Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

QUYỀN MUA BÁN PHÁT THẢI KHÍ CO2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.31 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
( ( (
BÁO CÁO HỌC PHẦN
THƯƠNG MẠI MÔI TRƯỜNG
Đề tài:
QUYỀN MUA BÁN PHÁT THẢI KHÍ CO2
GVHD: Sinh viên thực hiện:
Ths. NGUYỄN THÚY HẰNG 1. Tô Thị Thu Hương B1207364
2. Nguyễn Thị Kim Phụng B1207398
3. Nguyễn Thị Linh Phụng B1207399
4. Quách Thị Hồng Vân B1207436
5. Nguyễn Thị Xuyên B1207441
1
Cần Thơ, 2015
CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình sinh sống trên Trái Đất, con người luôn tác động vào tự nhiên nhằm phục vụ cho
những lợi ích của mình. Những tác động ấy bên cạnh những mặt tích cực, còn nhiều tác động tiêu cực gây
nên những tổn hại nghiêm trọng cho môi trường. Với sự phát triển của các nền kinh tế và khai thác sử dụng
môi trường không hợp lý, lượng khí nhà kính, đặc biệt là CO2 phát thải ra bầu không khí cũng tăng lên
nhanh chóng. Lượng phát thải khí nhà kính tăng lên gây ra biến đổi khí hậu và nhiều hậu quả lớn đến nền
kinh tế và cuộc sống của con người. Điển hình là thiên tai diễn ra ngày càng nhiều hơn với mức độ nghiêm
trọng hơn.
Trước những nguy cơ to lớn của biến đổi khí hậu với con người, Công ước khung của Liên Hợp
quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã được chấp nhận vào 9/5/1992 tại trụ sở của Liên hợp quốc ở New
York và đã có 155 lãnh đạo các nước trên thế giới ký Công ước này tại Hội nghị Môi trường và phát triển ở
Rio de Janeiro, Braxin vào tháng 6/1992. Tại hội nghị các bên tham gia UNFCCC lần thứ 3 được tổ chức
tại Kyoto (Nhật Bản) tháng 12/1997, Nghị định thư của Công ước đã được thông qua (gọi là Nghị định thư
Kyoto - KP). Điểm nhấn quan trọng của công ước nhìn nhận trên góc độ kinh tế chính là sự hình thành thị


trường mua bán chứng nhận giảm phát thải khí nhà kính (CERs – Certified Emission Reductions).
Việc mua bán phát thải khí CO2 được khởi xướng từ năm 1989 nhưng thị trường này chỉ thực sự
hoạt động sau khi các nước ký Nghị định thư Kyoto (năm 1997). Nghị định thư Kyoto (KP) có hiệu lực từ
tháng 02 năm 2005. Theo KP, từ năm 2008 đến năm 2012, các nước công nghiệp phải giảm tổng lượng
phát thải khí nhà kính (GHG) trung bình là 5,2% so với mức của năm 1990. CO2 là khí nhà kính chính gây
ra sự nóng lên toàn cầu, khí này sinh ra chủ yếu do đốt nhiên liệu hóa thạch. Theo KP, mỗi nước tham gia
phải đặt ra mục tiêu quốc gia để giảm phát thải CO2. Theo đó, kể từ tháng 11/2007, những quốc gia tham
gia ký kết phải chấp nhận việc cắt giảm khí CO2 và năm loại khí nhà kính khác hoặc có thể tiến hành mua
các tín chỉ cácbon của những nước khác nếu không muốn cắt giảm lượng phát thải.
Thị trường khí thải ngày càng chứng tỏ tiềm năng, thu hút nhiều thành phần tham
gia: các hãng tư vấn và môi giới chuyên xác định mức khí thải rồi đề xuất giải pháp cắt
giảm như EcoSecurities, Climate Change Capital…, các công ty chuyên chứng thực
quyền thải khí như Det Norske Veritas, Societe General de Surveillance , các tổ chức
môi trường như World Resources Institute, Environmental Defense , tổ chức tài chính
đa phương như Ngân hàng Thế giới (WB) (ước tính giá trị cacbon mua bán trong năm
2005 là 10 tỷ đô-la Mỹ) Kinh doanh khí thải, nhằm giải quyết vấn đề khí hậu toàn cầu
ấm dần lên do hiệu ứng nhà kính, là thị trường mới phát triển mạnh vài năm gần đây và
được giới ủng hộ khi vừa bảo vệ môi trường vừa phát triển kinh tế.
Nghiên cứu này được thực hiện với mong muốn đưa ra một cái nhìn tổng quan về
vấn đề mua bán quyền phát thải CO2, bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình thực thi của
các nước trên thế giới và đánh giá khả năng áp dụng các cơ chế này tại Việt Nam.
II/ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung
1
- Tìm hiểu chung về thực trạng và cơ chế mua bán quyền phát thải CO2 trên thế giới.
- Phân tích tiềm năng phát triển cơ chế mua bán phát thải CO2 tại Việt Nam.
2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu lịch sử hình thành thị trường mua-bán phát thải khí nhà kính.
- Tìm hiểu vai trò, đặc điểm, các tiêu chí đánh giá và điều kiện tham gia thị trường mua bán quyền
phát thải CO2.

- Phân tích tình hình chung về cơ chế mua bán quyền phát thải CO2 tại Việt Nam và trên thế giới.
- Tìm hiểu, đánh giá sự cần thiết, cơ hội và thách thức đối với việc phát triển cơ chế mua bán quyền
phát thải CO2 tại nước ta.
III/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Không gian
Nghiên cứu được thực hiện tại Việt Nam và các quốc gia trên thế giới có áp dụng
chính công cụ kinh tế mua bán quyền phát thải CO2.
2. Thời gian
Đề tài được thực hiện nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 03/2015 đến 04/2015.
3. Đối tượng nghiên cứu
Tình hình mua bán quyền phát thải khí CO2 ở Việt Nam và các quốc gia trên thế
giới giai đoạn 2011-2014.
CHƯƠNG II
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I/ Các khái niệm cơ bản
- Mua bán phát thải CO2: là một phần của mua bán phát thải nói chung. Trong loại
hình "mua bán" này, mỗi quốc gia có một mức độ khí thải tối đa mà các cơ sở
được cho phép "xả". Những quốc gia nào có lượng khí thải xả ra nằm dưới mức
cho phép sẽ có quyền "bán" "sức chứa" khí thải còn dư của mình cho những quốc
gia mà lượng khí thải vì nhiều lý do vượt quá giới hạn cho phép. Cacbonic ᄃ là
thành phần chủ yếu của các loại khí nhà kính ᄃ khí nhà kính thải ra, nên thông
thường người ta chỉ nói đến việc "buôn bán" cacbon mà thôi.
- Thị trường tự nguyện: diễn ra giữa các bên hoặc các tổ chức đơn vị thông qua
các dự án giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Các sản phẩm của thị trường các-
bon tự nguyện gồm: năng lượng tái tạo, năng lượng chuyển đổi hoặc hiệu quả
sử dụng năng lượng, lâm nghiệp hoặc hút khí metan từ các bãi rác.
- Thị trường bắt buộc: Các nước công nghiệp thuộc Phụ lục I của Nghị định thư
Kyoto, đã cam kết giảm lượng phát thải khí nhà kính (trung bình 5,2% dưới mức
năm 1990 trong thời kỳ cam kết 2008-2012) thông qua cả 3 cơ chế Kyoto gồm Cơ
chế phát triển sạch – CDM, Cơ chế đồng thực hiện – JI và Cơ chế buôn bán phát

