Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin tại Tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.99 KB, 19 trang )

PHẦN I : LỜI GIỚI THIỆU
Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống
và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân, chuẩn bị hành trang để con người hòa
nhập vào cộng đồng xã hội .Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hôn nhân là cơ sở để
hình thành gia đình - tế bào của xã hội .Mỗi chế độ xã hội , gia đình đều thực
hiện chức năng cơ bản mang tính chất xã hội của nó .Gia đình ra đời tồn tại và
phát triển trước hết là nhờ nhà nước thừa nhận hôn nhân của nam nữ , đồng thời
qui định quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ .Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân từ lâu nhà nước ta từ lâu đã quan tâm tới việc bảo vệ chế độ
hôn nhân và gia đình, dưới nhà nước xã hội chủ nghĩa. Luật hôn nhân và gia
đình 1959, 1986 và 2000 đã góp phần hết sức quan trọng vào việc xây dựng mô
hình gia đình mới ,tiến bộ xã hội chủ nghĩa .Hệ thống pháp luật về hôn nhân và
gia đình của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay quy định vấn đề ly hôn với quan
điểm vừa tôn trọng, bảo vệ quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, vừa
giải quyết ly hôn có lý có tình, bằng pháp luật Nhà nước kiểm soát quyền tự do
li hôn của vợ chồng vi lợi ích gia đình và xã hội.
Trong những năm gần đây tình trạng li hôn của nước ta xảy ra rất phổ
biến, với những nguyên nhân li do đa dạng phức tạp cả về chủ thể và nội dung.
Vấn đề giải quyết hậu quả của ly hôn cũng rất phức tạp nhiều hạn chế,vướng
mắc. Theo báo cáo của các cơ quan chức năng, những vụ án kiện về hôn nhân và
gia đình chiếm trên dưới 50% trong tổng số các án kiện dân sự. Trong các án
kiện về hôn nhân và gia đình, li hôn chiếm trên 90%.
Trong thời gian học tập và nghiên cứu trong trường Đại Học Luật Hà Nội
và qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu hồ sơ án dân sự tại Tòa án nhân dân huyện
Phú Xuyên em thấy chế định ly hôn là chế định quan trọng trong quan hệ pháp
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam do vậy em chọn chuyên đề về thực tiến áp
dụng căn cứ li hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn tại huyên Phú Xuyên. Vì
đây là đầu tiên tiếp xúc việc nghiên cứu đề tài tốt nghiệp, kết hợp cả tinh lí luận
và thực tiễn, cũng với phạm vi nghiên cứu khá rộng trong khi đó thời gian có
hạn, nhiều nội dung chưa được đầu tư thỏa đáng vì thế chất lượng chuyên đề còn
nhiều hạn chế và không tránh khỏi những sai xót vì vậy em rất mong nhận được


sự quan tâm chỉ bảo của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
1
PHẦN II: NỘI DUNG
2.1. Quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin
2.1.1 Khái quát về quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin tại Tòa án
Tìm hiểu và thu thập thông tin là một việc quan trọng trong quá trình thực
tập của sinh viên bởi qua quá trình này sinh viên được bổ sung thêm kiến thức
thực tế tại các Toà an cũng như trang bị những kĩ năng cần thiết phục vụ cho
công việc sau khi sinh viên tốt nghiệp,và điều quan trọng hơn hết bây giờ là
phục vụ tốt nhất cho việc viết chuyên đề thực tập. Nhận thức được tầm quan
trọng của quá trình tìm hiểu, thu thập thông tin và có sự chuẩn bị cho việc này,
tài liệu nhằm hoàn thành tốt nhất cho việc nghiên cứu cũng như là viết chuyên
đề thực tập tốt nghiệp ma mình đã lựa chọn.
Được sự giúp đỡ của quý cơ quan nơi thực tập, đặc biệt là sự giúp đỡ của
lãnh đạo Tòa án huyên Phú Xuyên, các thẩm phán, thư ký trong quá trình thực
tập, trong quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin vì thế mà các số liệu mà em
trình bầy trong chuyên đề mang tính sát thực. Số liệu được rút ra từ các báo cáo
tháng, quý và báo cáo năm của Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên, các số liệu
được rút ra từ sổ thụ lý vụ án về hôn nhân và gia đình, từ sổ theo dõi kết quả
xét sử sơ thẩm vụ án về hôn nhân và gia đình, từ các hồ sơ vụ án về hôn nhân
và gia đình trong các các năm 2005, 2006, 2007. Tuy nhiên các số liệu không
thể đưa vào bài viết một cách thuần túy mà còn phải thông qua quá trình xử lí
thông tin, đánh giá và đưa ra được bản chất của vấn đề cần xem xét là” thực
tiễn áp dụng căn cứ li hôn để quyết các trường hợp li hôn tại nơi thực tập” .
Trong khoảng thời gian hơn ba tháng thực tập tại tòa án mục đích thực tập
là bổ sung những kiến thức thực tiễn tại tòa án, đồng thời xem xét, lí giải thực
tiễn áp dụng pháp luật nói chung và pháp luật hôn nhân và gia đình nói riêng tại
địa phương nơi thực tập.Để làm dược việc nói trên đồng thời phục vụ tốt cho
việc viết chuyên đề.Mỗi sinh viên thực tập đều phải thu thập thông tin, sau đó

