Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Câu phủ định tiếng Hán trong sự đối chiếu với tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.61 KB, 105 trang )

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

LÝ BẢO MỴ


CÂU PHỦ ĐỊNH TIẾNG HÁN
TRONG SỰ ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60220240

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Hùng Việt



Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***

LÝ BẢO MỴ


CÂU PHỦ ĐỊNH TIẾNG HÁN
TRONG SỰ ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT



Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60220240

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Hùng Việt



Hà Nội – 2015

3



LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành ngoài sự cố gắng của bản thân còn có sự
giúp đỡ của các thầy cô, bạn bè… Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến thầy giáo PGS.TS Phạm Hùng Việt, người đã tận tình giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian hoàn thành đề tài.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo khoa ngôn ngữ trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã nhiệt tình giảng dạy, cung cấp cho tôi
những vấn đề lí luận làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đã đóng góp những ý kiến
quý báu cho luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân đã động viên, tạo điều kiện để
tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 1 tháng 1 năm 2015
Tác giả luận văn

Lý Bảo Mỵ








Danh mục các chữ viết tắt
A: Tính từ
4
BN: Bổ ngữ
C: Bổ ngữ
CN: Chủ ngữ
CTCP: Cấu trúc cú pháp
CTNBH: Cấu trúc nghĩa biểu hiện
DT: Danh từ
ĐT: Động từ
N: Danh từ, những sự vật có liên quan
Neg.: Phủ định
NP: Danh từ vị ngữ
O: Động từ tân ngữ
P: Vị từ
PĐ: Phủ định
Pron: Đại từ
S: Chủ ngữ
TPĐ: Từ phủ định
Tr.T: Trạng từ
V: Động từ

VP: Vị ngữ, động từ đoản ngữ













Danh mục phiên âm từ phủ định tiếng Hán
trong luận văn
5
TT chữ Hán Phiên âm TT Chữ Hán Phiên âm
1

bù 13
不是
bú shì
2

méi 14
没有
méi yǒu
3


bié 15
什么
shén me
4

nǎ 16

shéi
5
未必
wèi bì 17
才怪
cái guài
6
有约
yǒu yuē 18


7

béng 19


8

wèi 20

fēi
9


xīu 21


10

xū 22

wǎng
11
枉自
wàng 23
白白
bái bái
12
徒然
tú rán 24
枉然
wǎng rán







Mục lục
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
6
Danh mục các từ viết tắt

Danh mục phiên âm từ phủ định tiếng Hán trong luận văn
Mục lục
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài 01
2. Lịch sử vấn đề 02
3. Mục đích và nghiện vụ nghiên cứu 04
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 04
5. Phương pháp nghiên cứu 05
6. Đóng góp của luận văn 05
7. Cấu trúc của luận văn 05
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Phủ định xét về mặt lô-gích học 06
1.1.1 Khái niệm phủ định trong Lô-gích học nói chung 06
1.1.2 Khái niệm phủ định trong lô-gích toán 06
1.2 Một vài ý kiến tổng quan về việc nghiên cứu câu phủ định trên quan điểm
ngôn ngữ học 07
1.2.1 Ký hiệu phủ định trong ngôn ngữ 08
1.2.2 Sự không tương ứng giữa khẳng định và phủ định trong ngôn ngữ 09
1.3 Một số quan điểm của các nhà nghiên cứu Trung Quốc về câu phủ định 14
1.3.1 Quan điểm về mặt hình thức và ngữ nghĩa của ký hiệu phủ định “不” và
“没” 15
1.3.2 Quan điểm về tính chủ quan và tính khách quan của ký hiệu phủ định
“不” và “没” 16
1.3.3 Quan điểm về phủ định trung tính và phủ định về “thời hoàn thành” của
ký hiệu phủ định “不” và “没” 17
1.3.4 Quan điểm về tính chia tách và tính chắp dính liên tiếp của ký hiệu phủ
định “不” và “没” 18
1.3.5 Quan điểm về phủ định cấm của ký hiệu phủ định “别” 19
1.4 Một số quan điểm của các nhà nghiên cứu Việt Nam về câu phủ định 20

1.4.1 Về khẳng định và phủ định trong tiếng Việt 21
7
1.4.2 Về cách bày tỏ ý phủ định trong tiếng Việt 22
1.5 Tiểu kết 23
CHƯƠNG II ĐẶC TRƯNG CẤU TRÚC CỦA CÂU PHỦ ĐỊNH
TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG Việt
2.1 Một số nguyên tắc cần bàn luận 24
2.11 Phạm vi nghiên cứu của cấu trúc phủ định trong luận văn 24
2.1.2 Câu phủ định miêu tả và câu phủ định bác bỏ 24
2.2 Đặc trưng cấu trúc của câu phủ định tiếng Hán 26
2.2.1 Các phương thức thể hiện câu phủ đinh 26
2.2.2 Loại hình của câu phủ định 27
2.2.3 Sự phân bố của các từ phủ định trong tiếng Hán hiện đại 33
2.3 Những đặc trưng cấu trúc của câu phủ định tiếng Việt 54
2.3.1 Các phương thức thể hiện câu phủ định 54
2.3.2 Phân loại của câu phủ định 55
2.3.3 Sự phân bố của các từ phủ định trong tiếng Việt hiện đại 57
2.4 Tiểu kết 69
CHƯƠNG III ĐỐI CHIẾU CÂU PHỦ ĐỊNH TIẾNG HÁN VÀ
TIẾNG VIỆT
3.1 Sự tương đồng và khác biệt cơ bản về phương thức phủ định giữa tiếng Hán
và tiếng Việt 71
3.1.1 Sự tương đồng trong phương thức phủ định 71
3.1.2 Sự khác nhau về phương thức phủ định 72
3.2 Sự tương đồng và khác biệt cơ bản về cấu trúc phủ định giữa tiếng Hán và
tiếng Việt 73
3.2.1 Sự tương đồng và khác biệt về cấu trúc phủ định giữa “不” và “không 73
3.2.2 Sự tương đồng và khác biệt về cấu trúc phủ định giữa “没” và
“chẳng/chả” 80
3.2.3. Cấu trúc và từ phủ định đặc biệt “别” với từ phủ định “đừng” trong tiếng