thải quốc tế – IET.
2
- Cơ chế phát triển sạch (CDM - Clean Development Mechanism) là cơ chế hợp tác
được thiết lập trong khuôn khổ nghị định thư Kyoto ᄃ (Nhật Bản ᄃ ) tháng
12 ᄃ năm 1997 ᄃ, Nghị định thư đã thiết lập một khuôn khổ pháp lý mang tính
toàn cầu cho các bước khởi đầu nhằm kiềm chế và kiểm soát xu hướng gia tăng
phát thải khí nhà kính đưa ra các mục tiêu giảm phát thải chính và thời gian thực
hiện cho các nước phát triển, theo đó các nước phát triển (các nước công
nghiệp ᄃ) hỗ trợ, khuyến khích các nước đang phát triển ᄃ thực hiện các dự án
thân thiện với môi trường, nhằm phát triển bền vững.
Bắt đầu từ những năm 2000, Cơ chế phát triển sạch đã cho phép một quốc gia
cam kết giảm phát thải (các nước công nghiệp phát triển) theo Nghị định thư
Kyoto đầu tư thực hiện một dự án giảm phát thải. Theo đó, mỗi một tấn phát thải
khí nhà kính[ Các khí gây hiệu ứng nhà kính được gọi tắt là khí nhà kính bao gồm
CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6 (được qui đổi ra tấn CO2) giảm được từ
các dự án này được cấp một chứng chỉ giảm phát thải (CER)
- Cơ chế đồng thực hiện (JI- Joint Implementation): phối hợp thực hiện các dự án
hợp tác về việc giảm thải khí nhà kính giữa các nước phát triển với nhau.
- Cơ chế buôn bán phát thải (IET): cơ chế này cho phép các nước phát triển "mua"
lại chứng chỉ giảm phát thải từ các nước đang phát triển - những nơi có mức phát
thải thấp, chưa đến ngưỡng yêu cầu giảm thải.
- Chứng chỉ giảm phát thải (CER - Certified emission reduction ): cũng giống như
chứng khoán có thể mua bán được, cho phép chủ sở hữu quyền thải ra số lượng
nhất định khí CO2 và các khí nhà kính khác trong một năm.
II/ Sự hình thành thị trường mua – bán phát thải nhà kính:
Nhận thức trước những tác động của hiệu kính nhà kình đến cuộc sống và sự phát
triển nói chung, các nước trên thế giới cùng nhau bàn bạc, đàm phán và đi đến thống nhất
hình thành nên những tổ chức, hiệp ước quốc tế, khu vực nhằm kiểm soát, đối phó với
những diễn biến của sự nóng lên của trái đất. Thị trường hình thành dựa trên sự nổ lực
nhằm thực hiện các cam kết trong các thể chế quốc tế này. Trong đó không thể không kể

đến Hiệp định khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu toàn cầu (UNFCCC) và Nghị
định thư Kyoto (KP).
Mục tiêu cuối cùng của UNFCCC là:” ổn định nồng độ khí nhà kính trong khi
quyền ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ
thống khí hậu. Năm nguyên tắc các nước tham gia:
- Các nước phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của các thế hệ hiện nay và mai
sau của nhân loại trên cơ sở công bằng và phù hợp với trách nhiệm chung nhưng
3
có sự phân biệt với khả năng của mỗi nước, TRong đó các nước phát triển phải đi
đầu.
- Cần phải xem xét đầy đủ những nhu cầu riêng và hoàn cảnh đặc thù của các nước
đang phát triển, nhất là các nước dễ bị ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu
- Các nước phải thực hiện biện pháp phòng ngừa và giảm nhẹ nguyên nhân gây ra
biến đổi khí hậu giảm nhẹ ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu
- Các quốc gia có quyền và phải đảy mạnh sự phát triển bền vững
- Các quốc gia phải hợp tác đẩy mạnh hệ thống quốc tế mở cửa và tương trợ hệ
thống này sẽ dẫn tới sự phát triển và tăng trường kinh tế bền vững ở tất cả các
quốc gia
Nghị định thư Kyoto là một cam kết được tiến hành dựa trên các nguyên tắc
của chương trình khung của Liên hiệp quốc về vấn đề biến đổi khí hậu ᄃ. Trong đó
những quốc gia tham gia kí kết phải chấp nhận việc cắt giảm khí CO
2
ᄃ và năm loại khí
gây hiệu ứng nhà kính khác, hoặc có thể tiến hành biện pháp thay thế như Emission
trading ᄃ nếu không muốn đáp ứng yêu cầu đó.
Nghị định thư Kyoto được đưa ra năm 1997 ở Kyoto, Nhật Bản. Chính thức có hiệu
lực 16/02/2005 với cam kết cắt giảm 5 % lượng khí thải nhà kính (so với năm 1990).
Mục tiêu được đặt ra nhằm“Cân bằng lại lượng khí thải trong môi trường ở mức độ
có thển găn chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn tại và phát triển của con người
vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường”.

