Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tìm hiểu vấn đề sinh con theo phương pháp khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.43 KB, 14 trang )

Phần một: Giới thiệu vấn đề
Gia đình là tế bào của xã hội, thực hiện chức năng xã hội của mình.
Một trong những chức năng cơ bản đó là sinh đẻ (hay còn goi là tái sản
xuất con người) nhằm phục vụ cho lợi ích xây dựng chủ nghĩa xã hội, kết
hợp hài hòa giữa lợi ích gia đình và lợi ích xã hội. Con người là chủ thể
chính đem lại những tiến bộ cho xã hội, đóng góp cho nhân loại những
thành tựu khoa học to lớn. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học kỹ thuật, mọi lĩnh vực của cuộc sống đều chịu sự tác động, ảnh
hưởng lớn. Ngay cả trong việc sinh con cũng có sự liên quan của khoa
học. Hi vọng với đề tài mà nhóm chúng tôi thực hiện (Tìm hiểu vấn đề
sinh con theo phương pháp khoa học) sẽ phần nào làm rõ hơn, giải
thích những thắc mắc còn tồn tại và quan trọng đây có thể sẽ là vấn đề
được đưa ra để thảo luận, góp ý nhằm củng cố hơn những yếu tố pháp lý
của pháp luật nước nhà.
Phần hai: Giải quyết vấn đề
I. Căn cứ xác định sinh con theo phương pháp khoa học theo
pháp luật Việt Nam và một số vấn đề liên quan.
Từ những phát triển vượt bậc của con người trong lĩnh vực sinh học,
loài người gần như làm chủ được các phương thức sinh con. Việt Nam là
nước đang phát triển, đang trong quá trình hội nhập thành tựu trên mọi
lĩnh vực mà các quốc gia trên thế giới đã đạt được, trong đó có các
phương pháp sinh con theo công nghệ (thành tựu của lĩnh vực sinh học -
kỹ thuật). Vấn đề đặt ra cho Nhà nước là điều hòa được các vấn đề nảy
sinh trong quan hệ hôn nhân và gia đình, vừa tiếp thu được các thành tựu,
vừa không trái với các quy tắc đạo đức chuẩn mực. Pháp luật chính là
công cụ hữu hiệu để điều chỉnh. Các cơ quan quản lý hành chính nhà
1
nước đã có một số văn bản hướng dẫn việc thực hiện pháp luật, tuy chưa
được đầy đủ và chưa nhất quán nhưng vẫn có thể lấy đó làm cơ sở để xác
định phương pháp sinh con áp dụng công nghệ khoa học.
Vậy thế nào là sinh con theo phương pháp khoa học? Pháp luật cho


phép áp dụng các phương thức nào và cấm những hành vi nào? Ngoài ra,
vấn đề bảo quản tinh trùng, phôi, các nước có nền khoa học tiên tiến đều
có quy định cụ thể, còn Nhà nước ta có những quy định như thế nào?
Cuối cùng, việc thực hiện nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của bà mẹ chúng
ta đã làm được những gì? Sau đây nhóm chúng tôi sẽ có những giải thích
cụ thể cho các câu hỏi trên.
1. Căn cứ xác định vấn đề sinh con theo phương pháp khoa học.
Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2003 của
Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học đã đưa ra những giải
thích cụ thể cho từng khái niệm trong lĩnh vực này.
Những giải thích đó được thể hiện trong Khoản 1, Điều 3 của Nghị
định. Cụ thể: “Sinh con theo phương pháp khoa học là việc sinh con được
thực hiện bằng các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh
trong ống nghiệm.”
Ta có thể thấy quy đinh tại Khoản 1 trên đã nêu rõ phạm vi áp dụng
các biện pháp hỗ trợ sinh sản, pháp luật chỉ công nhận hình thức sinh con
theo phương pháp khoa học. Các kỹ thuật hỗ trợ trong việc sinh sản cơ sở
pháp lí quy định rõ ràng và đảm bảo cho các cặp vợ chồng vô sinh có thể
yên tâm hơn để thực hiện mong muốn của mình nhưng đồng thời đó cũng
là nguyên tắc được áp dụng cho các cơ sở y tế khi thực hiện phương pháp
này.
Ngoài ra, cũng ở điều này, Chính phủ đồng thời cũng hướng dẫn
việc áp dụng, cụ thể tại Khoản 4: “Cặp vợ chồng vô sinh là cặp vợ chồng
sống gần nhau liên tục, không áp dụng biện pháp tránh thai nào mà không
có thai sau 1 năm”. Căn cứ Khoản 4, ở đây còn thể hiện những điều kiện
2
đầy đủ hợp pháp để một cặp vợ chồng có thể sử dụng phương pháp sinh
con theo phương pháp khoa học.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần làm rõ vấn đề này hơn, Nghị định số
12/2003/NĐ-CP có đưa ra khái niệm “cặp vợ chồng vô sinh” nhưng