Việt 85
3.3.Tiểu kết 90
KẾT LUẬN
91

8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
93




















MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

9
Câu phủ định là loại câu thường dùng trong ngôn ngữ. Các nhà nghiên cứu
đã đưa ra một số tiêu chuẩn để phân biệt câu phủ định với các loại câu khác,
Tựu trung lại, có bốn tiêu chuẩn như sau: tiêu chuẩn về hình thức của câu; ý
nghĩa của câu; hình thức và ý nghĩa của cấu trúc câu; và cách sử dụng ngữ khí
của câu.
Câu phủ định là sự thể hiện tư duy của con người, nó cũng là hình thức
phán đoán về mặt lô-gích trong nhận xét sự vật hiện tượng trong sinh hoạt đời
sống của con người. Câu phủ định là sự phán đoán phủ định trái ngược với
phán đoán khẳng định về mặt ngữ nghĩa, bất kể ở ngôn ngữ nào cũng có sự trái
ngược như vậy. Ngoài đặc tính này, để xác định một cấu trúc phủ định , cần
phải căn cứ vào tiêu chí là trong câu có từ phủ định hay không và về nội dung
thì nó phủ định thành phần nào trong câu.
Nói chung, cấu trúc phủ định thuộc về phạm trù ngữ pháp, và mỗi một
ngôn ngữ sẽ có một hệ thống ngữ pháp khác nhau. Nhà ngôn ngữ học Trung
Quốc Cao Danh Khải viết trong cuốn Bàn về ngữ pháp tiếng Hán (
《汉语语法
论》
)[23] cho biết, để biểu thị cấu trúc phủ định, một số ngôn ngữ chỉ thay đổi
về thanh điệu của những từ nòng cốt, như từ “yêu” trong tiếng Bantu châu Phi
là “tỏnda”, nhưng “không yêu” là “tonda”; có một số ngôn ngữ thì biểu thị phủ
định bằng cách thêm phụ tố cho từ, như từ “tôi mặc” trong tiếng Lithuania là
“neszù”, nhưng từ “neneszù” biểu thị “tôi không mặc”; tiếng Hán cũng giống
với tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức, đều dùng một thành phần ngữ pháp độc
lập (“不” hoặc “not” v.v) để biểu thị cấu trúc phủ định. [ 3,tr 432.]
Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập không biến hình, cũng giống như tiếng
Hán, cấu trúc phủ định trong câu cũng thường dùng những từ phủ định riêng để
biểu thị. Tuy vậy, tiếng Hán và tiếng Việt vẫn có rất nhiều khác biệt về mặt cấu
trúc ngữ pháp của câu, cho nên trong cấu trúc phủ định của hai ngôn ngữ này,
bên cạnh những đặc điểm giống nhau còn có những điểm khác biệt. Sự giống

nhau và khác nhau đó thể hiện như thế nào ? Khi người Việt học tiếng Hán hay
người Trung Quốc học tiếngViệt, thì về phần phủ định của câu, cần phải lưu ý
những gì, đó chính là những vấn đề mà luân văn của chúng tôi quan tâm , và đó
cũng là lý do để chúng tôi chọn đề tài này cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước đến nay, cấu trúc phủ định tiếng Hán đã được rất nhiều nhà ngôn
10
ngữ Trung Quốc nghiên cứu và trình bày trong các công trình nghiên cứu ngôn
ngữ tiếng Hán. Cuốn sách ngữ pháp đầu tiên của Trung Quốc Mã thị văn thông
(
《马氏文通》
)[40] đã bắt đầu có sự nghiên cứu cấu trúc phủ định. Trong suốt
một thế kỷ sau cũng có nhiều nhà ngôn ngữ tiếp tục tiến hành việc nghiên cứu
cấu trúc phủ định, đặc biệt từ thập kỷ 80 thế kỷ 20 đến nay, các nhà ngôn ngữ
học Trung Quốc đã và đang tập trung nghiên cứu về từ - câu - cấu trúc của
những thành phần phủ định trên các bình diện khác nhau.
Trong tiếng Hán, Từ nòng cốt của cấu trúc phủ định chủ yếu gồm ba từ
“不” “没” “别”. Vậy ba từ này có sự phân bố ra sao? đặc điểm ngữ pháp, ngữ
nghĩa và cách dùng của chúng như thế nào? Những vấn đề trên đã thu hút được
nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực như ngữ pháp truyền
thống, ngữ pháp hình thức hay ngữ pháp chức năng v.v . Các nhà ngôn ngữ học
như Thompson [58] cho rằng từ phủ định “没” chỉ dùng cho phủ định những sự
kiện đã hoàn thành; Lô Giáp Văn [32] và Trần Thuỳ Dân [22] từ nhiều góc độ
tìm hiểu sự khác biệt về ý nghĩa ngữ pháp của hai từ phủ định “不” và “没”;
Ernst [54] và Huang [56] đưa ra một khái niệm mới là cấu trúc chắp dính của từ
phủ định “不”, còn Lee và Pan [57] thì đưa ra cấu trúc nòng cốt của từ này; Lã
Thúc Tương [37][38] cho rằng, hai từ phủ định “不” và “没” thể hiện sự khu
biệt về chủ quan và khách quan của câu; Lin [59] cho rằng, sự khác biệt của hai
từ “不” và “没” thể hiện ở chỗ sự lựa chọn khác nhau về đối thể; còn La Hiểu
Anh [42] thì đi sâu tìm hiểu về ý nghĩa ngữ pháp của từ phủ định “别”, v.v.

Như vậy, việc nghiên cứu về câu phủ định và từ phủ định trong tiếng Hán
đã được triển khai từ rất lâu, theo nhiều hướng và đã thu được những kết quả
khả quan. Đây chính là thuận lợi cơ bản để chúng tôi có điều kiện tiếp nhận các
kết quả đã đạt được, tổng hợp các ý kiến, tiến hành việc so sánh đối chiếu với
câu phủ định và từ phủ định trong tiếng Việt.
Cũng như đối với việc nghiên cứu cấu trúc phủ định trong tiếng Hán,
không ít nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã có những nghiên cứu về phủ định
trong tiếng Việt và họ cũng đưa ra những nhận định về cấu trúc này. Nhà ngôn
ngữ học Trần Trọng Kim là người bước đầu khảo sát và nghiên cứu cấu trúc
phủ định trong tiếng Việt, ông cũng từng định nghĩa về câu phủ định trong
11