Đến tháng 9/2011 có 191 nước và đại diện chính phủ các nước tham gia kí kết
(chiếm 61,1% lượng khí thải từ các nước công nghiệp chủ yếu là châu Âu và châu Á,
ngoại trừ Hoa Kỳ)
Theo một bài báo về chương trình biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc ᄃ thì: Nghị
định thư đại diện cho sự thống nhất giữa các quốc gia công nghiệp trong vấn đề cắt giảm
khí thải trên 5.2% so với năm 1990 (lưu ý rằng mức độ cắt giảm theo đó đến năm 2010
phải đạt được thì chỉ tiêu này là khoảng 29%). Mục tiêu hướng đến việc giảm thiểu các
loại khí carbon dioxide ᄃ , methane ᄃ , nitơ ôxít ᄃ , lưu huỳnh
hexafluorua ᄃ, clorofluorocarbon ᄃ và perflourocarbon ᄃ trong khoảng thời gian 2008-
2021. Mức trần đã được qui định cho các nước tham gia cụ thể là 8% mức cắt giảm
cho Liên minh Châu Âu ᄃ và 7% cho Hoa Kỳ ᄃ , 6% với Nhật Bản ᄃ , 0%
với Nga ᄃ trong khi mức hạn ngạch cho phép tăng của Úc ᄃ là 8%, và 10%
cho Iceland ᄃ.
Nghị định được kí kết bởi chính phủ các quốc gia tham gia Liên hiệp quốc ᄃ và
được điều hành dưới các nguyên tắc do tổ chức này qui ước. Các quốc gia được chia làm
4
hai nhóm: nhóm các nước phát triển-còn gọi là Annex I ᄃ (vốn sẽ phải tuân theo các cam
kết nhằm cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính ᄃ) và buộc phải có bản đệ trình thường
niên về các hành động cắt giảm khí thải; và nhóm các nước đang phát triển-hay nhóm các
nước Non-Annex I ᄃ (không chịu ràng buộc các nguyên tắc ứng xử như Annex I nhưng
có thể tham gia vào Chương trình cơ cấu phát triển sạch ᄃ).
Các quốc gia phát triển không đáp ứng được yêu cầu đặt ra như trong bản kí kết sẽ
phải cắt giảm thêm 1.3 lượng khí vượt mức cho phép trong thời hạn hiệu lực tiếp theo của
nghị định thư.
Các quốc gia đang phát triển không phải chịu ràng buộc các nguyên tắc ứng xử như
các quốc gia phát triển nhưng có thể tham gia vào chương trình cơ cấu phát triển sạch-
CDM. Điều này giúp khuyến khích các nước tham gia vào nghị đinh thư Kyoto để giảm
thiểu khí gây hiệu ứng nhà kín nhằm phát triển bền vững.
Mục tiêu được đặt ra nhằm "Cân bằng lại lượng khí thải trong môi trường ở mức độ
có thể ngăn chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn tại và phát triển của con người

vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường.
Các bên ủng hộ cho Nghị định thư Kyoto cũng nhấn mạnh rằng Nghị định thư
Kyoto phải là bước đầu tiên vì các điều kiện để thỏa mãn chương trình khung về vấn đề
biến đổi khí hậu - UNFCCC ᄃ sẽ được liên tục cân nhắc sửa đổi cho phù hợp nhất để
hoàn thành mục tiêu cân bằng khí thải ở mức độ thích hợp cho sự phát triển của con
người.
III/ Vai trò phát triển thị trường mua bán phát thải
Cho phép các nước mua bán sự phát thải nhà kính với nhau, vừa phù hợp với quy
mô sản xuất của các quốc gia mà vẫn đáp ứng đúng cam kết trong UNFCCC và KP về
tổng hạng mức khí thải vào môi trường
Việc mua bán này sẽ giúp các quốc gia phát triển có thể tăng lượng khí thải
vào môi trường mà không vi phạm các quy định bảo vệ môi trường => Thường các nước
đang phát triển không sử dụng hết chỉ tiêu phát thải được phân bổ do nền công nghiệp
chưa phát triển ở mức cao, ngược lại các nước phát triển luôn thiếu chỉ tiêu phát thải
Thông qua việc mua bán sự phát thải nhà kính, các nước đang phát triển (các
nước bán sự phát thải) có cơ hội cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường bằng cách
đầu tư vào các dự án phục hồi và cải tạo môi trường
IV/ Đặc điểm, các tiêu chí đánh gia và điều kiện tham gia thị trường mua bán phát thải
CO2
1. Đặc điểm
5
Thị trường mua bán sự phát thải là một thị trường mới mẻ. Thị trường các-bon là cơ
chế thị trường hướng tới việc cắt giảm tổng lượng khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu với
chi phí thấp nhất. Đây là một dạng mô hình thị trường chuyển nhượng hạn ngạch xả thải
để kiểm soát ô nhiễm ở quy mô toàn cầu hoặc một khu vực địa lý nhất định đã được áp
dụng thử nghiệm thành công ở một số nước trên thế giới.
- Các bên mua và bán sự phát thải nhà kính:
+ Bên mua: chủ yếu là các nước phát triển hay các nước công nghiệp phát triển có nhu
cầu xả thải cao.
+ Bên bán: chủ yếu là các nước đang phát triển hoặc kém phát triển

- Hàng hóa thị trường: là chứng nhận giảm thải nhà kính (CERs). Có 2 thuộc tính cơ bản:
+ Giá trị: thể hiện ở giá cả của nó trên thị trường. Hiện nay trên thị trường mức giá trung
bình la 14 USD/ tấn khí giảm thải được công nhận
+ Giá trị sử dụng: dùng vào việc cho phép tăng lượng thải khí của các nước có nhu cầu
trong điều kiện vẫn đảm bảo tổng lượng khí phát thải nhà kính thải vào môi trường.
- Hình thức mua bán trên thị trường có 2 hình thức đó là:
+ Trao đổi theo hạn ngạch: các công ty phải kiểm soát được định mức phát thải của
mình, công ty nào cắt giảm được lượng khí phát thải có thể giao bán chỉ tiêu của mình.
+ Thương mại các-bon thông qua những hỗ trợ từ các dự án bồi thường, đầu tư vào
những dự án ở các nước đang phát triển như: trồng rừng, bảo tồn đất,tăng hiệu suất năng
lượng, sử dụng năng lượng tái tạo được.
- Hình thức thanh toán cho hoạt động mua bán sự phát thải nhà kính:
+ Chuyển giao thiết bị, công nghệ giảm thiểu ô nhiễm trong các dự án giảm thiểu ô nhiễm
môi trường.
+ Thanh toán bằng tiền đế tái đầu tư và đầu tư mới vào các dự án xử lý ô nhiễm và cải tạo
chất lượng môi trường trong đó có các khu công nghiệp và khu chế xuất.
2. Các tiêu chí đánh giá thị trường mua bán phát thải CO2
Nguồn cung cầu thị trường:
Đối với thị trường mua –bán sự phát triển nhà kính thì nguồn cung chính là các
nước đang phát triển và kém phát triển, nơi mà còn nhiều chi tiêu phát thải chưa dùng
đến.
Giá cả được đưa ra mua bán:
Giá cả: là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả của sự phát
thải nhà kính được chứng nhận phụ thuộc vào từng dự án và thị trường. Ban đầu, giá
6
hàng hóa này rất rẻ, chỉ khoảng 2-10USD/tấn CO2; thì hiện nay, giá tăng lên khoảng 20
USD hoặc 20 Euro/tấn CO2 mức giá này còn được dự đoán là sẽ tiếp tục tăng trong thời
gian tới.
Yếu tố cạnh tranh trên thị trường
Trên thị trường mua –bán sự phát triển nhà kính diễn ra cạnh tranh giữa cả người

