
- Phát sinh sự kiện dẫn tới sự suy đoán là đối tượng của vụ việc cần phải giải quyết tại
Toà án không còn tồn tại. Đó là trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu được suy đoán là đã
từ bỏ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết VADS do được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai
mà vẫn vắng mặt không có lí do chính đáng.


3. Ý nghĩa của đình chỉ giải quyết VADS.
- Quyết định đình chỉ giải quyết VADS nhằm giảm bớt chi phí tố tụng cho đương sự
khi việc tiếp tục tố tụng không thật sự cần thiết nữa bởi nhiều lí do, căn cứ được quy định
trong luật, đương sự không cần mất thời gian và tiền bạc để tham gia tố tụng.
- Việc đình chỉ giải quyết VADS cũng tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí cho Nhà
nước. Khi Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc một cách đúng đắn sẽ làm quá
trình giải quyết vụ việc nhanh hơn, Toà án không phải kéo dài thời gian giải quyết vụ án,
thậm chí không phải mở phiên họp hoặc phiên toà để xét xử. Nhờ đó gánh nặng về số vụ việc
cần giải quyết được giảm tải, Toà án có điều kiện tập trung giải quyết các vụ việc quan trọng
hơn để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử.
II. ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VADS Ở TOÀ ÁN CẤP SƠ THẨM, TOÀ ÁN
CẤP PHÚC THẨM.
1. Đình chỉ giải quyết VADS ở Toà án cấp sơ thẩm.
1
a. Căn cứ đình chỉ giải quyết VADS ở Toà án cấp sơ thẩm.
Theo Khoản 1 Điều 192 BLTTDS, sau khi thụ lí vụ án thuộc thẩm quyền của mình,
Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS trong các trường hợp sau đây:
- Căn cứ thứ nhất: nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền và nghĩa vụ
của họ không được thừa kế (Điểm a Khoản 1 Điều 192)
Căn cứ này được hiểu là quyền và nghĩa vụ của họ theo pháp luật không được để lại
thừa kế cho người khác. Điều này có nghĩa các quyền, nghĩa vụ này phải là các quyền, nghĩa
vụ nhân thân, không phải quyền, nghĩa vụ tài sản. Do gắn liền với nhân thân nên khi đương
sự chết, quyền và nghĩa vụ nhân thân đương nhiên chấm dứt. Lúc này hoạt động tố tụng tại
Toà cũng chấm dứt vì đối tượng xét xử không còn nữa. Chẳng hạn, trong vụ án yêu cầu cấp
dưỡng khi li hôn mà một bên vợ hoặc chồng chết thì Toà án phải ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án vì quyền được cấp dưỡng và nghĩa vụ phải cấp dưỡng không được thừa kế. Cần
phân biệt trường hợp này với trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà
không có người thừa kế.
Căn cứ thứ hai: Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không
có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó

(Điểm b Khoản 1 Điều 192).
Đây là trường hợp nguyên đơn, bị đơn là cơ quan, tổ chức đang tham gia tố tụng bị
giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản thì tư cách pháp lí của các cơ quan, tổ chức này không còn,
hoạt động trên thực tế sẽ chấm dứt, các quyền và nghĩa vụ cũng chấm dứt theo. Nếu không có
cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cơ quan, tổ chức đó thì
Toà án phải đình chỉ giải quyết VADS.
Căn cứ thứ ba: Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận hoặc
người khởi kiện không có quyền khởi kiện (Điểm c Khoản 1 Điều 192).
- Trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Toà án chấp nhận: Cá nhân,
cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác khởi kiện với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình hoặc người khác. Hành vi khởi kiện của họ là cơ sở để Toà án giải quyết vụ án.
Nhưng khi Toà án đang xem xét yêu cầu khởi kiện mà người khởi kiện rút đơn khởi kiện,
không yêu cầu Toà án giải quyết nữa và được Toà án chấp nhận thì cơ sở để Toà án giải
quyết vụ án không còn nữa, Toà án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS.
Trong một vụ án, ngoài việc rút đơn khởi kiện, các đương sự có thể rút yêu cầu. Do
vậy, cần phân biệt giữa đình chỉ giải quyết vụ án với đình chỉ giải quyết yêu cầu. Vấn đề đình
chỉ giải quyết yêu cầu được quy định cụ thể theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2006/ NQ-
HĐTP ngày 12/5/2006. Một vấn đề đặt ra là khi người khởi kiện là đại diện theo uỷ quyền
của nguyên đơn đã rút đơn khởi kiện, Toà án có đương nhiên ra quyết định đình chỉ không?
Trong thực tế xảy ra tình huống A uỷ quyền cho B đòi tiền C. Trong quá trình giải quyết vụ
án, B thoả thuận với C nhận số tiền ít hơn A yêu cầu và rút đơn khởi kiện (chưa có sự đồng ý
của A) thì Toà án có chấp nhận hay không?
- Trường hợp người khởi kiện không có quyền khởi kiện: Chủ thể có quyền khởi kiện
VADS bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác.
* Cá nhân có năng lực hành vi tố tụng dân sự (NLHVTTDS) đồng thời phải có quyền
lợi bị xâm phạm hoặc tranh chấp có thể tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác thay mặt
mình khởi kiện (trừ việc li hôn). Đối với những cá nhân không có NLHVTDS mà có quyền
2
lợi cần được bảo vệ thì việc khởi kiện phải được người đại diện hợp pháp thay mặt họ thực
hiện.

* Cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án tại toà án có thẩm quyền để yêu cầu toà
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 161 BLTTDS). Việc khởi kiện của cơ
quan, tổ chức sẽ do người đại diện hợp pháp thực hiện hoặc có thể uỷ quyền cho người khác
có đủ NLHVTTDS khởi kiện. Bên cạnh đó, cơ quan, tổ chức cũng có quyền khởi kiện VADS
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích nhà nước.
* Các chủ thể khác như hộ gia đình, tổ hợp tác cũng có quyền khởi kiện VADS khi
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Với hộ gia đình, chủ hộ là người đại diện và có thể
uỷ quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện cho gia đình trong các quan hệ dân
sự (Điều 107 BLDS). Quyền khởi kiện của tổ hợp tác sẽ được thực hiện thông qua tổ trưởng
tổ hợp tác hoặc tổ viên được tổ trưởng tổ hợp tác uỷ quyền (Điều 113 BLDS).
Như vậy, “người không có quyền khởi kiện” đối với cá nhân được hiểu là người không
có NLHVTTDS, không có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại, tranh chấp hoặc không phải là
người đại diện của đương sự. Còn với cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, tổ hợp tác, “người
không có quyền khởi kiện” là người không thuộc một trong các chủ thể nêu trên. Việc người
khởi kiện có quyền khởi kiện hay không phải được xác định từ lúc nhận đơn khởi kiện. Nếu
sau khi thụ lí vụ án mới phát hiện ra căn cứ này thì Toà án đình chỉ giải quyết VADS.
Căn cứ thứ tư: Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp không có
nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ án (Điểm d Khoản 1 Điều
192).
Căn cứ này được áp dụng trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vì quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác. Nếu cơ quan, tổ chức đã khởi kiện, Toà án thụ lí vụ án mà cơ
quan, tổ chức đó lại rút văn bản khởi kiện, Toà án có trách nhiệm đình chỉ giải quyết VADS
đó với điều kiện không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục giải quyết vụ
án. Tuy nhiên, hiểu thế nào là “không có nguyên đơn” cho tới nay vẫn chưa có giải thích thoả
đáng. Hơn nữa, nguyên đơn được hiểu là người đã khởi kiện hoặc được người khác khởi kiện
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Như vậy khó xảy ra trường hợp một vụ án
không có nguyên đơn.
Căn cứ thứ năm: Các đương sự đã tự thoả thuận và không yêu cầu Toà án tiếp tục
giải quyết vụ án (Điểm đ Khoản 1 Điều 192).
“Các đương sự đã tự thoả thuận” là việc các đương sự chủ động thoả thuận về việc

