Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tóm tắt luận án nghiên cứu các cơ sở khoa học nhằm bảo tồn và phát triển bền vững các loài quý hiếm thuộc chí tế tân ( asarum l ) ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT
NGUYỄN ANH TUẤN
NGHIÊN CỨU CÁC CƠ SỞ KHOA HỌC NHẰM
BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LOÀI
QUÝ HIẾM TRONG CHI TẾ TÂN (ASARUM L.) Ở
VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
Chuyên ngành: THỰC VẬT HỌC
Mã số: 62. 42. 01. 11
HÀ NỘI, 2015
1
Công trình được hoàn thành tại: Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh
vật, Viện Hàn lâm KH & CN Việt NamViện Sinh thái và Tài nguyên
Sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Trần Huy Thái
2. PGS. TS. Lê Mai Hương
Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Khắc Khôi
Phản biện 2: GS. TSKH. Trần Văn Sung
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Trung Thành
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Viện
Vào hồi: 09 giờ 00 ngày 07 tháng 07 năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
Thư viện Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Họ Mộc hương (Aristolochiaceae) gồm có 2 phân họ chính là Asaroideae
(gồm 3 chi: Saruma, Asarum và Hexastylis) và Aristolochioideae (gồm 7
chi: Asiphonia, Thottea, Isotrema, Pararistolochia, Euglypha, Holostylis và
Aristolochia). Trong đó, chi Tế tân (Asarum L.) có khoảng 90 loài, gồm các
cây thân cỏ, phát triển ở các vùng ôn đới của Bắc bán cầu. Phần lớn các loài
phân bố ở vùng Đông Á, tại các khu vực Hymalaya đến lục địa Trung Quốc,
Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và đảo Sakhalin; Bắc Mỹ và một loài ở
châu Âu (Asarum europaeum).
Theo Phạm Hoàng Hộ (1999), Nguyễn Tiến Bân (2003) và Võ Văn Chi
(2003), chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam gồm có 7 loài (Asarum balansae
Franch; Asarum blumei Duch. in DC.; Asarum caudigerum Hance; Asarum
glabrum Merr.; Asarum petelotii O.C. Schmidt; Asarum reticulatum Merr. và
Asarum wulingense Liang), phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam
(Hà Giang, Lào Cai, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh
Phúc, Hà Nội, Hà Tĩnh và Quảng Bình). Có 3 loài được ghi trong Sách Đỏ
Việt Nam (1996, 2007) là Asarum balansae Franch.; Asarum caudigerum
Hance và Asarum glabrum Merr Trong đó, loài Biến hóa núi cao (Asarum
balansae) được phân hạng EN A1c,d và là yếu tố đặc hữu Bắc Bộ. Đây là loài
đã xếp hạng ở mức Nguy cấp, có nguy cơ tuyệt chủng ngoài tự nhiên trong
một tương lai gần, quần thể của chúng đã suy giảm khoảng 50% do nơi cư trú
bị thu hẹp và tình trạng khai thác quá mức; loài Thổ tế tân (Asarum
caudigerum) được phân hạng VU A1a,c,d; loài Hoa tiên (Asarum glabrum)
được phân hạng VU A1c.d. Đến nay, những nghiên cứu ở trong nước về các
loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) hầu như chưa có gì đáng kể. Các loài thuộc
chi Tế tân (Asarum L.) đang có nguy cơ lớn sẽ bị tuyệt chủng ngoài thiên
nhiên trong một tương lai tương đối gần, quần thể của chúng suy giảm ít nhất
khoảng 20%. Nghiên cứu các cơ sở khoa học để bảo tồn, phục hồi và sử dụng
bền vững tính đa dạng của các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam
là vấn đề thời sự mang tính cấp thiết có nhiều ý nghĩa khoa học và giá trị thực
tiễn cao. Chính vì vậy, chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu các cơ sở