bán và mua, những người mua cạnh tranh nhau để giành được những dự án giảm chất
thải với chi phí thấp nhất từ các nước đang phát triển và kém phát triển. Nhằm có dự án
CDM lớn để thu về nguồn tài chính cho cải tạo tình trạng môi trường.
=> Tiềm năng của thị trường càng lớn, phát triển càng mạnh thì sự cạnh tranh càng quyết
liệt và khó khăn.
4. Điều kiện tham gia thị trường
Hội nghị Kyoto đã đưa ra 3 cơ chế trong đó khuyến khích thực hiện cơ chế phát triển
sạch CDM. Muốn tham gia vào dự án CDM thì các nước phải đáp ứng 3 yêu cầu sau:
- Tự nguyện tham gia CDM
- Chỉ định cơ quan quốc gia về CDM
- Phê chuẩn nghị định thư Kyoto
Chu trình thực hiện dự án
- Giai đoạn chuẩn bị dự án: thiết kế dự án, thực hiện dự án theo hướng dẫn và được
nhà nước chủ nhà phê duyệt và xin đăng kí lên tổ chức quốc tế, được các nhà đầu
tư cung cấp tài chính cho dự án.
- Giai đoạn thực hiện dự án: được các bên tham gia dự án thực hiện và tổ chức quốc
tế thẩm tra và cấp chứng chỉ giảm phát thải CERs.
Cách thức xây dựng và thẩm định, phê duyệt đều có các tiêu chí, tiêu chuẩn quy định chặt
chẽ và phải tuân theo.
Phê duyệt và yêu cầu
CDM được giám sát bởi Ban Điều hành CDM (CDM EB) và chịu sự chỉ đạo của
Hội nghị Các bên (COP) thuộc UNFCCC. Ở cấp độ quốc gia, mỗi nước tham gia CDM
đều có Cơ quan Thẩm quyền Quốc gia (DNA) chịu trách nhiệm phê duyệt các dự án ở
cấp địa phương sau khi những dự án này đã đáp ứng được những tiêu chí về phát triển
bền vững ở cấp độ quốc gia. Ở Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) là Cơ
quan Quốc gia Chuyên trách. Những yêu cầu quan trọng nhất đối với một dự án CDM là:
• giảm được lượng phát thải mà lẽ ra đã có thêm nếu như không có hoạt động dự án được
chứng nhận này và
7
• mang lại những lợi ích có thực, có thể định lượng và lâu dài nhờ giảm thiểu được tác

động của biến đổi khí hậu.
Một dự án đầu tư muốn được chứng nhận là một dự án CDM thì phải có được sự công
nhận của quốc gia đang phát triển chủ trì dự án đó (thông qua DNA) rằng dự án đó sẽ
đóng góp vào sự phát triển bền vững. Sau đó, bằng việc sử dụng các phương pháp đã
được CDM EB thông qua, bên đăng ký dự án phải chứng minh được rằng dự án các-bon
này lẽ ra đã không diễn ra (xác định tính bổ sung) và phải đưa ra được cơ sở để ước tính
lượng phát thải tương lai nếu như dự án không được đăng ký thực hiện. Sau đó, trường
hợp này được chứng thực bởi một cơ quan thuộc bên thứ ba là Đơn vị Vận hành Chuyên
trách (DOE) để bảo đảm rằng kết quả dự án sẽ là giảm phát thải một cách có thực, có thể
định lượng và lâu dài. Sau đó EB sẽ quyết định có đăng ký dự án hay không. Sau khi dự
án được đăng ký và thực hiện thì EB sẽ trao chứng nhận, được gọi là Chứng nhận Giảm
Phát thải (CERs), thường được biết đến với tên gọi chứng nhận các-bon với mỗi đơn vị
tương đương với 1 tấn CO2 quy đổi, nghĩa là CO2 hoặc quy đổi ra CO2, cho các bên
tham gia dự án căn cứ vào mức chênh lệch quan sát được giữa số liệu cơ sở và và số liệu
phát thải thực mà DOE xác nhận. Chu kỳ của toàn bộ dự án thường giao động từ 6 đến 20
tháng tuỳ thuộc vào thông tin sẵn có và thời gian dự án.
Khi thực hiện dự án CDM trong thị trường mua bán sự phát bên mua và bán đều phải có
lợi cho mình:
+ Bên bán: nếu Dự án thành công sẽ thu hút được khoản vốn đầu tư từ các nước phát
triển, tiếp nhận được công nghệ mới theo hướng bền vững, góp phần bảo vệ môi trường
quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ việc làm.
+ Bên mua: sẽ nhận được chứng chỉ CERs cho nước họ do kết quả giảm thải tại nước
bán với chi phí thấp hơn thực hiện tại nước mua.
Cụ thể như: Đại sứ quán Đan Mạch hiện đang đóng vai trò tích cực trong việc hỗ trợ mở
rộng thị trường Việt Nam cho các dự án Cơ chế Phát triển Sạch (CDM). Nếu một công ty
của Việt Nam (chủ dự án) nhờ đầu tư vào cải thiện sản xuất hoặc mua công nghệ mới mà
giảm được việc sử dụng năng lượng thì chủ dự án đó có thể sẽ được trả tiền cho nỗ lực
tiết kiệm năng lượng của mình (CERs) thông qua dự án đầu tư đó. Dự án phải tuân theo
những yêu cầu nghiêm ngặt và cuối cùng là phải được LHQ phê duyệt. Yếu tố quan trọng
để một dự án CDM được phê duyệt đó là mức độ giảm phát thải có trong kế hoạch sẽ