giải quyết vụ án trong quá trình tố tụng mà không cần đến sự tác động của Toà án. Nó khác
với việc các bên tự nguyện thoả thuận giải quyết vụ án trên cơ sở hướng dẫn của Toà trong
khi hoà giải. Sau khi Toà án thụ lí vụ án mà các đương sự tự nguyện thoả thuận được với
nhau về các vấn đề cần giải quyết và không yêu cầu Toà án tiếp tục giải quyết vụ án thì Toà
án phải đình chỉ giải quyết vụ án đó vì lúc này đối tượng xét xử của vụ án không còn. Căn cứ
này xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự. Đương sự có quyền tự thoả thuận để giải
quyết các vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của mình.
Căn cứ thứ sáu: Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt (Điểm e Khoản 1 Điều 192).
Nguyên đơn là người cho rằng quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm nên khởi kiện để
yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích đó. Do vậy, họ phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án để
chứng minh cho yêu cầu của mình. Nếu được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà nguyên đơn
3
vẫn vắng mặt thì được coi như đã từ bỏ quyền lợi đó, Toà án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án mà
không cần xét đến việc vắng mặt của nguyên đơn có lí do chính đáng hay không.
Căn cứ thứ bảy: Đã có quyết định của Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã (DN, HTX) là một bên đương sự trong vụ án mà việc giải quyết vụ án có
liên quan đến nghĩa vụ tài sản của DN, HTX đó (Điểm g Khoản 1 Điều 192).
Khi đã có quyết định mở thủ tục phá sản DN, HTX thì các quyền, nghĩa vụ sẽ được
giải quyết thông qua thủ tục phá sản. Các Toà án khác không được nhận đơn khởi kiện, thụ lí
VADS có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà DN, HTX bị mở thủ tục phá sản đó là một bên
đương sự. Nếu do không biết mà thụ lí thì Toà án đã thụ lí phải đình chỉ giải quyết VADS,
đồng thời phải chuyển hồ sơ cho Toà án đang tiến hành mở thủ tục phá sản để giải quyết
(Khoản 2 Điều 57 LPS).
Ngoài ra, Khoản 2 Điều 192 BLTTDS quy định Tòa án ra quyết định đình chỉ nếu
vụ án thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 168 BL TTDS. Đó là:
• Thời hiệu khởi kiện đã hết: Căn cứ này có nghĩa là khoảng thời gian do pháp luật
quy định cho đương sự có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
đã hết. Vì Toà án đã thụ lí vụ án nên khi phát hiện ra căn cứ này Toà án sẽ ra quyết định đình
chỉ giải quyết VADS. Việc xác định đã hết thời hiệu khởi kiện đều phải căn cứ vào quy định

của pháp luật nội dung đối với từng quan hệ pháp luật cụ thể. Ví dụ, BLDS quy định thời
hiệu khởi kiện về thừa kế là 10 năm kể từ ngày tính thừa kế, về tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu tương đối là 2 năm kể từ ngày giao dịch được xác lập…
• Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có NLHVTTDS.
Theo phân tích tại Căn cứ thứ 3 ở trên.
• Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
Khi vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu lực của Toà án hoặc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tức là quan hệ pháp luật nội dung cần giải quyết đã được
xem xét, quyết định nên các bên không có quyền khởi kiện, yêu cầu lại một lần nữa. Trừ
trường hợp Toà án bác đơn xin li hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức
bồi thường thiệt hại…
• Hết thời hạn thông báo quy định tại Khoản 2 Điều 171 của BLTTDS mà người khởi
kiện không đến Toà án làm thủ tục thụ lí vụ án, trừ trường hợp có lí do chính đáng.
Khoản 2 Điều 171 quy định thời hạn mà đương sự đến nộp tiền tạm ứng án phí để Toà
án thụ lí vụ án. Nếu hết thời hạn này mà đương sự không đến nộp tạm ứng án phí thì Toà án
sẽ không thụ lí vụ án. Nếu Toà án đã thụ lí thì phải đình chỉ giải quyết vụ án đó.
• Chưa có đủ điều kiện khởi kiện.
Đây là trường hợp đương sự khởi kiện khi chưa đủ các điều kiện do các bên thoả
thuận hoặc do pháp luật quy định. Chẳng hạn, chưa thông báo trước việc đòi nhà cho bên
thuê, người chồng li hôn vợ trong trường hợp vợ đang có thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng…
• Vụ án không thuộc thẩm quyền của Toà án.
Là trường hợp không thuộc thẩm quyền theo loại việc của Toà án mà thuộc thẩm
quyền của cơ quan nhà nước khác. Nên nếu Toà án đã thụ lí vụ án thì cần ra quyết định đình
chỉ giải quyết VADS đó.
b. Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Toà án cấp sơ thẩm.
4
Người có quyền ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS trước phiên toà xét xử sơ
thẩm là Thẩm phán được Chánh án phân công giải quyết vụ án (Điều 194 BLTTDS), tại