“Việt Nam văn phạm” như sau: “Câu phủ định là câu có một tiếng phủ định
trạng từ như: không, chẳng, chớ, đừng, chưa v.v Đặt trước tiếng động từ hay
tiếng tính từ”, “Cái nghĩa phủ định của những câu phủ định phải tùy theo cái
nghĩa của tiếng phủ định trạng từ dùng ở trong câu.” [9, tr32]
Bên cạnh đó, nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo cũng có sự trình bày về
cấu trúc phủ định trong tiếng Việt, ông đã nghiên cứu phủ định và có bài viết
đăng trên “Tạp chí Ngôn ngữ” số 8, năm 1999 với tiêu đề là “Nhận định tổng
quát, phủ định tổng quát, phủ nhận tính tổng quát của nhận định tổng quát và
phủ định tổng quát”, ông cho rằng: “Phủ định tổng quát là một nhận định phủ
nhận sự tồn tài của mọi sự vật hay mọi hoàn cảnh làm Đề hay làm Tham tố cho
mọi sự tình được biểu đạt trong câu hữu quan. Khi Đề của câu là đối tượng của
sự phủ định tổng quát, câu sẽ có hình thức của một câu tồn tại phủ định Khi
đối tượng của sự phủ định tổng quát là một bộ phận của phần Thuyết, câu sẽ có
hình thức của một câu phủ định bình thường.” Về định nghĩa của phủ nhận tính
tổng quát, ông đưa ra nhận định sau: “là một hành động ngôn từ (hành vi ngôn
ngữ) có tính siêu ngôn ngữ được biểu đạt 1) bằng một tập hợp vị từ hình thái
“không/ chẳng phải (là)”, đặt trước một câu nhận định tổng quát, hay đặt ngay
trước ngữ đoạn cần phủ định trực tiểp trong câu ấy - có thể có tiểu tố “đâu” ở

cuối câu (dạng thức “trần thuật”); hoặc 2) bằng tổ hợp tình thái “có phải (là)”
đặt trước cho câu có nhận định tổng quát có tiểu tố tình thái “đâu” mở đầu hay
kết thúc toàn câu (dạng thức “nghi vấn không chính danh”) [7]
Ngoài ra, còn có rất nhiều nhà ngôn ngữ như Diệp Quang Ban, Nguyễn
Kim Thản, Nguyễn Đức Dân v.v cũng đã xác định cấu trúc phủ định cơ bản
trong tiếng Việt phải có các từ hoặc những yếu tố phủ định, tầm tác động của
yếu tố phủ định trong câu v.v
Tuy vậy, sự so sánh đối chiếu câu phủ định giữa hai ngôn ngữ Hán và Việt
vẫn là một lĩnh vực mới, ít được chú ý. Những vấn đề đặt ra là: về cấu trúc ngữ
pháp, ý nghĩa biểu đạt và cách thức sử dụng câu phủ định và từ phủ định giữa
hai ngôn ngữ này có gì giống nhau và có gì khác nhau? Những người học tiếng
cần chú ý những gì trong khi sử dụng câu phủ định của hai ngôn ngữ này?
Những điều thắc mắc này chúng tôi rất muốn tìm hiểu và làm rõ, cũng như các
học giả hay những người đang học tiếng Hán, tiếng Việt đang quan tâm chú ý.
Trong luận văn này chúng tôi sẽ dựa trên các công trình nghiên cứu đã có
của các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc cũng như Việt Nam để tìm hiểu và
nghiên cứu thêm những vấn đề này.
12
3. Mục đích và nghiện vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn này đặt ra các mục đích sau:
Trên cơ sở trình bày câu phủ định và những từ phủ định tiêu biểu trong
tiếng Hán và tiếng Việt hiện đại, tiến hành việc so sánh cấu trúc phủ định giữa
hai ngôn ngữ để tìm ra những tương đồng và khác biết giữa hai ngôn ngữ này
và tổng hợp lại những yếu tố khu biệt về cách thức sử dụng câu phủ định của
tiếng Hán và tiếng Việt.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Trình bày những nét tổng quát về câu phủ định và những từ phủ định tiêu
biểu trong tiếng Hán hiện đại.

- Trình bày những nét tổng quát về câu phủ định và những từ phủ định tiêu
biểu trong tiếng Việt hiện đại.
- So sánh đối chiếu câu phủ định của hai ngôn ngữ này, tìm ra những
tương đồng và khác biệt để góp phần vào việc nghiên cứu câu phủ định của hai
ngôn ngữ, tạo thuận lợi cho người học tiếng Hán hay học tiếng Việt khi gặp
những câu phủ định .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là câu phủ định của hai ngôn ngữ:
tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt hiện đại.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn này là những câu phủ định của tiếng
Hán và tiếng Việt được dẫn từ một số tác phẩm văn học của Trung Quốc và
Việt Nam. Trong khuôn khổ của một luận văn, tác phẩm văn học được sử dụng
để khảo sát là những truyện ngắn, tiểu thuyết của nhà văn Lỗ Tấn, Chu Tự
Thanh ở Trung Quốc và một số phiên bản dịch sang tiếng Việt của hai nhà văn
này. Về ngữ liệu tiếng Việt, luận văn sử dụng một số tác phẩm cùng thời kỳ của
hai nhà văn Việt Nam là Anh Đức và Nam Cao.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện ngiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả - phân tích: Được sử dụng để miêu tả các dạng cấu
13
trúc phủ định trong tiếng Hán và tiếng Việt, đồng thời phân tích các ví dụ được
dẫn từ những tác phẩm văn học của Trung Quốc và Việt Nam. Trên cơ sở miêu
tả, phân tích, chúng tôi sẽ đi đến những đặc điểm chính của câu phủ định trong
tiếng Hán và tiếng Việt.
- Phương pháp thống kê - phân loại: Được sử dụng để thống kê cấu trúc
câu phủ định được dẫn từ những tác phẩm văn học nổi tiếng Trung Quốc và
Việt Nam, thống kê số lượng sử dụng câu phủ định, tỷ lệ sử dụng các yếu tố

phủ định trong tác phẩm văn học được dẫn, đồng thời phân loại câu phủ định
về các mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Được sử dụng trong chương cuối để so
sánh đối chiếu các kiểu câu phủ định giữa tiếng Hán và tiếng Việt nhằm tìm ra
những điểm tương đồng và khác biệt của kiểu câu này trong hai ngôn ngữ .
6. Đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn sẽ đóng góp cho việc nghiên cứu câu phủ định
trong tiếng Hán và xác định các điểm tương đồng cũng như sự khác biệt về câu
phủ định và từ dùng để phủ định trong tiếng Hán và tiếng Việt.
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở kết quả đạt được, luận văn sẽ góp phần giúp
cho những người học tiếng Hán hay tiếng Việt có thêm sự hiểu biết về câu phủ
định và có thể sử dụng đúng loại câu này trong ngôn ngữ đang học.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
CHƯƠNG I Cơ sở lý thuyết
CHƯƠNG II Đặc điểm cấu trúc của câu phủ định tiếng Hán và tiếng Việt
CHƯƠNG III Đối chiếu câu phủ định tiếng Hán và tiếng Việt





CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Phủ định xét về mặt lô-gích học
1.1.1 Khái niệm phủ định trong Lô-gích học nói chung
14
Từ xưa đến nay, phủ định đã là một vấn đề được các nhà ngôn ngữ học và
lô-gích học cùng quan tâm chú ý. Từ góc nhìn của một mệnh đề lô-gích, thì phủ
định có đặc tính để xem xét và làm thay đổi một mệnh đề có đúng hay không.
Mệnh đề gồm có hai mặt là mệnh đề khẳng định và mệnh đề phủ định

tương ứng của nó, và trong hai mệnh đề này chắc chắn sẽ có và chỉ có một
mệnh đề đúng, quy luật này được gọi là quy luật của mâu thuẫn. Nếu tiến hành
việc phủ định của một mệnh đề phủ định, thì chúng ta sẽ có một mệnh đề
khẳng định tương ứng, và đây chính là quy luật phủ định của phủ định. Trong
trường hợp này, khẳng định với phủ định tương ứng với nhau. Nhà lô-gích học
Frege cho rằng: mỗi một tư tưởng và cách suy nghĩ đều có một tư tưởng mâu
thuẫn trái ngược với tư tưởng vốn còn đó. [26,tr172]
1.1.2 Khái niệm phủ định trong lô-gích toán
Với mệnh đề trong lô-gích toán - một phân ngành của lô-gích học thường
dùng số 1 hay số 0 biểu thị sự đúng sai của mệnh đề: mệnh đề có giá trị chân lý
tức mệnh đề đúng được đánh dấu bằng số 1, ngược lại, mệnh đề không có giá
trị chân lý tức mệnh đề sai được đánh dấu bằng số 0. Thì ở trong phép phủ định
của lô-gích toán, nếu phủ định của một mệnh đề “a” , thì ký hiệu của phép phủ
định này là “-a”, hãy xem bảng giá trị chân lý của phép phủ định trong lô-gích
toán:
Bảng chân lý của phép phủ định [62]
Mệnh đề khẳng định Mệnh đề phủ định
a -a
1 0
0 1
Ví dụ:
1) Nếu mệnh đề:
a = “Đứa bé ấy chính là Nhuận Thổ.” [109]
-a = “Đứa bé ấy không phải là Nhuận Thổ.”
Với trường hợp này a=1, -a = 0.
2) Nếu mệnh đề:
a = “Dầu xăng là loại chất lỏng được sử dụng trong việc cứu hoả.”
-a = “Dầu xăng không phải là loại chất lỏng được sử dụng trong việc cứu
hoả.”
Với ví dụ này, a = 0, -a =1.

Như vậy, trong lô-gích toán của sự phủ định, trong hai mệnh đề chỉ có một
15
mệnh đề đúng, tức mệnh đề a đúng (hoặc sai) thì mệnh đề -a sai (hoặc đúng).
Trong ngôn ngữ thường dùng, mối quan hệ giữa cấu trúc khẳng đỉnh của
câu với cấu trúc phủ định của câu có thể gọi là mối liên hệ chủ yếu của mâu
thuẫn (contradictory), tức là hai dạng câu - câu khẳng định và câu phủ định của
cùng một mệnh đề không thể hoàn toàn đúng, cũng không thể hoàn toàn sai; và
ngược lại, chúng có thể có mối quan hệ tương phản (contrary), tức câu khẳng
định và câu phủ định của cùng một mệnh đề tuy không thể hoàn toàn đúng,
nhưng chúng lại có thể hoàn toàn sai.
Sự phủ định trong ngôn ngữ và sự phủ định trong lô-gích tuy đều là
phạm trù quan trọng của hoạt động giao tiếp và cách phản ánh thế giới khách
quan của con người cũng như việc nhận thức thế giới, nắm bắt thông tin hay
bày tỏ tình cảm cá nhân v.v và tuy chúng có những điểm tương đồng như trên,
nhưng chúng cũng có sự khác biệt: ngôn ngữ là công cụ giao lưu về tư tưởng
hay sự suy nghĩ của con người, ngoài việc chịu ảnh hưởng và giới hạn của thế
giới khách quan ra, còn chịu sự hạn chế của những điều kiện ngữ dụng như đối
tượng giao tiếp, bối cảnh nhận thức của con người, ngữ cảnh và nội dung trong
giao tiếp, mục đích của giao tiếp v.v.
1.2 Một vài ý kiến tổng quan về việc nghiên cứu câu phủ định
trên quan điểm ngôn ngữ học
Trong giao tiếp hàng ngày, giữa mỗi một cá thể con người bất kể có sự
khác biệt gì về chủng tộc, màu da hay địa vị xã hội v.v, đều có nhu cầu phủ
nhận và bác bỏ những quan điểm hay ý kiến mà mình không chấp nhận trong
những phát ngôn do người đối thoại đưa ra. Vì vậy, với tư cách là một trong
những phạm trù ngôn ngữ, tính phủ định thực sự là một thuộc tính chung của
tất cả mọi ngôn ngữ trên thế giới.
So với các phạm trù ngôn ngữ khác, cấu trúc phủ định không thể phân tích
theo hướng ngữ nghĩa dưới góc độ tự nhiên, vì phủ định không có dạng quá
khứ hay dạng tương lai về mặt ngữ pháp; phủ định cũng không có thuộc tính

