Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Vấn đề giáo dục trong Chính trị luận của Aristotle

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.38 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Lâu nay, chúng ta thường hiểu chính trị theo nghĩa xấu là những âm mưu
tranh chấp quyền lực, và những người làm chính trị là những người luôn có mưu mô
toan tính, bất chấp đạo đức nên giữ thái độ “kính nhi viễn chi” với chính trị, nhưng
thực tế không hẳn là như vậy, bởi ngay từ thời xa xưa vấn đề “chính trị” đã tồn tại
và nó là tất yếu của đời sống xã hội. Luận giải về điều này, Aristotle đã nói “con
người là một sinh vật chính trị”, không thể tách rời đời sống chính trị của cộng đồng
mà nó sinh sống. Chính trị, tự nó không xấu, chỉ có những mô hình và chế độ chính
trị do con người tạo ra mới có tốt và xấu vì không nhận thức rõ được về bản chất của
con người. Tất cả những quan điểm, tư tưởng về chính trị, về con người, về các thể
chế nhà nước, các mô hình hiến pháp, các phương pháp cai trị và giáo dục được
Aristotle viết rất rõ trong “Chính trị luận” vào năm 350 trước công nguyên.
Có thể nói “Chính trị luận” của Aristotle là cuốn cẩm nang luận về chính trị
để các nhà tư tưởng hậu thế nhìn nhận, soi xét, hiểu được các nhà tư tưởng thời
Khai sáng và Hậu hiện đại, từ đó phát triển nên các hệ tư tưởng mới.
Một trong những vấn đề quan trọng trong tác phẩm là bàn về giáo dục con
người, nhất là thế hệ trẻ. Vì lý do đó, tôi chọn vấn đề: “Vận dụng tư tưởng của
Aristotle về giáo dục trong tác phẩm “Chính trị luận” đối với việc đổi mới giáo
dục ở nước ta hiện nay” làm tiểu luận kết thúc môn học Các lý thuyết chính trị
trong lịch sử.
Do hạn chế về trình độ nghiên cứu và khả năng tiếp cận, nắm bắt các nội
dung chưa được đầy đủ nên bài viết còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự góp ý
của các đồng chí để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
1
PHẦN NỘI DUNG
Chương I
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
1. Tác giả
Aristotle sinh năm 384 tr.CN tại Stagia miền bắc Hy Lạp. Bố ông
(Nichomachus) là bác sĩ cho hoàng gia Macedonia. Lúc đầu Aristotle theo học


ngành y, năm 367 Tr.CN ông được gửi đến Athen học triết học với thầy Plato cho
đến năm 347 Tr.CN . Là một học sinh xuất sắc nên Aristotle được chỉ định đảm
nhận một số bài giảng cho Plato. Khi Plato qua đời, Aristotle không được chỉ định
thay thế vị trí của Plato để điều hành học viện. Ông rời Athen và dành thời gian
cho du lịch.
Năm 338 Tr.CN ông trở về Macedonia làm trợ lý cho Alexander đại đế. Sau
khi Alexander đại đế chiếm Athen, Aristotle quay lại Athen và lập trường học. Khi
Alexander chết, người Athen nổi dậy chống lại chế độ Macedonia lúc đó Aristotle
lâm vào tình khạng khó khăn về chính trị. Để khỏi phải chết ống dời đến đảo
Eubeoa và mất ở đó vào năm 322 tr.CN
Là một nhà bác học, Aristotle đã để lại cho hậu thế một kho tàng tư tưởng về
nhiều phương diện như triết học, khoa học, toán học, thiên văn học và chính trị học.
Trong lĩnh vực chính trị, ông có nhiều công trình khảo cứu công phu, trong
đó tiêu biểu là tác phẩm Chính trị luận, một trong những công trình kinh điển của
khoa chính trị học tại phương Tây.
Vào cuối thời kỳ Trung cổ, những học thuyết của Aristotle được phát hiện
lại và được nhiều họa giả thời đó tin tưởng, tôn sùng. Với những học thuyết mà
ông để lại, ông được mệnh danh là triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, là ông tổ
của chính trị học Phương Tây, là người đặt nền móng cho việc nghiên cứu lý luận
chính trị phương Tây.
2. Tác phẩm
Aristotle viết Chính Trị Luận năm 350 Tr.CN. Cuốn sách này được xem là
căn bản cho Chính trị học Tây phương và ảnh hưởng sâu rộng tới các tư tưởng gia
đời sau như Cicero, St. Augustine, Aquinas, và các lý thuyết gia khác thời Trung
Cổ. Các lý thuyết gia hiện đại như Machiavelli, Hobbes, và các nhà tư tưởng thời
Khai Sáng đều dựa trên nền tảng này mà phê phán lý thuyết và mô hình chính trị
kiểu Aristotle. Nhờ vậy, họ đã phát triển nên các hệ tư tưởng mới. Vì thế, dù ta
đồng ý hay không đồng ý với lập luận và lý thuyết của Aristotle, hiểu rõ các
nguyên lý căn bản mà Aristotle đã đề ra vẫn là điều cần thiết để có thể hiểu được
các nhà tư tưởng thời Khai sáng và Hậu hiện đại.