khoa học nhằm bảo tồn và phát triển bền vững các loài quý hiếm thuộc
chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Mục tiêu chung:
Cung cấp một số dẫn liệu khoa học về đặc điểm sinh học, thành phần hóa
học cũng như về giá trị sử dụng của một số loài thuộc chi Tế tân (Asarum
L.), nhằm góp phần bảo tồn có hiệu quả các loài này ở Việt Nam hiện nay.
3
- Mục tiêu cụ thể:
+ Chỉ ra được các đặc điểm nổi bật về hình thái thực vật, cùng với khóa
phân loại, giúp cho việc nhận biết chính xác các loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) hiện có ở Việt Nam, phục vụ cho yêu cầu bảo tồn.
+ Cung cấp dẫn liệu về hiện trạng, khả năng tái sinh tự nhiên, nhất là khả
năng nhân trồng, phục vụ cho yêu cầu bảo tồn nguyên vị (in situ), chuyển vị
(ex situ) và phát triển trồng thêm một số loài Tế tân đang có nhu cầu sử
dụng hiện nay.
+ Thông qua việc nghiên cứu về thành phần hóa học và một số tác dụng
sinh học (in vitro) nhằm bổ sung thêm các dẫn liệu về giá trị nguồn gen và
giá trị sử dụng trong việc bảo tồn một số loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.)
hiện có ở Việt Nam.
3. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần bổ sung và hoàn thiện dần về mặt phân loại, bảo tồn và phát
triển bền vững các loài quí hiếm thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam.
4. Những điểm mới của luận án
- Bổ sung hai loài Asarum cordifolium C. E. C. Fischer và Asarum
yunnanense T. Sugaw., Ogisu & C. Y. Cheng cho hệ thực vật Việt Nam.
- Lần đầu tiên nhóm chất isocoumarin được phát hiện từ loài Tế tân nhẵn
(Asarum glabrum); đã phát hiện một hợp chất mới từ loài Tế tân balansa
(Asarum balansae) là 1-(3-hydroxy-4-metoxyphenyl)propan-1,2-diol
(ABW4.2) và cũng là một phenylpropanoid mới.

- Lần đầu tiên thử nghiệm hoạt tính sinh học của 03 loài Asarum balansae,
Asarum caudigerum và Asarum glabrum ở Việt Nam: thử hoạt tính kháng
vi sinh vật kiểm định, hoạt tính chống oxy hóa và hoạt tính gây độc tế bào.
5. Bố cục của luận án
Luận án bao gồm 107 trang, 21 bảng, 31 hình, 3 sơ đồ và 20 phụ lục.
Luận án gồm các phần: Mở đầu (3 trang); Chương 1: Tổng quan nghiên cứu
(12 trang); Chương 2: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu (16
trang); Chương 3: Kết quả nghiên cứu (73 trang); Kết luận, Kiến nghị (3
trang); Danh mục các công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận
án; Tài liệu tham khảo; Phụ lục.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. VỊ TRÍ PHÂN LOẠI CỦA CHI TẾ TÂN (ASARUM L.)
Họ Mộc hương (Aristolochiaceae) gồm có 2 phân họ chính là Asaroideae
(gồm 3 chi: Saruma, Asarum và Hexastylis) và Aristolochioideae (gồm 7
chi: Asiphonia, Thottea, Isotrema, Pararistolochia, Euglypha, Holostylis và
Aristolochia). Chi Tế tân (Asarum L.) được Linnaeus đặt tên lần đầu tiên
4
vào năm 1753, khi đó, Linnaeus xếp chi Hexastylis thuộc chi Asarum. Đến
năm 1825, Rafinesque tách chi Hexastylis từ chi Asarum dựa trên hình thái
và cấu tạo của lá. Chi Hexastylis có phiến lá dày và xanh, trong khi chi
Asarum có phiến lá mỏng và sớm rụng hơn. Một điểm khác biệt đáng chú ý
là, thực tế, thân và hoa của chi Hexastylis không có lông trên bề mặt của
chúng, trong khi thân và hoa của chi Asarum có lông tơ. Ngoài ra, các thùy
đài hoa của các loài trong chi Asarum có xu hướng dài hơn và sắc nét hơn
của chi Hexastylis. Như một kết quả của những khác biệt về hình thái, các
nhà phân loại học đã công nhận Hexastylis và Asarum là hai chi riêng biệt.
Theo các tài liệu của Takhtajan, Brummitt, Cronquist và Robert F. Thorne,
chi Tế tân (Asarum L.) được xếp theo các bậc phân loại khác nhau tùy theo
các hệ thống phân loại.
Các nhà khoa học Việt Nam như Nguyễn Tiến Bân, Nguyễn Nghĩa Thìn,