không thể đạt được nếu thiếu sự khích lệ bổ sung mà chứng nhận giảm phát thải mang
lại, một khái niệm được biết đến với tên gọi “tính bổ sung”.
Với vai trò như một công cụ, CDM đưa ra một phương án đôi bên cùng có lợi cho tất cả
các bên tham gia: Chủ dự án tăng được lợi nhuận đầu tư vào dự án bằng cách bán chứng
8
nhận CERs được cấp cho Chính phủ Đan Mạch hoặc cho một doanh nghiệp thầu mua của
Đan Mạch. Những nhà cung cấp công nghệ và bí quyết cho dự án có cơ hội mở rộng thị
trường của mình. Các bên xây dựng dự án có thêm bí quyết và đóng góp các dịch vụ tư
vấn cho dự án. Đồng thời, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ các dự án CDM đóng góp vào
sự phát triển bền vững thông qua cải thiện điều kiện môi trường và mang lại công nghệ,
bí quyết và những lợi ích kinh tế cho đất nước, còn bên mua CERs, có thể là Đan Mạch
hoặc một doanh nghiệp của Đan Mạch, lại có được một phương thức tiết kiệm chi phí khi
thực hiện được cam kết giảm phát thải theo Nghị định thư Kyoto.
V/ Tình hình mua bán phát thải CO2 trên thế giới
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới, mặc dù suy thoái về kinh tế nhưng thị trường
các bon trên thế giới năm 2008 có tổng giá trị giao dịch tăng gấp đôi, đạt mức hơn 126 tỷ
USD. Tuy nhiên, giao dịch qua các dự án CDM ở các nước đang phát triển giảm hơn
12%, ở mức 6,5 tỷ USD với giá trung bình khoảng 16,8 USD/tấn.
Theo số liệu thông kê, hiện nay bên “cung” chủ yếu của thị trường các bon là: Trung
Quốc (35,5%), Ấn Độ (24,25%), Brazil (6,25%), Các bên “cầu” chủ yếu của thị trường
là: Anh (28,11%), Thụy Sỹ (20,35%), Hà Lan (11,895), Nhật (11,43%), Thụy Điển
(6,39%), Đức (5,72%), v.v. Các lĩnh vực tham gia thị trường chủ yếu là năng lượng
(59,89%), quản lý chất thải (18,16%), sử dụng nhiên liệu (5,86%), nông nghiệp (5,13%),
công nghiệp (4,67%), v.v. Việt Nam tham gia thị trường với tư cách là bên cung ở mức
khoảng 0,03%.
Thời báo kinh tế Việt Nam, 21/11/2012 cho biết: Năm 2011, giá trị thị trường
cacbon tăng hơn 176 tỷ USD với tổng khối lượng giao dịch là 10,3 tỷ tấn carbon. Trong
đó, việc đóng góp từ dự án cơ chế phát triển sạch (CDM) và tín chỉ khác tăng 43%, đạt
1,8 tỷ tấn với giá trị hơn 23 tỷ USD.
Giao dịch thị trường các-bon tự nguyện trong năm 2011 đạt 573 triệu USD, tăng

35% so với năm 2010. Dự báo đến năm 2020, khối lượng giao dịch của thị trường tự
nguyện vào khoảng 1.638 triệu tấn CO2.
Tổng cộng có 8 thị trường carbon mới mở cửa trong năm 2013 (California Cap-and-
Trade Program, Quesbec Cap-and-Trade System, Kazakhstan Emissions Trading Scheme
và năm kế hoạch kinh doanh khí thải phi công Trung Quốc gồm Thâm Quyền, Thượng
Hải, Bắc Kinh, Quảng Đông và Thiên Tân). Với những thị trường mới, kinh doanh khí
thải của thế giới trị giá khoảng 30 tỉ USD.
Trung Quốc hiện nay là thị trường carbon lớn thứ hai trên thế giới bao gồm 1.115
(MtCO2e),đứng sau EU ETS với 2084 MtCO2e trong năm 2013.
9
Bảng 1. Lượng và giá giao dịch của các thị trường cacbon tại Trung Quốc.
Nguồn: WB
Tính đến ngày 01/12/2014, giá trị thị trường của đề án thí điểm của Trung Quốc đã đạt
536 triệu CNY (64 triệu EUR), và khối lượng giao dịch kết hợp đạt 14,4 MtCO2. Khu
vực thí điểm Hồ Bắc dẫn đầu với thị phần lớn nhất về giá trị thị trường với 148 triệu
CNY và khối lượng giao dịch là 6 MtCO2.
Bảng 2. Thị phần giao dịch trên thị trường tự nguyện năm 2012
Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) và Ecosystem Marketplace.
Năm 2013 chứng kiến sự sụt giảm hàng năm thứ ba liên tiếp trong giá trị của thị trường
carbon trên thế giới, với một sự suy giảm 36% so với mức năm 2012 đến 40 tỉ EUR (56
tỷ USD).
10
Dựa trên tính toán dữ liệu thị trường Carbon, các chương trình kinh doanh khí thải của
EU (EU ETS) cài đặt phát ra 1.584 triệu tấn CO2 vào năm 2014, giảm 4,4% so với năm
trước đó.
Ngày 6/11/2014, theo báo cáo hàng năm của Ban Chấp hành cơ chế phát triển sạch cho
Hội nghị các bên phục vụ tại cuộc họp của các Bên tham gia Nghị định thư Kyoto, tổng
cộng có 7.828 dự án (266 chương trình hoạt động theo cơ chế phát triển sạch (PoA) và
7.562 dự án hoạt động) đã được đăng ký theo CDM ở 108 quốc gia vào cuối của thời kỳ
báo cáo. Khoảng 1.066 dự án khác (114 PoA và 952 dự án hoạt động ) là đang trong quá