2
Trong Chính Trị Luận, Aristotle dùng phương pháp luận lý quy nạp, đi từ
đơn vị xã hội nhỏ nhất là gia đình tới xã hội và cuối cùng là quốc gia, để tìm ra
những đặc tính thiết yếu mà nhà nước phải có để trở thành một nhà nước lý tưởng.
Ngoài phương pháp quy nạp, Aristotle cũng dùng phương pháp so sánh giữa mô
hình nhà nước "lý tưởng" và mô hình nhà nước trong thực tế và đưa ra những
nguyên lý xây dựng một nền chính trị mang lại "điều tốt nhất" cho con người.
Chính trị luận gồm 8 quyển:
- Quyển I: Lý thuyết về gia đình, gồm 13 Chương;
- Quyển II: Các mô hình nhà nước lý tưởng trên lý thuyết, gồm 12 Chương;
- Quyển III: Khảo sát về bản chất công dân và các mô hình hiến pháp, gồm
18 Chương;
- Quyển IV: Các mô hình hiến pháp và các dạng khác nhau của từng mô
hình trong thực tế, gồm 16 Chương;
- Quyển V: Nguyên nhân của cách mạng và sự thay đổi chế độ, gồm 12 Chương;
- Quyển VI: Các phương thức thiết lập chế độ dân chủ và qủa đầu, gồm 8
Chương;
- Quyển VII: Các lý tưởng chính trị và các nguyên tắc trong giáo dục, gồm
3 phần;
- Quyển VIII: Bàn về giáo dục.
Aristotle ưu ái giành trọn cả Quyển VIII và từ chương 12 đến chương 17 của
Quyển VII để viết nêu lên những quan điểm bàn về thể chế và nền giáo dục.
Chương II
Quan điểm của Aristotle về giáo dục
Tục ngữ có câu “Nếu muốn chỉ huy giỏi thì trước hết phải học cách vâng
lời”. Từ xa xưa, con người đã rất coi trọng vấn đề giáo dục con người bằng nhiều
cách khác nhau để mọi người cùng sống chan hòa, tốt đẹp hơn. Nắm bắt được điều
đó, ngay trong Chương đầu tiên của Chính trị luận, Aristotle đã khẳng định: “Mỗi
nhà nước là một hình thức quần tụ nào đó của con người - một cộng đồng và mỗi
một cộng đồng được thiết lập nhằm đạt tới một cái tốt nào đó; vì hoạt động của