âm - dương; về số lượng thì phủ định cũng không có số nhiều hay số ít, chẳng
hạn cấu trúc phủ định trong tiếng Anh cũng vậy, nó chỉ có dạng “no”, “not” v.v
chứ không có dạng thêm phụ tố “s/es” làm số nhiều vào các từ phủ định thành
“noes” hay “nots” để biểu thị phủ định nhiều lần.
Vì vậy, từ góc độ trên chúng ta thấy rằng, bất kể ngôn ngữ nào, để cho một
câu mang nghĩa phủ định thì chúng ta chỉ có cách đặt một dấu hiệu phủ định
16
(negative marker) vào trong câu, và cái dấu hiệu phủ định này sẽ có chức năng
phủ định và bác bỏ những yếu tố trong câu mà cần phủ định, đồng thời câu này
cũng sẽ có ý nghĩa phủ định.
1.2.1 Dấu hiệu phủ định trong ngôn ngữ
Dấu hiệu phủ định được tồn tại ở trong tất cả các ngôn ngữ, thông thường
dấu hiệu phủ định trong một ngôn ngữ có tính đa dạng, tức là trong một ngôn
ngữ không chỉ có một dấu hiệu phủ định, và giữa các dấu hiệu phủ định sẽ có
sự khác biệt về chức năng hay cách dùng, và chúng được tập hợp thành một hệ
thống phủ định nhất định, từ đó tạo ra cấu trúc phủ định trong ngôn ngữ đó.
Mỗi một ngôn ngữ đều có một cách trình bày dấu hiệu phủ định riêng,
chẳng hạn có thể dùng những từ mang nghĩa phủ định đảm nhiệm, như trong
tiếng Anh có những từ “no”, “not” mang nghĩa phủ định ; hay thêm phụ tố
mang nghĩa phủ định ghép với những yếu tố cần phủ định, như trong tiếng
Lithuania là “neszù” là tôi mặc và “ne+neszù” biểu thị “tôi không mặc” [23];
ngoài ra còn có thể dùng những kết cấu ngữ pháp để biểu thị phủ định, chẳng
hạn ở tiếng Hungary thì dấu hiệu phủ định “nem” dùng trong phủ định câu
trường thuật, còn dấu hiệu phủ định “ne” thì phủ định cho cấu trúc cầu khiến
[60].
Cách thức sử dụng dấu hiệu phủ định có sự giống nhau hay không thường
dựa vào quy thuộc của hệ ngôn ngữ, tức là những thứ tiếng này có cùng một
nhóm trong hệ ngôn ngữ hay không. Tiếng Hán và tiếng Việt đều thuộc loại
ngôn ngữ đơn lập và không biến hình, chúng có một số đặc điểm giống nhau về
dấu hiệu phủ định (CHƯƠNG III sẽ trình bày cụ thể sự giống nhau và khác

nhau về phủ định của hai ngôn ngữ).
Nói chung, cả tiếng Hán và tiếng Việt đều có khá nhiều dấu hiệu phủ
định, nhưng xét về mặt mức độ sử dụng thì bất kể ngôn ngữ nào cũng đều có
một số ký hiệu tiêu biểu và thường dùng nhất.
Ở tiếng Hán hiện đại, chúng ta thường thấy ba dấu hiệu phủ định sau hay
được sử dụng: “不”, “没”và “别”. Thông thường, ba ký hiểu phủ định này có
vai trò và tác dụng riêng mặc dù chúng được đồng thời xuất hiện ở cùng một
ngữ cảnh, nhưng ý nghĩa của những dấu hiệu phủ định này lại hoàn toàn khác
nhau, và có lúc chỉ có một ký hiệu mang nghĩa phủ định, còn những ký hiệu
còn lại thì có chức năng ý nghĩa khác. Ví dụ:
(1)仰起头两面一望,只见许多古怪的人,三三两两,鬼似的在那里徘
17
徊;定睛再看,却也看不出什么别的奇怪。
Dịch: Ngước đầu nhìn xung quanh, lão thấy bao nhiêu người kỳ dị hết sức,
cứ hai ba người một, đi đi lại lại như những bóng ma. Nhưng nhìn kỹ thì lại
chẳng lấy gì làm quái lạ nữa. [118]
Trong ví dụ trên “不” là dấu hiệu phủ định vì nó được sử dụng với kết cấu
“看出” đối lập với “看不出” (không nhìn ra được); nhưng từ “别” ở trường
hợp này chỉ có nghĩa là “cái khác” chứ không mang nghĩa phủ định.
(2)康大叔见众人都耸起耳朵听他,便格外高兴,横肉块块饱绽,越发
大声说,“这小东西不
1
要命,不
2
要就是了 ”
Dịch: Bác Cả Khang thấy mọi người vểnh tai nghe, lấy làm thú lắm,
những thớ thịt trên mặt nổi từng cục. Bác ta cao hứng nói càng to:
- Cái thằng nhãi con ấy không
1
muốn sống nữa, thế thôi [118]

Trong ví dụ này “不” là dấu hiệu phủ định, nhưng ở đây “不
1
” khác với
“不
2
” ở chỗ ngữ cảnh và nghĩa của cả một đoạn văn. “不
1
” là dấu hiệu phủ
định vì nó có sự đối lập giữa “要命” (muốn sống) và “不要命”, còn “不
2

trong “不要” có nghĩa là chết, cả câu “不要就是了” có nghĩa là “chết là được
thôi”.
Dấu hiệu phủ định trong tiếng Việt được gọi là yếu tố phủ định hay phủ
định tố, về thực chất thì ba tên gọi về cách diễn đạt phủ định trong ngôn ngữ là
hoàn toàn giống nhau. Trong tiếng Việt, các dấu hiệu phủ định chủ yếu gồm:
“không”, “chưa” và “chẳng”, ngoài ra còn có các yếu tố phủ định khác như
“đếch” “cóc” v.v. Những dấu hiệu phủ định kể sau thuộc loại không lịch sự khi
chúng ta sử dụng.
1.2.2 Sự không tương ứng giữa khẳng định và phủ định trong ngôn ngữ
Bất kể trong tiếng Hán hay trong tiếng Việt, hoặc là các ngôn ngữ khác
trên thế giới, sự không căn bằng giữa khẳng định và phủ định hầu như đều có
một số đặc điểm giống nhau, và đây cũng là một tính chung của ngôn ngữ.
Sự không căn bằng giữa khẳng định và phủ định biểu hiện bằng ba
phương diện khác nhau là sự không tương ứng với cấu trúc câu, sự không
tương ứng với ngữ cảnh và sự không tương ứng với mức độ ngữ nghĩa của từ.
18
1.2.2.1 Không tương ứng với cấu trúc câu
Xét về mặt lô-gích thì quan hệ giữa khẳng định và phủ định là tương ứng
với nhau, mỗi một mệnh đề khẳng định đều có một mệnh đề phủ định tương