trình xác nhận, một bước trước khi trình Hội đồng quản trị để đăng ký. Đối với giảm phát
thải, vào cuối kỳ báo cáo có 1493 tỷ giảm phát thải được chứng nhận (CERs) đã được
ban hành từ 2666 dự án và PoA (34 phần trăm với các dự án đăng kí).
Thị trường cacbon tự nguyện
1. Thị trường carbon tự nguyện có thể lợi thế hơn thị trường CDM đối với bên xây
dựng dự án và do vậy được đưa vào xem xét. Thị trường trao đổi carbon này tồn tại song
song với thị trường chính thức Thị trường
chính thức (Compliance Market) được hình thành và điều tiết bởi các thể chế cắt giảm
carbon quốc tế, quốc gia, khu vực có tính chất bắt buộc, như Nghị định thư Kyoto và hệ
thống thương mại phát thải của Liên minh Châu Âu. Thị trường tự nguyện hoạt động bên
ngoài thị trường chính thống và cho phép các công ty, cá nhân trao đổi carbon trên cơ sở
tự nguyện.
2.Tại thị trường tự nguyện, có một số chứng chỉ tiêu chuẩn carbon tồn tại: như Tiêu
chuẩn Carbon Tự nguyện (VCS), Mức giảm phát thải cộng (+) đã thẩm tra (VER+) và
Tiêu chuẩn vàng (GS). Giá cả và chất lượng của trao đổi carbon phụ thuộc và thay đổi
theo tiêu chuẩn. Nhìn chung, mọi người tin rằng Chứng chỉ carbon có chất lượng cao thì
thu được giá cao hơn và Tiêu chuẩn Vàng GS có tiêu chuẩn cao nhất. Điểm yếu của
chứng chỉ có tiêu chuẩn cao là chú trọng vào giám sát và thẩm tra, ví dụ, giám sát chặt
chẽ và đánh giá lại có thể được yêu cầu ví dụ đánh giá về tính bền vững của chứng chỉ
GS, dẫn đến chi phí giao dịch cao. Hiện nay, có vẻ như GS trở thành tiêu chuẩn thị
trường tự nguyện chủ yếu cho các dự án có mục tiêu bền vững rõ ràng, như khí sinh học
quy mô hộ gia đình.
So sánh thị trường tự nguyện và thị trường chính thống
11
1. Cả hai loại thị trường đều có thuận lợi và bất lợi riêng. Thuận lợi và bất lợi của từng
phương thức phải được đánh giá theo từng dự án cụ thể. Do vậy ta chỉ có thể đánh giá
những thuận lợi và bất lợi chung. Cơ chế CDM UNFCCC có một số bất lợi, không giống
với thị trường tự phát; bao gồm, nhưng không hạn chế những điều sau:
• Không chấp nhận đăng ký hồi tố trong CDM so với thị trường tự nguyện. Đây có thể
là lợi thế của các dựán tự nguyệnđã thực hiện, tuy nhiên kỳ tín dụng sẽ ngắn hơn so

với cùng giai đoạn.
• Dự án CDM yêu cầu nhận được chấp thuận của DNA, các dự án tự nguyện lại không
yêu cầu, cũng được coi là lợi thế của tự nguyện.
• Phương pháp luận CDM thường không đượcáp dụng cho các dựán quy mô nhỏ và rời
rạc, vì bắt buộc dựán phải sử dụng hệ thống giám sát chi phí cao.
• Với tiêu chuẩn tự nguyện, đặc biệt là GS, từng phương pháp luận riêng được xây dựng
(vd: bể khí sinh học quy mô nhỏ, bếp lò cải tiến).
• Nhu cầu tín dụng của các dự án đăng ký sau năm 2012 sẽ thấp và do đó sẽ có giá trị
thấp.
• Các dự án đăng ký trước năm 2013 đã có lợi thế về CDM, giá trung bình của CER cao
hơn so với VER, tuy nhiên giá của VER có sự thay đổi đáng kể và trong một số trường
hợp giá của VER cao hơn so với CER (Hamilton, Sjardin, Shapiro và Marcello, 2009).
• Các chi phí giao dịch trên thị trường tự nguyện có thể thấp hơn so với CDM và ở một
số dự án, giảm phát thải cao hơn do sử dụng các phương pháp tiêu chuẩn tự nguyện.
Chi phí phát triển dành cho tiêu chuẩn tự nguyện như GS hoặc VER+ khan hiếm hơn
so với CDM và theo những điều kiện nhất định, thậm chí theo những điều kiện cao
hơn.
2. Có thể kết hợp một dự án CDM thông thường với một đăng ký tiêu chuẩn GS; việc
này yêu cầu xây dựng thêm tài liệu cho GS, như hộ chiếu GS (đánh giá về bền vững và
không gây hại, kế hoạnh giám sát sự bền vững) và một báo cáo tham vấn bên liên quan.
Chứng chỉ vẫn là CER nhưng giá trị được nâng lên khi nó cũng được GS chứng nhận.
3. Việc xây dựng một dự án Carbon tự nguyện gần giống một dự án CDM, nhìn chung
việc kiểm toán của bên thứ ba là bắt buộc và do một DOE được công nhận thực hiện
đăng ký và thẩm tra. Đánh giá tính bổ sung, chi phí xây dựng dự án gần tương tự nhau
giữa CDM, GS và VER+, nhưng lại thấp hơn cho các tiêu chuẩn như VCS.
4. Xây dựng dự án nên xem xét tài chính carbon bao gồm cả các Tiêu chuẩn khác ngoài
CDM và quyết định dựa trên phân tích tài chính về tiêu chuẩn nào dưới hoàn cảnh nào là
lựa chọn tốt nhất. Quy tắc chung tốt nhất là chọn tiêu chuẩn cao nhất để thu được doanh
thu cao nhất cho khoản đầu tư. Việc kết hợp tiêu chuẩn GS và CDM là tiêu chuẩn cao
nhất hiện nay.