con người luôn nhằm đạt được cái mà nó nghĩ là tốt. Nhưng nếu tất cả cộng đồng
đều nhằm đến một cái tốt, thì nhà nước hay cộng đồng chính trị - cộng đồng cao
nhất và bao trùm tất cả các cộng đồng - phải nhằm tới cái tốt cao hơn cả mọi cái
tốt khác, và phải là cái tốt ở mức độ cao nhất”. Do đó, việc giáo dục công dân trở
thành những người dân đạo đức là điều tối quan trọng. Khi một nước có được
những người dân vừa học thức lại vừa đức hạnh, dĩ nhiên đất nước đó phải trở nên
3
tốt hơn. Đó cũng là kết luận tự nhiên khi Aristotle kết thúc Chính trị luận bằng
Quyển 8 để bàn về giáo dục.
Theo Aristotle, giáo dục là nhiệm vụ của Quốc gia và Nhà nước phải xây
dựng một hệ thống giáo dục đồng nhất cho mọi công dân. Nền giáo dục quốc gia
đó phải là một nền giáo dục toàn diện về thể chất cũng như tinh thần.
Aristotle đề nghị bốn môn học cho chương trình giáo dục: Đọc - viết, thể
dục, âm nhạc và hội họa. Trong bốn môn học này, môn đọc - viết và vẽ được xem
là hữu ích cho mục đích của cuộc sống trên nhiều phương diện, còn thể dục được
xem là môn học rèn luyện lòng can đảm, âm nhạc là môn học trong lúc thư nhàn.
Aristotle cũng đề nghị dạy cho trẻ em phát triển thể chất trước khi phát triển
tinh thần. Cho nên, trẻ em nên được tập thể dục trước, vì huấn luyện thể chất sẽ
giúp trẻ em phát triển các tập quán tốt như kỷ luật tự giác, rồi đến âm nhạc, sau rốt
mới đến các môn học về tri thức.
Tuy nhiên, vì việc rèn luyện bất kỳ một năng khiếu hay một nghệ thuật nào
cũng đòi hỏi phải qua một giai đoạn tập dượt thành thói quen, việc giáo huấn đức
hạnh cũng phải như vậy. Vì cả nước có một mục đích tối hậu, bởi thế chỉ nên có
một sự giáo dục đồng nhất cho tất cả mọi người, và sự giáo dục này phải là nền
giáo dục công lập do nhà nước ấn định chứ không phải do tư nhân tự lo liệu lấy
cho con em của họ, muốn dạy gì thì tùy thích.
Chính vì những lập luận sắc bén đó nên “ai cũng phải đồng ý là nhà lập
pháp nên đặt mối quan tâm hàng đầu vào việc giáo dục tuổi trẻ, bởi vì bỏ việc
giáo dục sẽ gây nguy hại cho cơ cấu chính trị và hiến pháp của một nước”.
Chương III

Vận dụng quan điểm về giáo dục của Aristotle vào phát triển giáo dục
ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1.Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính
trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển và là động lực thúc đẩy nền kinh
tế phát triển, bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Ở Việt Nam, từ thời dựng nước và giữ nước đã coi trọng vấn đề giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng hiền tài cho quốc gia, cho đến nay, nó đã trở thành truyền thống
hiếu học để muôn đời sau noi theo. Thật vậy, sự nghiệp giáo dục - đào tạo có vị trí
quan trọng trong chiến lược con người, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Muốn tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước,
trước hết phải phát triển giáo dục – đào tạo.
4
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, giáo dục
– đào tạo đã và đang trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát triển của đất
nước. Nắm bắt xu thế phát triển của thời đại, đồng thời tiếp thu, học tập những tinh
hoa văn hóa nhân loại, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương phát triển giáo dục một
cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục mầm non,
thực hiện xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở trên phạm vi
cả nước, tạo môi trường thuận lợi để cho mọi người học tập và học tập suốt đời.
Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống
Giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành
nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt chính sách giáo dục gắn
với phát triển kinh tế xã hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ II, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã
nhấn mạnh: Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc
giáo dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng
kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển.
2. Những thành tựu chủ yếu của giáo dục sau gần 30 năm đổi mới đất nước
Sau gần 30 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu

quan trọng:
- Đã hình thành được một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh,
thống nhất và đa dạng hoá với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non
đến sau đại học; hệ thống giáo dục đã bước đầu được đa dạng hoá cả về loại hình,
phương thức và nguồn lực, từng bước hội nhập với xu thế chung của giáo dục thế
giới; các Trường, Trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức, các lớp dạy
nghề ngắn hạn phát triển mạnh; các trường đại học và cao đẳng được thành lập ở
hầu hết các khu dân cư lớn của cả nước, các vùng, các địa phương; mạng lưới cơ
sở giáo dục được mở rộng đến hầu hết các xã, phường, thị trấn trong toàn quốc. Cả
nước đã hoàn thành công tác xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung
học cơ sở, một số nơi đang thực hiện phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Gần
98% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ. Cơ sở vật chất kỹ thuật các trường được
nâng cấp, cải thiện.
- Quy mô phát triển giáo dục tăng nhanh cả về số lượng người học lẫn mạng
lưới các trường học, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, những nơi đặc biệt khó khăn
và đồng bào dân tộc thiểu số.
- Công bằng xã hội trong giáo dục được đảm bảo. Về cơ bản nước ta đã đạt
được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ sở. Công bằng xã hội trong giáo dục
được cải thiện, đặc biệt đối với trẻ em gái, người dân tộc thiểu số và con em các
gia đình nghèo, các đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội ngày càng được chú trọng.
5
Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa đã có những
chuyển biến tích cực, tiếp tục phát triển mạnh mẽ nhờ các chính sách giáo dục cho
người dân tộc được ban hành và thực thi có hiệu quả.
- Công tác xã hội hoá giáo dục đã đem lại kết quả bước đầu. Các lực lượng
xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường, xây dựng cơ
sở vật chất của trường học, đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức
khác nhau. Nhận thức của nhân dân về sự nghiệp giáo dục có những chuyển biến
tích cực. Các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể đã quan tâm hơn đến sự nghiệp
giáo dục. Nhận thức về ý nghĩa của việc kết hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường

và xã hội không ngừng được nâng cao.
- Các loại hình trường lớp đã được đa dạng hoá như: Công lập, bán công,
dân lập, tư thục. Các chương trình giáo dục từ xa qua các phương tiện thông tin đại
chúng từng bước được tăng cường. Đối với các trường công, Nhà nước đã ban
hành và từng bước hoàn thiện chế độ thu học phí và các khoản đóng góp khác, tạo
thêm nguồn lực tài chính. Hệ thống trường lớp ngoài công lập tiếp tục được mở
rộng, đã tạo điều kiện giảm bớt sức ép đối với các trường công và tạo cơ hội cho
các lực lượng xã hội cùng với nhà nước tham gia vào sự nghiệp giáo dục.
- Các điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được cải thiện. Trong những
năm qua, kết hợp nhiều nguồn vốn, ngành Giáo dục và các địa phương đã cố gắng
tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá
một bước cơ sở vật chất kỹ thuật của các nhà trường ở các cấp bậc học, tạo điều
kiện để bảo đảm nâng cao chất lượng dạy và học.
Trong những năm gần đây, điều kiện giáo dục và đời sống giáo viên được
cải thiện, những đổi mới trong chính sách đối với giáo sinh đã thu hút ngày càng
nhiều học sinh giỏi vào các trường sư phạm, mức sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được nâng lên là những yếu tố tác động tích cực đến chất lượng đội ngũ
nhà giáo.
Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đã được nâng dần, từ gần 11% năm
1996 lên 20% tổng chi ngân sách Nhà nước vào năm 2010. Đây là sự quan tâm lớn
của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục. Nhiều địa phương, bên cạnh ngân sách
trung ương, còn có thêm từ ngân sách địa phương đầu tư cho giáo dục và đã có
nhiều cố gắng cải tiến việc phân bổ, điều hành ngân sách; đồng thời huy động
nguồn lực của nhân dân để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, bảo đảm
chất lượng dạy và học. Đóng góp của nhân dân cho giáo dục là một khoản đầu tư
đáng kể, đáp ứng khoảng 30- 40 % chi phí hàng năm của ngành Giáo dục. Các
nguồn vốn ODA và hỗ trợ không hoàn lại từ nước ngoài cũng đã được bổ sung cho
phát triển giáo dục
6
Tuy nhiên, nền giáo dục nước ta vẫn còn tồn tại một số hạn chế:

- Chất lượng và hiệu quả giáo dục nói chung còn thấp, không đồng đều giữa
các vùng, miền. Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: "Chất lượng giáo dục và
đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ
cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội.
Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất
lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và
học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành
nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn
bất cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục
còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội"
1
.
- Đội ngũ giáo viên vừa yếu vừa thiếu và không đồng bộ, phương pháp
giảng dạy còn lạc hậu. Rất nhiều địa phương có tổng biên chế giáo viên đủ, thậm
chí thừa, nhưng lại thiếu những loại hình giáo viên như ngoại ngữ, âm nhạc, kỹ
thuật. Sự hẫng hụt về giáo viên trình độ cao ở các trường đại học ngày càng gia
tăng, độ tuổi trung bình của giáo viên cao.
Phương pháp giảng dạy chưa được cải tiến, phổ biến vẫn là phương pháp
truyền thống thầy truyền đạt, trò tiếp thu thụ động. Điều đó diễn ra không chỉ ở
giáo dục phổ thông mà ngay cả ở đại học và sau đại học.
- Vấn đề quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập. Cơ chế quản lý giáo
dục chậm đổi mới, chưa theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực của đất nước. Đạo đức
và năng lực của một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý giáo dục còn thấp. Tư duy
giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước, trong bối
cảnh hội nhập quốc tế. Những tác động mặt trái của cơ chế thị trường và những khó
khăn của đất nước đã ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp phát triển giáo dục.
Quản lý giáo dục yếu kém cả trong xây dựng thể chế, chỉ đạo điều hành,
kiểm tra giám sát và xử lí vi phạm. Cơ chế quản lý giáo dục chậm đổi mới, chưa
theo kịp sự đổi mới trên các lĩnh vực của đất nước, còn có sự chồng chéo về chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, giữa cơ
quan quản lý nhà nước về giáo dục và các cơ quan chủ quản, giữa quản lý giáo dục
và đào tạo theo ngành và theo lãnh thổ. Tổ chức quản lý đào tạo nghề qua gần 30
năm đổi mới chưa ổn định do việc sáp nhập, chia tách. Công tác kế hoạch và tài
chính giáo dục còn yếu. Việc tổ chức khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục
chưa đáp ứng được yêu cầu.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.167-168
7
- Cơ sở vật chất trường lớp còn gặp nhiều khó khăn, trang thiết bị, phòng thí
nghiệp phục vụ giảng dạy và học tập còn thiếu thốn, tình trạng dạy chay còn phổ
biến. Số lượng máy tính còn ít. Ở các vùng đặc biệt khó khăn, nhiều học sinh
không có đủ sách giáo khoa.
Nội dung giáo dục ở các cấp học từ mầm non đến sau đại học còn có nhiều
bất cập. Có chỗ vừa quá tải đối với học sinh, sinh viên, có chỗ vừa chưa đáp ứng
được những thay đổi theo xu thế của thời đại. Thời gian, sức lực của học sinh dành
cho học tập là có giới hạn, nhưng số môn học và nội dung từng môn học ngày càng
tăng lên. Theo xu hướng đó, càng học lên cao hơn, thi cử càng gắt gao hơn, việc
học thêm, luyện thi lại căng thẳng, nặng nề hơn.
Chương trình giáo dục còn nặng nề, chưa bám sát yêu cầu của thực tiễn cuộc
sống đang đặt ra.
Thực tiễn phát triển giáo dục nước ta hiện nay cho thấy ba mâu thuẫn đang
tồn tại cần được giải quyết.
Một là, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển nhanh quy mô và gấp rút nâng cao
chất lượng của giáo dục với khả năng đáp ứng hạn chế của nền kinh tế và năng lực
còn yếu của hệ thống giáo dục.
Hai là, mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin, tri thức tăng nhanh trong khi
thời gian dành cho giáo dục có hạn đang ngày càng trở nên gây cấn. Mâu thuẫn này
đặt ra cho giáo dục bài toán về đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, tận dụng
tối đa chính những thành tựu của khoa học công nghệ để đổi mới giáo dục.

Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới giáo dục đang ngày càng gay gắt với
yêu cầu giữ sự ổn định tương đối cho hệ thống.
3. Mục tiêu và giải pháp đổi mới giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
3.1 Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp đổi mới giáo dục - đào tạo là tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện nền giáo dục xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc, khoa học và hiện
đại. Thực hiện giáo dục toàn diện ở tất cả các bậc học. Chú trọng giáo dục chính trị,
tư tưởng, nhân cách, lối sống, nâng cao khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực
hành. Trên cơ sở giáo dục nhân cách, thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây
dựng nền văn hoá và con người Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo theo nhu cầu phát triển của
xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân
chủ hoá và hội nhập quốc tế nhằm phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
8
Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công
dân được học tập suốt đời.
3.2 Các giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo
Quán triệt quan điểm của Đảng coi “Giáo dục - Đào tạo là quốc sách hàng
đầu”, để làm tốt nhiệm vụ này, trước hết phải đổi mới tư duy giáo dục một cách
nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ
thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền
giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc
phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn
đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân, vì dân, đảm bảo công bằng
về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập
suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo tư tưởng
của Đại hội X đề ra.
- Cần coi trọng cả ba mặt giáo dục: Dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề; đặc

biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch sử, truyền thống
văn hoá của dân tộc. Quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục nhân cách đạo đức, kỹ
năng và phương pháp làm việc; nâng cao trình độ và tạo thế mạnh về ngoại ngữ,
tin học cho học sinh, sinh viên; phát triển năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, làm cho thế hệ trẻ có đủ khả năng và bản lĩnh thích ứng với những biến đổi
nhanh chóng.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời, xây dựng
xã hội học tập. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nhất là những nghề thuộc lĩnh
vực công nghệ cao. Mở rộng mạng lưới cơ sở dạy nghề, phát triển trung tâm dạy
nghề quận/huyện. Triển khai tích cực các chương trình đào tạo nghề cho học sinh
các dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Kết hợp chặt chẽ
việc đào tạo nghề với việc bồi dưỡng, phổ biến kiến thức kỹ thuật cho nông dân.
Sớm điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về trình độ đào tạo, ngành nghề,
dân tộc, vùng miền.
- Ngăn chặn tình trạng tái mù chữ. Làm tốt việc phân luồng, giáo dục hướng
nghiệp. Phấn đấu giảm tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học.
- Rà soát và bổ sung cơ chế, chính sách, tổ chức phát hiện, bồi dưỡng nhân
tài ngay từ cấp học phổ thông, đặc biệt ở cấp đại học. Khuyến khích phát triển,
nâng cao chất lượng các trường trung học phổ thông năng khiếu, các lớp đào tạo cử
nhân khoa học tài năng.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng,
chuẩn về nhân cách, đáp ứng yêu cầu về chất lượng.
9
Cần chuẩn hoá trong đào tạo, tuyển chọn và sử dụng nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục các cấp một cách hợp lý. Nhà nước cần thực hiện tốt hơn chính
sách ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về vật chất và tinh thần để
thu hút những người giỏi làm công tác giáo dục.
- Tiếp tục đổi mới, nội dung phương pháp giáo dục, rà soát lại toàn bộ
chương trình và sách giáo khoa phổ thông, khắc phục tình trạng quá tải, nặng về lý
thuyết, nhẹ thực hành, chưa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của người học.