không quy định một cách chặt chẽ nghĩa vụ với con được sinh ra theo
phương pháp khoa học. Bởi chỉ có những điều kiện chặt chẽ như vậy mới
có thể ràng buộc được quyền và nghĩa vụ pháp lí của họ với nhau cũng
như việc thực hiện kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Bởi trên thực tế cũng đã có rất
nhiều trường hợp mà quyền lợi của một trong 2 bên vợ chồng không
được bảo đảm. Có những cặp chỉ sống với nhau như vợ chồng nhưng
không đăng kí kết hôn, không hợp pháp. Một thời gian sau khi thực hiện
phương pháp hỗ trợ sinh sản. Kết quả của họ cũng đạt được nhưng khi có
tranh chấp xảy ra, một bên cho rằng đó không phải là con của chính
mình, không mang dòng máu của mình nên muốn trốn tránh trách nhiệm
và không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ pháp lí với một bên còn lại và đứa
trẻ sau khi được sinh ra.
2. Quy định của pháp luật về việc áp dụng kỹ thuật sinh theo
phương pháp khoa học.
Điều 4, Nghị định số 12/2003/NĐ-CP qui định về nguyên tắc áp
dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản:
“1. Các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ sống độc thân có quyền sinh
con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.
2. Việc thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải theo đúng quy
trình kỹ thuật do Bộ Y tế ban hành.
3. Việc thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; cho noãn, nhận noãn;
cho tinh trùng, nhận tinh trùng; cho phôi, nhận phôi phải được tiến hành
trên nguyên tắc tự nguyện.
3
4. Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên
nguyên tắc bí mật.”
Có thể thấy Khoản 3, Điều 4, Nghị định số 12/2003/NĐ-CP không
chỉ quy định việc cho, nhận tinh trùng; cho, nhận noãn mà còn quy định
việc cho, nhận phôi. Như vậy, đứa trẻ khi ra đời không nhất thiết phải
mang gen của người cha hay người mẹ về mặt pháp lí, điều này đảm bảo

quyền được làm cha, làm mẹ và đặc biệt là đảm bảo cho người phụ nữ,
ngay kể cả là người phụ nữ độc thân có thể thực hiện thiên chức của mình
đó là chức năng sinh đẻ. Tuy nhiên, điều này có phần đi ngược lại cách
hiểu truyền thống là đứa trẻ khi ra đời phải mang ít nhất huyết thống của
người cha hoặc người mẹ.
Ngoài ra, Khoản 4, Điều 4 - Nghị định 12 cũng qui định rằng việc
cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi, được thực hiện trên nguyên tắc
bí mật. Tuy nhiên, hướng dẫn chi tiết để có thể hiểu thế nào là nguyên tắc
bí mật thì Luật vẫn chưa dự liệu cụ thể về điều này.
3. Những hành vi áp dụng kỹ thuật sinh con theo phương pháp
khoa học bị pháp luật cấm.
Những hành vi bị cấm được nêu cụ thể tại Điều 6, Nghị định số
12/2003/NĐ-CP
1. Mang thai hộ.
2. Sinh sản vô tính.
Mang thai hộ có nghĩa là:
Thứ nhất, một phụ nữ bằng lòng cho sử dụng trứng của mình để phối
hợp với tinh trùng của người không phải là chồng mình để tạo thành phôi
sinh qua phương pháp thụ thai nhân tạo . Sau đó phôi sinh này được cấy
trở lại trong tử cung của phụ nữ kia cho đến khi thai nhi được sinh ra và
sẽ được trao trả cho vợ chồng người đã bỏ tiền thuê mướn theo giao kèo
đôi bên đã ký kết.
4
Thứ hai, hoặc đồng ý cho mượn tử cung của mình để tiếp nhân một
phôi sinh thụ tinh bởi trứng và tinh trùng của hai người khác nào đó và
chỉ mượn tử cung của mình để mang thai hộ cho đến ngày viên mãn.
Trong trường hợp này, phôi sinh hay giao tử được thụ thai nhân tạo với
trứng và tinh trùng của người khác và được cấy vào tử cung của phụ nữ
ưng thuận mang thai hộ để lấy tiền thuề mướn.
Về mặt sinh học, người phụ nữ này đúng là mẹ thật của đứa trẻ, vì

đã cưu mạng trong lòng mình hay đã cho cả trứng của mình để tạo sinh
đứa trẻ.Chỉ khác một điều là người cha của nó không phải là chồng của
phụ nữ này mà thôi.
Chính vì là mẹ thật của đứa trẻ, nên trong thực tế đã xảy ra những
cuộc tranh tụng bi thảm giữa phụ nữ mang thai hộ và người thuê mang
thai.
Bên cạnh đó còn phát sinh một vấn đề nữa đó là người mang thai hộ
có thể nói dối người thuê mình mang thai là thai đã bị hỏng để sử dụng
vào mục đích khác, có thể đem bán với giá cao hơn cho người khác hoặc
vì mục đích cá nhân khác. Ngoài ra, một vấn đề khác cũng cần phải quan
tâm là việc lây truyền các bệnh truyền nhiễm từ người cho trứng, tinh
trùng, phôi cho cặp vợ chồng nhận và cho đứa bé sau này. Việc này đòi
hỏi cần có qui trình chặt chẽ trong việc chọn lọc người cho.
(Theo Dân trí) - Một nghiên cứu nhỏ cho thấy trẻ được sinh ra nhờ
phương pháp hỗ trợ sinh sản bằng cách tiêm tinh trùng vào bào tương
trứng (ICSI) có thể làm giảm chỉ số IQ của trẻ so với những trẻ sinh
thường hoặc trẻ sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm
(IVF).
Quy định này là hoàn toàn phù hợp với phong tục tập quán truyền
thống, tâm lí tình cảm và quan điểm chung của các nước trên thế giới.
Thực tế cho thấy vấn đề mang thai hộ, xét thuần tuý về mặt khoa học thì
có thể chấp nhận được nhưng xét đưới góc độ tâm lí, tình cảm, phong tục
5

×