Võ Văn Chi, Vũ Văn Chuyên có quan điểm giống với hệ thống phân loại
của Takhtajan (2009), chi Tế tân (Asarum L.) được xếp vào họ
Aristolochiaceae, bộ Piperales, phân lớp Magnoliidae, lớp Magnoliopsida
(Dicotyledons), ngành Magnoliophyta (hình 1.1).
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC LOÀI THUỘC CHI TẾ
TÂN (ASARUM L.)
Chi Tế tân (Asarum L.) thuộc họ Mộc hương (Aristolochiaceae) được
Linnaeus (1753) đặt tên và mô tả. Trên thế giới, chi Tế tân (Asarum L.) có
khoảng 90 loài, chúng phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới của Bắc bán cầu, các
khu vực Đông Á từ Hymalaya đến lục địa Trung Quốc, Đài Loan, Nhật
Bản, Hàn Quốc và đảo Sakhalin; Bắc Mỹ và một loài ở châu Âu (Asarum
europaeum).
Việt Nam, hiện tại có 7 loài (Asarum balansae Franch; A. blumei Duch. in
DC.; A. caudigerum Hance; A. glabrum Merr.; A. petelotii O. C. Schmidt;
A. reticulatum Merr. và A. wulingense Liang), chúng phân bố chủ yếu ở các
tỉnh phía Bắc Việt Nam. Riêng loài A. wulingense được phát hiện ở miền
Trung tại Hà Tĩnh (Hương Sơn, Kéo Nưa).
1.3. NGHIÊN CỨU VỀ THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA CÁC LOÀI
TRONG CHI TẾ TÂN (ASARUM L.)
Những thông tin đã có cho biết, các loài trong chi Tế tân (Asarum L.)
thường có chứa tinh dầu với các thành phần chính là metyl eugenol, α-
pinen, myrcen, borneol, safrol, 1,8-cineol và asafrol… Ngoài ra, chúng còn
chứa các hợp chất khác như aristolochic acid, các secquiterpen, các sterol…
Li Xianggao (1988) đã nghiên cứu thành phần hóa học của loài A.
heterotropoides var. mandshuricum (Maxim) Kitag. và đã xác định được 43
hợp chất trong tinh dầu của thân, lá và rễ. Hàm lượng tinh dầu được chiết
suất: thân (2,3%), lá (0,65%) và rễ (4,06%)
5
Zhang và nnk. (2001) đã phân tích thành phần hóa học ở rễ và thân của loài
Asarum longerhizomatosum C.F. Liang & C.S. Yang bằng các phương pháp

sắc ký và quang phổ, đã phân lập được 5 hợp chất từ dịch chiết ethanol là
asarone; β-sitosterol; 2,4,5-trimethoxybenzaldehyde; 4-(2,4,5-
trimethoxyphenyl)-3-en-butylone và 3-β-hydroxystigmast-5-en-7-one.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về thành phần hóa học của các loài
trong chi Tế tân (Asarum L.) rất hạn chế.
1.4. NGHIÊN CỨU VỀ DƯỢC TÍNH TỪ CÁC LOÀI TRONG CHI TẾ
TÂN (ASARUM L.)
Trong y học dân gian, đa số các loài trong chi Tế tân (Asarum L.) được sử
dụng làm thuốc chữa ho, chữa cảm sốt, cảm lạnh, viêm phế quản, viêm
nhiễm răng lợi và tê thấp. Một số loài lại làm tăng sự phát triển u tuyến phổi
và ung thư tuyến phổi.
1.5. NGHIÊN CỨU BẢO TỒN CÁC LOÀI TRONG CHI TẾ TÂN
(ASARUM L.) Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG II:
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài đại diện của chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam, bao gồm các mẫu
khô lưu giữ tại các phòng tiêu bản thực vật và các mẫu tươi thu được tại Lào
Cai (Sa Pa), Hà Giang (Quản Bạ), Tuyên Quang (Na Hang), Vĩnh Phúc (Tam
Đảo), Hà Nội (Ba Vì), Hòa Bình (Lạc Sơn), Thanh Hóa (Thường Xuân) và
Quảng Trị (Hướng Hóa).
2.1.2. Sinh vật và các dòng tế bào ung thư thí nghiệm
Các chủng vi sinh vật kiểm định được cung cấp từ phòng Sinh học thực
nghiệm - Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, gồm: Vi khuẩn Gr (+); Vi
khuẩn Gr (-); Nấm men; Nấm mốc.
Các dòng tế bào ung thư được cung cấp từ phòng Sinh học thực nghiệm -
Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên, gồm: Dòng Fl, dòng RD, dòng Hep-
G2, và dòng Lu.
2.1.3. Hóa chất và thiết bị