ứng, nhưng xét về mặt ngôn ngữ thì chúng chưa chắc đã là tương ứng, và có thể
có những trường hợp có một mệnh đề khẳng định, nhưng không có một mệnh
đề phủ định tương ứng, ví du:
(3) a.“yêu là vì thích.”
b.“yêu là vì không thích.”
Thì ở trong hai ví dụ trên, về cấu trúc ngữ pháp thì hai câu đều đúng,
nhưng về mặt ý nghĩa thì câu “b.” là sai, vậy nhóm câu khẳng định và phủ định
này không tương ứng với nhau.
Ngược lại, cũng có một số trường hợp cấu trúc phủ định trong mệnh đề là
đúng, nhưng nếu câu phủ định này tương ứng sang bên khẳng định thì lại sai về
ngữ pháp và không thành lập được, ví dụ:
(4) a.“Cô bé nhìn thấy con chuột to chạy qua dưới bàn ăn, sợ hết hồn mà
không dám động đậy”.
b.“Cô bé nhìn thấy con chuột to chạy qua dưới bàn ăn, sợ hết hồn mà
dám động đậy”.
Chúng ta cũng dễ dàng phát hiện là sự khẳng định trong câu “b.” không
hợp lệ vì cô bé kia đang sợ con chuột to mà lại dám động đậy là việc trái ngược
với tình hình thực tế trong cuộc sống, vậy thì ở đây khẳng định với phủ định
vẫn không thể tương ứng trong hoàn cảnh này.
1.2.2.2 Không tương ứng với ngữ cảnh
Ngoài ra, ở trong một số ngữ cảnh tuy khẳng định với phủ định tương ứng
với nhau, nhưng với nội dung câu nói thì câu khẳng định sẽ là đúng và câu phủ
định tương ứng đó là sai. Chẳng hạn:
(5)A: Anh Hoàng ơi, lâu lắm không gặp anh, dạo này thế nào rồi?
B: 1) À, con anh vừa bảo vệ xong luận văn thạc sĩ đấy!
2) À, con anh chưa bảo vệ luận văn thạc sĩ.
Với ngữ cảnh này, mặc dù câu hỏi của A rất trung tính và A cũng không
bày tỏ sự mong muốn nhận được câu trả lời là khẳng định hay phủ định, nhưng
nếu B trả lời theo câu 1) thì sẽ tự nhiên hơn và cũng dễ diễn ra cuộc giao tiếp
tiếp theo và có thể A sẽ có lời chúc mừng cho B v.v, nhưng nếu B trả lời bằng

câu 2) thì không phù hợp và sẽ khiến mọi người cảm thấy lạ, trừ khi A là người
thường quan tâm đến đứa con của người B lúc nào bảo vệ luận văn, và khi A
19
hỏi đến chuyện dạo này thế nào tức có nghĩa đang hỏi về tình hình con của B,
thì lúc này B sẽ có câu trả lời theo câu 2) để nối tiếp câu hỏi hàm ẩn của A.
Ở những trường hợp trên có sự không căn bằng, không tương ứng giữa
khẳng định và phủ định. Givón [55] đã trình bày quan điểm để lý giải nguyên
nhân hình thành sự khác biệt giữa khẳng định và phủ định. Ông cho rằng, với
những trường hợp thông thường, câu phủ định thường dùng cho câu khẳng định
tương ứng đã được đưa ra, hoặc là ở trong tình trạng người nói cho rằng người
nghe là tin cậy và quen thuộc với câu chuyện mà người nói đang đề cập đến.
Nhà ngôn ngữ học Trung Quốc Thẩm Gia Huyên [44] cũng đồng quan
điểm với Givón. Ông cho rằng, tuy hai câu phát ngôn của B trên đều là câu trần
thuật, và chúng chỉ khác biệt về hình thức khẳng định hay phủ định, nhưng về
mặt cung cấp thông tin thì hai kiểu câu này lại hoàn toàn khác nhau: câu 1) là ở
tình trạng người A không biết P (cái mệnh đề mà người B đưa ra đầu tiên - con
anh vừa bảo vệ xong luận văn thạc sĩ) thì người B đưa ra cái thông tìn này cho
người A biết, còn 2) là người B đang đoán rằng người A đã biết chuyện P hoặc
có thể tin chuyện P mà tiến hành việc phủ nhận.
Thẩm Gia Huyên còn cho rằng, câu phủ định không phải dùng để dẫn ra
một thông tin mới và đối tượng mới trong thông tin, mà là để phủ định hay bác
bỏ những thông tin hay đối tượng đã đề cặp tới. Về quan điểm này có một ví dụ
được thể hiện bằng nòng cốt từ là danh từ làm tân ngữ trong câu:
(6) a.我昨天在大街上认识一个人。
Dịch: Hôm qua tôi làm quen với một người ở trên phố.
b.我昨天在大街上没认识一个人。
Dịch: Hôm qua tôi không làm quen với một người ở trên phố. [52]
Với ví dụ trên, cụm danh từ “一个人” (một người) làm tân ngữ thì ở trong
câu “a.” vì là khẳng định nên có thể chỉ định cho một người nào đó đã làm
quen, nhưng trong câu “b.” “一个人” là cụm danh từ không chỉ định, và thông

thường, danh từ làm tân ngữ trong câu phủ định phải là danh từ chỉ định và xác
định được, nhưng trong câu khẳng định lại không có điều kiện này. Và đây
chính là sự khác biệt rõ ràng giữa khẳng định và phủ định về chức năng thông
báo của thông tin.
1.2.2.3 Không tương ứng về mức độ ngữ nghĩa của từ
Sự không tương ứng giữa khẳng định và phủ định còn thể hiện ở mức độ
20
ngữ nghĩa của từ được sử dụng trong câu, chẳng hạn một số động từ chỉ có thể
dùng trong câu khẳng định, và một số động từ khác lại chỉ có thể sử dụng trong
câu phủ định.
Theo nhà ngôn ngữ học Trung Quốc Thạch Dục Trí [45], những từ có mức
độ ngữ nghĩa thấp thì chỉ có thể sử dụng trong kết cấu phủ định; những từ có
mức độ ngữ nghĩa cao thì chỉ có thể sử dụng trong cấu trúc khẳng định; còn
những từ có mức độ ngữ nghĩa vừa phải thì có thể sử dụng tự do giữa hai cấu
trúc khẳng định và phủ định. Và những từ chỉ có thể sử dụng trong cấu trúc
khẳng định hay cấu trúc phủ định được gọi là ngữ tuyến tính (polarity item).
Ví dụ:
(7)高盛五并不介意党委书记的玩笑。
Dịch: Cao Thịnh Ngũ không hề để bụng những chuyện đùa của ông bí thư
Đảng uỷ. [52]
(8) a.我还清楚地记得昨天发生的事。
Dịch: Tôi còn nhớ rất rõ về chuyện tối hôm qua đã xảy ra.
b.我不记得昨天发生的事。
Dịch: Tôi không nhớ những chuyến tối qua đã xảy ra. [52]
(9) 我们要时刻铭记党对我们的教诲。
Dịch: Chúng ta phải luôn ghi nhớ trong lòng những điều mà Đảng
yêu cầu với chúng ta. [52]
Với ba nhóm ví dụ trên, ba từ “介意” “记得” và “铭记” về khái niệm ngữ
nghĩa thì giống nhau, đều mang nghĩa là “nhớ tới”, nhưng chúng khác nhau về
mức độ ngữ nghĩa. Từ “介意” mức độ ngữ nghĩa rất thấp, thường dùng trong