phiên toà sơ thẩm là HĐXX (Điều 210 BLTTDS).
c. Hình thức của quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Toà án cấp sơ thẩm.
Quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Toà án cấp sơ thẩm phải lập thành văn bản.
Mẫu, nội dung quyết định này được quy định cụ thể tại NQ 02/2006/NQ – HĐTP ngày
12/5/2006.
d. Hiệu lực và hậu quả pháp lí của quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở Toà án cấp
sơ thẩm.
* Hiệu lực: Quyết định đình chỉ giải quyết VADS ở giai đoạn sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn
kháng cáo là 7 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Toà án (Khoản 2 Điều 245
BLTTDS). Hết thời hạn trên mà không có kháng cáo, kháng nghị thì quyết định đình chỉ giải
quyết VADS có hiệu lực pháp luật ngay và chấm dứt việc giải quyết vụ án tại đó. Mặc dù vậy
quyết định này vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ.
* Hậu quả pháp lí: Khi Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết VADS thì hoạt động
tố tụng chấm dứt. Về nguyên tắc, các đương sự không có quyền khởi kiện lại để yêu cầu Toà
án giải quyết VADS đó một lần nữa nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án
trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp. Nhưng với các ngoại lệ sau
đương sự vẫn có thể khởi kiện lại một vụ án mới mặc dù trước đó đã bị đình chỉ giải quyết:
Người khởi kiện rút đơn khởi kiện; người khởi kiện không có quyền khởi kiện; nguyên đơn
được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; đã có quyết định của Toà án mở thủ
tục phá sản đối với DN, HTX mà vụ án đang giải quyết liên quan đến nghĩa vụ tài sản của
DN, HTX đó.
Về tiền tạm ứng án phí: nếu đình chỉ giải quyết vụ án theo Khoản 1 Điều 192
BLTTDS thì tiền tạm ứng án phí sung công quỹ nhà nước. Nếu đình chỉ giải quyết vụ án theo
Khoản 2 Điều 192 BLTTDS thì Toà án xoá tên vụ án đó trong sổ thụ lí và trả lại đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự, trả lại cho người đã nộp tiền tạm ứng phí.
2. Đình chỉ giải quyết VADS ở Toà án cấp phúc thẩm.
a. Căn cứ đình chỉ giải quyết VADS ở cấp phúc thẩm.
Căn cứ đình chỉ giải quyết VADS của Toà án cấp phúc thẩm được quy định tại Điều
278 BLTTDS: “HĐXX phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án nếu trong

quá trình giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy
định tại Điều 192 của Bộ luật này”. Các căn cứ này đã xuất hiện, tồn tại ở giai đoạn sơ thẩm.
Lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm phải phát hiện ra các căn cứ đó và ra quyết định đình chỉ nhưng vụ
án vẫn được giải quyết. Khi xem xét vụ án theo thủ tục phúc thẩm, Toà án phát hiện ra các
căn cứ này nên đã đình chỉ giải quyết VADS. Ví dụ, một vụ án tranh chấp dân sự đã hết thời
hiệu khởi kiện, đáng lẽ Toà án cấp sơ thẩm phải trả lại đơn khởi kiện trước khi thụ lí hoặc
phải đình chỉ giải quyết VADS thì lại đưa vụ án đó ra xét xử. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm
phải huỷ bản án sơ thẩm đó và đình chỉ giải quyết vụ án.
Ngoài ra theo Điều 269 BLTTDS, trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc
thẩm, nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì HĐXX phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay
không. Nếu bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, HĐXX phúc
thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong vụ án, ngoài
5

×