12
VI/ Tình hình mua bán phát thải CO2 ở Việt Nam
Thiết lập và Phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam vì vậy là một con đường phù hợp với
định hướng phát triển chung của đất nước và chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu nhất
định thông qua việc thực hiện Cơ chế Phát triển sạch (CDM) trong khuôn khổ Nghị định thư
Kyoto.
Thành lập cơ quan có thẩm quyền quốc gia về CDM: DNA của Việt Nam được thành lập
từ tháng 3/2003 là Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Dự án CDM đầu tiên được phê duyệt: Tháng 3/2008 dự án “Thu hồi và sử dụng khí
đồng hành mỏ Rạng Đông” là dự án CDM đầu tiên của Việt Nam được cấp chứng chỉ
giảm phát thải (CERs) với 4.486.500 CERs ở giai đoạn đầu.
Lĩnh vực thực hiện dự án môi trường CDM đầu tiên tại Việt Nam: dự án "Thu hồi và
sử dụng khí thải tại bãi rác Nam Sơn-Hà Nội", đã được khởi công vào ngày 03/06/2009.
Đây là dự án môi trường đầu tiên tại Việt Nam theo cơ chế phát triển sạch (CDM), Dự án
được thực hiện theo cơ chế CDM của Nghị định thư Kyoto và tái sử dụng khí thải để sản
xuất điện năng. Dự án xây dựng mô hình sản xuất điện có hiệu quả từ nguồn khí thải thu
được ở bãi rác để tạo ra nguồn năng lượng sạch.
Với thời gian thực hiện từ 2009-2016, lượng khí thải thu được từ bãi rác ước lên tới gần
2,3 triệu tấn CO2.
Theo thống kê, hiện nay Việt Nam chiếm 3,27% số dự án CDM được đăng ký trên thế giới,
Fnh đến ngày 11/11/2012, đứng thứ tư, chỉ sau Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil.
Số liệu đến tháng 11/2012 ghi nhận số dự án CDM của Việt Nam được Ban Chấp hành
Quốc tế CDM (EB) công nhận là 165, với tổng lượng giảm phát thải trong thời kỳ Fn dụng là
80.728.254 tấn CO2. Các dự án CDM được công nhận chủ yếu là từ lĩnh vực năng lượng, thu hồi
khí thải, xử lý nước thải, rác thải… Đến tháng 10 năm 2012, Việt Nam đã được EB cấp
7.060.089CER (chứng chỉ giảm phát thải từ CDM) , xếp thứ 9 trên thế giới về số lượng CER.
Ngày 31/10/2012, Việt Nam đã có 160 dự án được EB công nhận là dự án CDM với tổng
lượng KNK được giảm khoảng 76 triệu tấn CO2e trong thời kỳ Fn dụng và 4 Chương trình hoạt
động (PoA) được EB công nhận.Với 160 dự án được EB công nhận, đăng kí là dự án CDM và với
tổng lượng 7.203.167 CERs do EB cấp cho Việt Nam, hiện nay Việt Nam được xếp thứ 4 trên thế

giới về số lượng dự án CDM được EB công nhận, đăng kí và xếp thứ 9 trên thế giới về số lượng
CERs được EB cấp. Việt Nam xếp thứ 2 trên thế giới về số lượng PoA, đứng đầu là Ấn Độ với 5
PoA trong tổng số 44 PoA được EB công nhận.
Tính đến tháng 6/2014, Việt Nam có 253 dự án Cơ chế Phát triển sạch (CDM); 11
Chương trình hoạt động theo CDM (PoA) được đăng ký; 10.068.987 Chứng chỉ giảm
phát thải được chứng nhận (CER) được Ban chấp hành quốc tế về CDM (EB) cấp thông
13
qua các hoạt động CDM.
Tổng lượng khí nhà kính giảm được của 253 dự án CDM khoảng 137 triệu tấn CO2
tương đương trong thời kỳ tín dụng.
Trên thế giới, Việt Nam được xếp thứ 4 về số lượng dự án CDM được đăng ký và
xếp thứ 11 về lượng CER được cấp.
Trong số các dự án CDM nói trên, dự án thuộc lĩnh vực năng lượng chiếm 88,19%,
xử lý chất thải 9,96%, trồng rừng và tái trồng rừng 0,37% và các loại dự án khác 1,48%.
Lợi nhuận từ bán chứng chỉ giảm phát thải (CERs):
Việc mua bán chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải (CERs) là một loại hàng
hoá đặc biệt đang manh nha phát triển tại Việt Nam trong một vài năm gần đây. Các
thương vụ này không chỉ giúp cho việc bảo vệ môi trường được tốt hơn mà còn mang lại
lợi nhuận trực tiếp cho các doanh nghiệp. Một số dự án đi tiên phong trong việc sản xuất
sạch và chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải (CERs) tại Việt Nam như: Dự án thu
gom và sử dụng khí đồng hành tại mỏ Rạng Đông tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đã được Quỹ
Bảo vệ môi trường Việt Nam (Quỹ BVMTVN) trao Giấy Chứng nhận đăng ký Chứng chỉ
giảm khí phát thải (CERs) vào tháng 07/2011. Dự án sẽ sử dụng khí đồng hành từ quá
trình khai thác dầu để sản xuất điện, khí hóa lỏng. Chi phí dự án là 73 triệu USD, dự kiến
sẽ giảm 6,47 triệu tấn CO2 trong thời gian 10 năm. Nếu tính theo giá thị trường chuyển
nhượng chứng chỉ giảm phát thải (CERs) tại châu Âu hiện nay khoảng 24 Euro/1 tấn
CO2 thì dự án này mang lại cho các bên tham gia một khoản thu khoảng 202 triệu USD.
Một dự án nữa có thể kể đến trong lĩnh vực này là Dự án Nhà máy Sản xuất vật liệu xây
dựng từ xỉ lò điện hồ quang tại KCN Phú Mỹ 1 củaCông ty TNHH Vật liệu Xanh với sản
phẩm gạch không nung từ xỉ thép; nhà máy có công suất 20-40 triệu viên/năm thuộc danh

mục dự án được Liên Hợp Quốc xem xét, phê duyệt theo chương trình sản xuất sạch
CDM. Theo dự kiến mỗi năm dự án này sẽ giảm được khoảng 7 ngàn tấn CO2, ngoài
việc làm tốt việc bảo vệ môi trường, việc chuyển nhượng chứng chỉ giảm khí phát thải
(CERs) cũng sẽ đem về một khoản thu khoảng 100.000USD
Các dự án CDM được phê duyệt gần đây:
Được EB đăng ký là dự án CDM từ ngày 12/3/2013, dự án Thu hồi và tận dụng
nhiệt thải Nghi Sơn,tại Tỉnh Thanh Hóa, tổng tiềm năng giảm phát thải (tCO2 tương
đương) là 539.930/10 năm (2014-2024) .
Dự án Thu hồi khí mêtan và sử dụng khí biogas tại nhà máy sản xuất tinh bột sắn
Đăk Tô của APFCO, tại Tỉnh Kon Tum, tổng tiềm năng giảm phát thải (tCO2 tương
14
đương) là 226.629/10 năm (2013-2023) được EB đăng ký là dự án CDM từ ngày
12/3/2013.
23/9/2014, Dự án thủy điện Đăk Rông 4, lượng giảm thải của dự án là 38.106 tấn
CO2 tương đương mỗi năm.
02/04/2014, dự án mở rộng công suất sản xuất cà phê từ 4000 MT / năm lên 12.000
tấn / năm, dự án sẽ giảm 33.278 tấn CO2 tương đương mỗi năm.
VII/ Tiềm năng phát triển thị trường tại Việt Nam
Sự cần thiết của việc phát triển thị trường mua bán sự phát thải nhà kính đối với
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập:
Việt Nam đã tham gia Nghị định thư Kyoto, lượng thải còn dư thừa→tranh thủ vốn,
công nghệ từ các nước phát triển. Trong điều kiện hội nhập và mở rộng quan hệ quốc tế,
Việt Nam đã tham gia vào Hiệp định khung của Liên Hợp quốc và phê chuẩn Nghị định
thư Kyoto, việc tham gia mua-bán phát thải là cách tốt nhất để thực hiện các cam kết
quốc tế này. Nước ta đang hội nhập tích cực vào nền kinh tế toàn cầu, nên cần phải đóng
góp vào các nỗ lực giải quyết các vấn đề lớn như biến đổi khí hậu.
a/ Sự cần thiết của việc phát triển thị trường mua bán sự phát thải nhà kính đối với
Việt Nam trong giai đoạn hội nhập
Việt nam là một nước đang phát triển, đã tham giavào nghị định thư Kyoto,
lượng thải còn dư thừa sẽ giúp Việt Nam tranh thủ vốn và công nghệ từ các nước phát