cấu trúc phủ định; từ “铭记” mức độ ngữ nghĩa cao nhất, thường dùng trong
cấu trúc khẳng định; còn từ “记得” có mức độ ngữ nghĩa trung bình, vậy trong
cả hai cấu trúc khẳng định và phủ định đều dùng được. Dưới đây là sơ đồ mức
độ ngữ nghĩa của ba từ này:



Phạm vi sử dụng PĐ PĐ & KĐ KĐ
mức độ ngữ nghĩa Thấp Cao
Từ
介意 记得 铭记

21
Ghi chú: PĐ = phủ định, KĐ = khẳng định, & = và
Hiện tượng không tương ứng của các từ ngữ tuyến tính trong cấu trúc
khẳng định và phủ định cũng có thể dùng ký hiệu “+” “-” đánh dấu nghi nhớ:
“to - nhỏ” là một tổ hợp từ có ý nghĩa tương phản, thì “to” là “-” mang nghĩa
không đánh dấu, “nhỏ” là “+” mang nghĩa đánh dấu; “khẳng định - phủ định”
có quan hệ đối lập, thì “khẳng định” là “-” mang nghĩa không đánh dấu, “phủ
định” là “+” mang nghĩa đánh dấu. Ta có bảng ghi nhớ sau:






Ghi chú: đánh dấu: + , Không đánh dấu: -
Từ bảng dấu hiệu này chúng ta sẽ có: nếu một từ nào đó có mức độ ngữ
nghĩa cao thì từ ấy sẽ dùng trong cấu trúc khẳng định, ngược lại, nếu mức độ
ngữ nghĩa của từ ấy thấp thì sẽ dùng trong cấu trúc phủ định. Ví dụ:

(10) 树上的苹果熟透了, 就落到地下。这种现象从来没有引起人们
的注意
Dịch: Những quả táo trên cây đã chín và rơi xuống đất. Hiện tượng này
từ xưa đến này chưa bao giờ khiến mọi người lưu ý. [137]
Với ví dụ này, mức độ ngữ nghĩa của từ “从来” rất thấp và nó chỉ dùng
trong câu phủ định, nhưng có điều thú vị là trong tiếng Việt, cụm từ “từ xưa
đến nay” lại có mức độ ngữ nghĩa trung bình, nó có thể sử dụng trong cả hai
cấu trúc - khẳng định và phủ định.




1.3 Một số quan điểm của các nhà nghiên cứu Trung Quốc về
câu phủ định
Trong tiếng Hán, vấn đề phủ định nói chung và hình thức biểu hiện của
Cấu trúc câu
Dấu hiệu
mức độ ngữ nghĩa
Khẳng định Phủ định
Cao -
Thấp +
22
câu phủ định nói riêng đã được nhiều nhà ngôn ngữ học Trung Quốc chú ý đến,
trong đó không ít nhà ngôn ngữ học như Lã Thúc Tương [34], Vương Lực [48],
Thảm Gia Huyên [44], Thạch Dục Trí [15], Kim Triệu Tử [31], Liêu Tự Đông
[28] v.v đã trình bày những quan điểm về phủ định trên các bài báo hoặc những
cuốn sách đã xuất bản.
Theo nhà nghiên cứu Kim Triệu Tử trong sách Nghiên cứu văn pháp quốc
ngữ (
《国文法之研究》

) của NXB Thương vụ năm 1983, về hình thức biểu hiện
của câu phủ định trong tiếng Hán, ông cho rằng: “凡是肯定句与否定句的分
别,只须看表词中有否‘不’‘无’‘非’‘弗’‘莫’等否定副词,就可辨别得出。(Để
phân biệt rõ giữa câu khẳng định với câu phủ định, chỉ cần xem xét trong câu
có phó từ phủ định như ‘bất’ ‘vô’ ‘phi’ ‘phất’ ‘mạc’ hay không thì có thể phân
biệt được.)” Ngoài ra, nhà nhiên cứu Lã Thúc Tương trong sách Văn pháp
Trung Quốc (
《中国文法要略》
) của NXB Thương Vụ năm 1982 cũng chỉ ra
rằng “否定的句子却是必须要有否定的字样。(Câu phủ định nhất thiết phải có
những từ phủ định đặc điểm)”
Vương Lực, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Trung Quốc cũng bày tỏ sự khẳng
định trong sách Hán ngôn cổ đại (
《古代汉语》
) của NXB Cục sách Trung Hoa
năm 1962: “表示否定的句子叫否定句。否定句中必须要有否定词。(Những
câu biểu thị phủ định gọi là câu phủ định. Trong câu phủ định nhất định phải có
từ phủ định.)” Sau đó, trên cơ sở quan điểm này, ông thu hẹp phạm vi phủ định
và đưa ra một quan điểm khác trong sách Ngữ pháp hiện đại Trung Quốc (
《中
国现代语法》
) của NXB Thương vụ năm 1985: “反诘语可以当否定语用,这
是很自然的道理,不过反诘语的语义更重罢了。(Câu bác bỏ có thể dùng với
tư cách phủ định, đây là một quy luật rất tự nhiên, chỉ có điều, về độ tác động
ngữ nghĩa thì câu bác bỏ mạnh hơn câu phủ định mà thôi.)”
Theo hình thức và nghĩa biểu hiện, thì câu phủ định của phủ định, tuy
trong câu có từ phủ định, nhưng đó không thuộc loại câu phủ định. Về hiện
tượng này, nhà nghiên cứu Lã Thúc Tương cũng đưa ra khái niệm “否定作用
23
的模糊化 (sự mơ hồ của tác dụng phủ định)”, dạng thức phủ định tiêu biểu

của loại câu này là câu phủ định của phủ định, (ở phần sau chúng tôi sẽ trình
bày rõ thêm).
Nhà ngôn ngữ học Trần Bình [24] cũng cho rằng, sự phủ định trong ngôn
ngữ chủ yếu là phủ nhận cấu trúc trần thuật của câu, và trong thực tế có thể phủ
nhận những khái niệm về sự vật cũng như tính chất, động tác, quan hệ hay
trạng thái của những sự vật hiện tượng mà mình muốn phủ định; ngoài ra, sự
phủ định cũng có những nghĩa rộng để chỉ về ngăn cấm, không tồn tại hay trái
ngược với thực tế bằng cách sử dụng ngôn ngữ.
1.3.1 Quan điểm về mặt hình thức và ngữ nghĩa của dấu hiệu phủ định “