xử lí số liệu và đưa vào bài viết chuyên đề của mình nhằn hoàn chỉnh một
chuyên đề.Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin phục vụ cho việc viết chuyên
2
đề thực tập diễn ra từ ngày đầu tiên thực tập tại Tòa án và trong suốt quá trình
thực tập đến khi hoàn thành chuyên đề. Trong quá trình đó như đã trình bày ở
trên ngoài những thuận lợi cơ bản thì còn gặp những khó khăn nhất định như:
Những thông tin lưu trữ dưới dạng thủ công, không cụ thể rõ ràng, số liệu
không tập trung do vậy việc thống kê và thu thập thông tin còn gặp nhiều khó
khăn. Nhưng với tinh thần hăng say, nhiệt tình của một sinh viên thực tập đã
giúp em hoàn thành tốt quá trình thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho việc
viết chuyên đề.
Để đạt kết quả trong việc xử lý các số liệu thu thập được em phải thông
qua rất nhiều phương pháp khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương
pháp thống kê, tổng hợp đối chiếu so sánh…Xuất phát từ phương pháp luận
triết học Mac – Lênin và Tư Tưởng Hồ Chí Minh, lý luận chung về Nhà nước
và pháp luật từ đó xâu chuỗi lôgic các vấn đề lại.
Ngoài các thông tin của bài viết này được tìm hiểu qua các thông tin đại
chúng như: đài, báo, sách vở và rút ra từ gia đình, ban bè và ý thức của bản
thân, đặc biệt bản thân em còn được cơ quan nơi thực tập tạo điều kiên cho việc
thâm nhập thực tế, bằng những kinh nghiệm thực tế thu thập được góp phần
quan trọng vào việc hoàn thành đề tài.
2.1.2 Kết quả của quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin.
Sau một thời gian không lâu kể từ khi thực tập tại Tòa án với sự giúp đỡ
tận tình của lãnh đạo Tòa án các can bộ hướng dẫn thực tập, sự nỗ lực của bản
thân trong quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin kết quả thu được là rất tốt, nó
thể hiện được nội dung cốt lõi của vấn đề nghiên cứu “Thực trạng ly hôn tại địa
phương Phú Xuyên trong ba năm 2005, 2006, 2007.Qua những số liệu thu thập
đươc giúp em đánh giá được thực trang ki hôn, tìm hiểu được nguyên nhân cũng
như là đưa ra được giải pháp nhằm hạn chế được tình trạng li hôn.Cụ thể những
thông tin thu được thể hiên ngắn ngọn ở bảng số liệu sau.

3
Đơn vị: vụ
Năm Thụ lý
Tạm
đình chỉ
Đình chỉ Bản án
Công
nhận tt
Hòa giải
thành
2005 45 2 1 8 32 1
2006 47 10 3 12 28 1
2007 71 8 2 17 35 2
- Lý do ly hôn
Đơn vị: vụ
Năm
Mâu thuẫn
vợ chồng
Ngoại tình Không con
Một bên đi
vắng
Nghiện hút
2005 37 1 3 3 1
2006 41 1 2 5 1
2007 58 3 3 3 2
2.2 Các căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam.
2.2.1 Đặc thù về kinh tế-chính trị-xã hội ở huyên Phú Xuyên.
Phú Xuyên là một huyện đồng bằng của Tỉnh Hà Tây, có vị trí địa lý
thuận lợi, phần lớn địa bàn huyện nằm trên trục quốc lộ 1A đoạn Hà Nội – Hà