Đổi mới, hiện đại hoá chương trình giáo dục đại học, giáo dục hướng
nghiệp. Thực hiện tốt đào tạo theo học chế tín chỉ trong hệ thống giáo dục đại học
và giáo dục hướng nghiệp. Cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình các môn
khoa học xã hội, nhân văn, nhất là các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ kiến
thức một chiều. Phát huy phương pháp dạy học tích cực, sáng tạo, hợp tác; giảm phần
lý thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, gắn bó chặt chẽ giữa học lý
thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, sản xuất và đời sống.
- Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục. Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục. Đổi mới căn bản chính sách
sử dụng cán bộ theo hướng coi trọng năng lực thực tế. Đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý, chú trọng quản lý chất
lượng giáo dục. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động giáo dục.
Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước và giáo dục - đào
tạo với cơ quan quản lý nhân lực và việc làm.
Nhà nước thực hiện đúng chức năng định hướng phát triển, tạo lập khung
pháp lý và kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực thi pháp luật, tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh trong giáo dục - đào tạo, chống bệnh thành tích. Đổi mới tổ chức
và hoạt động, đề cao và bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường,
nhất là trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý giáo dục theo
hướng làm tốt chức năng quản lý nhà nước, xây dựng, hoàn thiện các chính sách,
cơ chế về giáo dục - đào tạo, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện mục tiêu, chương
trình và chất lượng. Xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục
như tình trạng dạy thêm, học thêm, thi cử, tuyển sinh, đánh giá kết quả học tập và
cấp chứng chỉ, văn bằng.
Đổi mới cơ chế quản lý, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp, chấn chỉnh và nâng cao
năng lực của bộ máy quản lý giáo dục. Hoàn thiện hệ thống thanh tra giáo dục một
cách toàn diện, đặc biệt chú trọng về công tác chuyên môn.

10
- Tăng cường mở rộng và nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quan hệ trao
đổi và hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo, từng bước hiện đại hoá nền giáo dục -
đào tạo phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi thu hút mạnh mẽ các
nguồn đầu tư nước ngoài cho giáo dục, ưu tiên lĩnh vực đào tạo đại học, sau đại
học và giáo dục nghề nghiệp; có cơ chế, chính sách thu hút các nhà giáo, nhà khoa
học người nước ngoài tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục
đại học.
Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có triển vọng đi đào tạo ở
nước ngoài, chú trọng các ngành mà đất nước có nhu cầu bức thiết; đồng thời tăng
cường quản lý việc học tập, sinh hoạt của lưu học sinh.
KẾT LUẬN
“Chính trị luận” là một trong những tác phẩm kinh điển của Aristotle về triết
lý và ý thức chính trị của phương Tây và trên nền tảng này những lý thuyết khác đã
được xây dựng và phát triển. Mãi cho tới hôm nay tác phẩm “Chính trị luận” vẫn
còn là một trong những tác phẩm mà những học giả, độc giả quan tâm phải đọc và
nghiên cứu.
Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đảng và
Nhà nước đã khuyến khích giới học giả tìm tòi nghiên cứu lý luận đặc biệt là lý
luận về việc xây dựng Nhà nước và giáo dục, pháp luật trên thế giới qua các tác
phẩm kinh điển trên thế giới trong đó có “Chính trị luận”.
Với những giá trị tư tưởng, toàn diện về con người, về chính quyền, nhà
nước, pháp luật, giáo dục mà Chính trị luận mang lại, Đảng và Nhà nước ta đã tiếp
thu có chọn lọc và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh nước ta, góp phần vào thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh với một nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.
11
MỤC LỤC

Trang
Mở đầu 1
Phần nội dung
Chương I
Giới thiệu tác phẩm
1 Tác giả 2
2 Tác phẩm 2
Chương II
Quan điểm của Aristotle về giáo dục
3
Chương III
Vận dụng quan điểm về giáo dục của Aristotle vào phát triển giáo dục ở
nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
1 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục 4
2 Những thành tựu chủ yếu của giáo dục sau gần 30 năm đổi mới đất nước 5
3 Mục tiêu và giải pháp đổi mới giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
8
3.1 Mục tiêu 8
3.2 Các giải pháp phát triển giáo dục - đào tạo 9
Kết luận 11
12

×