triển.
Trong điều kiện hội nhập và mở rộng quan hệ quốc tế cầ phải thực hiện các
cam kết và quy định chung của các tổ chức quốc tế và khu vực trong đó có vấn đề môi
trường và biến đổi khí hậu, do đó tham gia vào mua-bán phát thải là cách tốt để thực hiện
cam kết
Việt Nam đang hội nhập tích cực vào kinh tế tòan cầu, cần đóng góp vào các
nỗ lực giaỉ quyết vấn đề biến đổi khí hậu hay tăng hiệu ứng nhà kính.
b/ Thị trường cacbon tại Việt Nam nhiều tiềm năng:
Việt Nam nay mới chỉ tham gia thị trường carbon với tư cách nhà cung cấp
chứng chỉ giảm thải. Theo ước tính, Việt Nam có thể thu được lợi ích kinh tế không nhỏ
từ các dự án CDM.
Việt Nam được đánh giá là một trong 10 nước có tiềm năng nhất về CDM và
đây là cơ hội lớn. Hiện nay, các tổ chức cũng như các nước có nhu cầu mua CERs lớn
15
nhất là Ngân hàng Thế giới, các công ty của Châu Âu, Nhật Bản. Đây cũng là một trong
những thị trường có nhu cầu lớn về CERs.
Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát riển các dự án CDM, nhất là các ngành
Năng lượng tái tạo (thủy điện và gió), nông nghiệp, lâm nghiệp. Việt Nam đang tiến hành
nghiên cứu tiềm năng năng lượng gió, và dự án xây dựng trạm phong điện đã có trong
danh mục các dự án CDM.
Tính đến ngày 4/3/2013, Việt Nam có 233 dự án được CDM-EB cho đăng ký
là dự án CDM, trong đó có 22 dự án CDM được CDM-EB phê duyệt.
Điển hình nhất tại Việt Nam phải kể đến Dự án tăng hiệu quả sử dụng năng
lượng trong lĩnh vực nồi hơi công nghiệp và Dự án thu gom khí đồng hành mỏ Rạng
Đông của nhà thầu JVPC (Nhật Bản).Kết quả cụ thể thu được từ dự án này là giảm được
khoảng 150 nghìn tấn CO2 mỗi năm nhờ tăng được hiệu suất trung bình của nồi hơi công
nghiệp từ 45% lên 60%.
Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) là Cơ quan Thẩm quyền Quốc gia
(DNA) chịu trách nhiệm phê duyệt các dự án ở cấp địa phương sau khi những dự án này
đã đáp ứng được những tiêu chí về phát triển bền vững ở cấp độ quốc gia.


CHƯƠNG III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I/ KẾT LUẬN
CDM là cơ chế mềm dẻo trong nghị định thư Kyoto. Việt Nam đã nhận được sự đầu
tư tài chính của các nước phát triển như Australia,Đan Mạch hay của các tổ chức Quốc tế.
Tuy nhiên Việt Nam cũng nên tính đến các thử thách trong tương lai khi phải thực hiện
cam kết của nghị định thư. Bài viết đã chỉ ra tương quan của 3 yếu tố: lượng khí thải cho
phép trong tương lai, biến động của giá thành CERs, tính bất biến của các dự án đến giá
thành của các dự án CDM. Từ đó có thể xác định được số lượng dự án CDM thực thi và
mức độ đền bù trong trường hợp thực thi nhiều dự án CDM so với định mức cho trước.
Số lượng các dự án CDM của Việt Nam tương đối nhiều, nhưng chỉ mới một phần nhỏ
được hội đồng CDM quốc tế phê chuẩn cho thực hiện. Tính đến những thách thức trong
tương lai sẽ giúp chúng ta có hướng đúng trong việc xác định thứ tự ưu tiên các dự án
thực hiện trước, giá thành thực tế của các dự án CDM. Đó sẽ là cơ sở để Việt Nam đi lên
trên con đường phát triển bền vững.
II/ KIẾN NGHỊ
Cần nhanh chóng xây dựng cơ chế chính sách và giải pháp quản lý để thu hút các
nguồn lực tham gia đầu tư dự án phát triển năng lượng sạch.
16
Về mặt thị trường ở Việt Nam việc mua bán Các-bon thông qua giảm thải khí nhà
kính từ các nhà máy điện sử dụng nguồn năng lượng sạch, đặc biệt là các dựu án thủy
điện còn khá mới mẻ. Nhà nước phải phổ biến rộng rãi hơn, cung cấp nhiều thông tin hơn
trong xã hội để họ có thể tiếp cận.
Có giải pháp tiết kiệm năng lượng trong giao thông cũng như trong cuộc sống người
dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Hảo (2012), Việt Nam với việc thực hiện điều ước quốc tế về biến đổi
khí hậu, hướng tới hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế phát triển sạch và
17

xuất khẩu chứng nhận giảm phát thải khí nhà kính, Luận văn Đại học Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
2. />%A3i_Cacbon,ᄃ truy cập ngày 20/3/2015.
3. />tren-the-gioi-va-lien-he-voi-viet-nam-32445/,ᄃ truy cập ngày 20/3/2015.
4. truy cập ngày 20/3/2015.
5. />post131762.html, truy cập ngày 22/3/2015.
6. />CDM/45/10906293.epi, truy cập ngày 22/3/2015.
18
1

×