Nam.Kinh tế-xã hội trong huyện còn kém phát triển so với một số huyện khác
trong tỉnh, ngoài cơ cấu kinh tế Nông nghiệp là chủ yếu còn có sự phát triển của
tiểu thủ công nghiệp-các làng nghề truyền thống.Về điều kiện xã hội đây là một
huyện đồng bằng nên thuần nhất về cơ cấu dân số toàn bộ là người Kinh. Nhìn
4
chung trình độ dân trí phát triển khá đồng đều từ thi trấn cho tới các xã xa trung
tâm của thị trấn.Đời sống văn hóa của người dân đa dạng trong đó có nhiều
phong tục tập quán, lễ hội, một số xã trong huyện là địa bàn cư trú của đồng bào
Công giáo có đạo.
Đặc biệt trình độ nhận thức pháp luật của đại bộ phận người dân trong
huyện còn thấp mà nguyên nhân thì rất nhiều nhưng chủ yếu xuất phát từ đời
sống kinh tế của người dân còn khó khăn lại là một huyện vùng xa của tỉnh Hà
Tây, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật còn bộc lộ nhiều yếu
kém chưa được chú trọng một cách đúng mức, trình độ dân trí nói chung còn
thấp.
Từ những đặc điểm về kinh tế- chính trị- xã hội như đã trình bày có ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống trong huyện nói chung và đời sống hôn nhân và
gia đình nói riêng, như tình trạng ly hôn diễn ra ngày càng nhiều trong những
năm vừa qua. Các căn cứ để Tòa án giải quyết ly hôn cũng như nguyên nhân dẫn
tới tình trạng ly hôn thì rất nhiều và khác nhau.
2.2.2. Căn cứ ly hôn theo định của luật hôn nhân và gia đình và các văn
bản pháp luật có liên quan.
2.2.2.1. Căn cứ ly hôn do một bên vợ hoặc chồng nộp đơn xin ly hôn.
Quyền ly hôn là một quyền hiến định được quy định trong Hiến pháp và
văn bản pháp lý bảo vệ quyền dân sự của cá nhân được quy định tại điều 42 Bộ
luật dân sự 2005 và được cụ thể hóa chi tiết trong luật hôn nhân và gia đình và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Kể từ khi giành được chính quyền đến nay
Đảng và Nhà nước ta không ngừng chăm lo đến đời sống của gia đình nói riêng,
đời sống của nhân dân nói chung.Từ sau năm 1945 Nhà nước đã ban hành nhiều
xác lệnh quy định về kết hôn các điều kiên kết hôn, trải qua một thời gian dài

Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao như luật
hôn nhân và gia đình 1959; luật hôn nhân và gia đình năm 1986; và văn bản
đang có hiệu lực pháp lý là luật hôn nhân và gia đình 2000.Trong đó có qui định
căn cứ ly hôn cụ thể có hai căn cứ ly hôn:
5
Điều 89. Căn cứ cho ly hôn
1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng,đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án
quyết định cho ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin
ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn
Căn cứ cho ly hôn là những tình tiết được qui định trong pháp luật, chỉ khi
có những tình tiết (điều kiện) đó thì Tòa án mới mới được xử cho ly hôn. Căn cứ
cho ly hôn là cơ sở pháp lý thì Tòa án dựa vào đó giải quyết ly hôn.
Nghị quyết 02/2000/NQ -HĐTP ngày 23-12-2000 của Tòa án nhân dân tối cao
có một số qui định nhằm làm rõ cụm từ “tình trạng trầm trọng,đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”.
a
1
. Được coi là tình trạng trầm trọng của vợ chồng khi:
- Vợ chồng không thương yêu, quí trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như:
Người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng
muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan tổ
chức, đoàn thể nhắc nhở, hòa giải nhiều lần.
- Vợ chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau như: Thường xuyên
đánh đập hoặc có hành vi khác xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của
nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc
nhở, hòa giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thủy với nhau như: Có quan hệ ngoại tình, đã
được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ

chức nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình.
a
2
. Để có những cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài
được thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng
như hướng dẫn tại Điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở,
hòa giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục
sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc
6
phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không
thể kéo dài được.
a
3
. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng;
không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh
dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng
tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi
mặt”.
Như vậy, theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, nội dung căn cứ
chung để cho ly hôn là xuất phát từ những nguyên nhân, lý do cụ thể trong đời
sống vợ chồng như: vợ, chồng luôn có hành vi ngược đãi, đánh đập, xúc phạm
danh dự ,nhân phẩm ,uy tín của nhau; vợ chồng không chung thủy với nhau đã
được gia đình , những người thân thích , cơ quan tổ chức, đoàn thể khuyên can ,
hòa giải nhiều lân mà vợ chồng vẫn có những hành vi như trên , dẫn đến đời
sống tình cảm yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn đã sâu sắc không thể
hòa giải được, mục đích của hôn nhân nhằm xác lập quan hệ vợ chồng chung
sống hòa thuận, hạnh phúc, bền vững, xây dựng gia đình – những tế bào xã hội
đã không thể đạt được; và ly hôn nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng là cần thiết
và tất yếu.
2. Khoản 2 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định căn cứ

thứ hai: để tòa án giải quyết việc ly hôn: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của
người bị tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì tòa án giải quyết cho ly hôn”.
Xét về kĩ thuật lập pháp, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 coi đây là một căn
cứ để giải quyết cho ly hôn (trước đây theo Luật hôn nhân và gia đình 1959 và
1986 của nhà nước ta không qui định vấn đè này.Tuy nhiên, trong thực tiễn xét
xử các án kiện ly hôn nhiều năm qua ở nước ta, khi chưa có Bộ luật dân sự năm
1995 tòa án vẫn giải quyết ly hôn theo yêu cầu của đương sự khi vợ, chồng của
họ đã bị tuyên bố mất tích”.
Đường lối giải quyết ly hôn khi vợ, chồng bị mất tích được hương dẫn tại
Nghị quyết số 02/200/NQ - HĐTP:
7

×