” và



Nhà ngôn ngữ học Lã Thúc Tương [37] [38] là người đầu nghiên cứu tỉ mỉ
nhất về sự khu biệt giữa hai từ phủ định “不” và “没”. Theo ông, hai từ phủ
định này có sự khác biệt về hình thức và ngữ nghĩa.
Về mặt hình thức, từ “不” là phó từ chuyên làm phụ tố cho động từ và nó
không thể thay thế vị trí của động từ; còn từ “没” là trợ động từ, nó không chỉ
có thể đi kèm với động từ mà còn có thể đảm nhiệm vai trò của động từ.
Về mặt ngữ nghia, từ “不” chỉ có nghĩa phủ định; còn từ “没” là sự phủ
định của hai nội dung: phủ định những việc đã hoàn thành và phủ định của
những trải nghiệm đã xảy ra. Về nội dung phủ định thứ nhất, ở cấu trúc câu
trong tiếng Hán thường có từ “了” biểu thị đã hoàn thành hoặc đã được thực
hiện, ngoài ra còn có từ “过” biểu thị đã trải nghiệm, từ “没” có nghĩa phủ định
những việc trong quá khứ đã xảy ra.
Ở hai nhóm ví dụ dưới đây, chỉ có thể dùng ký hiệu “没” phủ định chứ
không thể phủ định bằng ký hiệu “不”, vì với ngữ cảnh cụ thể này là phủ định
về việc hoàn thành hay trải nghiệm:
(11) a.母亲和宏儿都睡着了。

Dịch: Mẹ tôi và cháu Hoằng đã ngủ rồi.
24
Đối lập với
b.母亲和宏儿都没睡着。
Dịch: Mẹ tôi và cháu Hoằng còn chưa ngủ. [109]
(12) a.华大妈见这样子……跨过小路,低声对他说……
Dịch: Thấy thế, bà Hoa bèn đứng dậy, bước sang bên kia đường mòn,
khẽ nói
Đối lập với
b.华大妈见这样子……没跨过小路,低声对他说……
Dịch: Thấy thế, bà Hoa bèn đứng dậy, không bước sang bên kia đường
mòn, khẽ nói [118]
Tóm lại, Lã Thúc Tương [13] cho rằng, từ “没” dùng để phủ định những
hiện tượng khách quan, nhưng chỉ phủ định trong quá khứ và hiện tại, không
thể phủ định cho thời tương lai; còn từ “不” phủ định về tính chủ quan của con
người, có thể phủ định cả ba thời quá khứ, hiện nay và tương lai. Ví dụ:
(13) a.他怎么着也不让我走。
Dịch: Dù thế nào anh ấy cũng không thả tôi về.
b.他怎么着也没让我走。
Dịch: Dù thế nào anh ấy cũng không cho tôi về. [39]
Về ví dụ “a.”, “不让我走” (không thả tôi về) có nghĩa chủ quan của “anh
ấy”, còn “b.” hướng tới một kết quả là “我没走” (tôi chưa đi) là một sự thật
khách quan.
Ngoài ra, Lã Thúc Tương còn cho rằng, từ “不” có thể dùng trước tất cả
trợ động từ, còn từ “没” thì hạn chế hơn, chỉ có thể dùng trước mấy trợ động từ
như “能” “能够” “要” “肯” “敢” v.v
1.3.2 Quan điểm về tính chủ quan và tính khách quan của dấu hiệu phủ định


” và “



Nhà ngôn ngữ học Bạch Thuyên [21] cho rằng, dấu hiệu phủ định “不”
25
phủ định về mặt chủ quan, còn dấu hiệu phủ định “没” phủ định về mặt khách
quan.
Bạch Thuyên [21] đã đi sâu vào quan điểm này và phân tích rằng: dấu
hiệu phủ định “不” chủ yếu phủ định về ý chủ quan làm một việc nào đó. Việc
này còn chưa làm, có thể đang làm hoặc sau này sẽ làm, và như vậy, dấu hiệu
phủ định “不” cũng sẽ đi theo những ý thức chủ quan mà dùng trong thời hiện
tại hoặc thời tương lai; ngược lại, sự thật khách quan là những việc đã xảy ra
hoặc những tình huống đã tồn tại, vì vậy dấu hiệu phủ định “没” chỉ có thể phủ
định những sự thật trong quá khứ.
Nói chung, những quan điểm phân tích của Bạch Thuyên và Lã Thúc
Tương bổ sung lẫn cho nhau, và cũng nêu rõ sự khác biệt về tính chủ quan và
tính khách quan của hai dấu hiệu phủ định “不” và “没”.
1.3.3 Quan điểm về phủ định trung tính và phủ định về “thời hoàn thành” của
dấu hiệu phủ định “

” và “


Nhà ngôn ngữ học Charles N.Li và Sandra A.Thompson [58] có quan
điểm khác với Lã Thúc Tương là sự khác biệt giữa “不” và “没” ở chỗ: “不”
dùng cho phủ định trung tính (neutral negation), còn “没” dùng để phủ định
cho sự hoàn thành của sự việc. Một số trường hợp được phủ định bằng ký hiệu
“不” như sau:
1) Trong cấu trúc câu xuất hiện tính từ hoặc động từ, thì dấu hiệu phủ định “不”
dùng để phủ định sự tồn tại của trạng thái tương ứng, và ở đây không được
dùng “没”. Ví dụ:

(14)他不聪明 Dịch: Nó không thông minh. [52]
(15)他们不知道他在哪
Dịch: Chúng nó không biết anh ấy ở đâu. [52]
2) Trong cấu trúc câu xuất hiện trợ động từ thì sự phủ định của nó sẽ dùng ký
hiệu “不” chứ không dùng “没”. Ví dụ:

×