2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Các nội dung nghiên cứu về sinh học
2.2.2. Nghiên cứu khả năng sử dụng
- Các nội dung nghiên cứu về hóa học:
- Các nội dung nghiên cứu thử nghiệm:
2.3. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
6
Điều tra, nghiên cứu và khảo sát tại một số tỉnh miền Bắc và miền Trung
Việt Nam, như Quản Bạ (Hà Giang), VQG Hoàng Liên (Sa Pa, Lào Cai),
KBTTN Na Hang (Tuyên Quang), VQG Tam Đảo (Vĩnh Phúc), VQG Ba
Vì (Hà Nội), Lạc Sơn (Hòa Bình), KBTTN Xuân Liên (Thường Xuân,
Thanh Hóa), Hướng Hóa (Quảng Trị) và quần đảo Cát Bà (Hải Phòng).
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Phương pháp điều tra thực vật
Điều tra theo tuyến và xác lập các ô tiêu chuẩn (OTC)
2.4.2. Phương pháp phân loại thực vật và thảm thực vật
Phân loại thực vật:
Phân loại thảm thực vật:
2.4.3. Phương pháp xác định đặc điểm tái sinh
Chất lượng cây tái sinh được tính theo công thức: N% = (n × 100)/N.
2.4.4. Phương pháp nhân giống vô tính
Xây dựng vườn giống
Nhân giống từ hạt:
Nhân giống từ hom:
Chăm sóc và bảo quản:
2.4.5. Phương pháp nghiên cứu thành phần hóa học của tinh dầu
Sắc ký khí-khối phổ (GC/MS):
2.4.6. Phương pháp phân lập các hợp chất
2.4.6.1. Phương pháp chiết tách và phân lập các hợp chất
2.4.6.2. Phương pháp xác định cấu trúc các hợp chất

2.4.7. Phương pháp thử hoạt tính sinh học
2.4.7.1. Đánh giá hoạt tính kháng vi sinh vật (VSV)
2.4.7.2. Đánh giá hoạt tính gây độc tế bào
2.5. XỬ LÝ SỐ LIỆU
Bằng phần mềm Microsoft Excel.
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI, ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ
BẢO TỒN CÁC LOÀI THUỘC CHI TẾ TÂN (ASARUM L.)
Ở VIỆT NAM
3.1.1. Nghiên cứu phân loại và đặc điểm của các loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) ở Việt Nam
3.1.1.1. Đặc điểm của chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam
Cỏ nhiều năm, cao từ 20-30 cm, có lông hay nhẵn; thân rễ ngắn, thẳng hoặc
thân rễ dài, bò ngang (Asarum cordifolium); lóng dài 2-5 cm; thân thường
phân nhánh và mang nhiều rễ con; thân và rễ thường có mùi thơm đặc biệt.
7
Lá: Thường mọc đơn độc (A. glabrum, A. petelotii ) hay thành cặp (A.
caudigerum, A. yunnanense), có lông hay nhẵn; cuống lá dài; phiến lá hình
trứng tròn (A. caudigerum, A. cordifolium), trứng thuôn (A. balansae, A.
yunnanense), hoặc hình trứng tam giác hay hình mác tam giác (A. glabrum,
A. petelotii); gốc lá hình tim, hình chữ V, hình tai, hoặc hình tim dạng tai;
chóp lá nhọn; mép lá nguyên hoặc có răng nhỏ không đều (A. reticulatum);
bề mặt trên của phiến lá có màu sắc đồng nhất hoặc có các vết màu trắng
khảm theo đường gân (A. yunnanense) hay dọc theo hai bên của gân chính
(A. petelotii); gân hình mạng chân vịt, 5-7 gân chính, 2-4 cặp gân phụ (hình
3.1).
Lá vảy: Thường có hình mũi giáo hoặc hình trứng thuôn nhọn đầu, phát
triển hàng năm từ 2-4 lá, 1-2 lá rụng và hoa phát triển sau cùng (hình 3.2).
Hoa: Thường mọc đơn độc ở phần chót, hiếm khi thành cặp (A. balansae);
cuống hoa dài 2-5 cm, có lông tơ (A. cordifolium) hoặc không. Đài hợp theo

các mức độ khác nhau, các lá đài gắn lại với nhau và tạo thành ống đài hoặc
rời và tạo thành ống đài giả phía trên bầu (A. caudigerum, A. cordifolium);
ống đài hình quả đấu, hình nhạc, hình chuông, hình phễu, hay hình trụ,
thường tạo vết hoặc khảm ở mặt trong, hẹp hoặc mở ở họng (miệng ống
đài), họng có hoặc không có mấu lồi hẹp; thùy lá đài 3, thẳng, mở rộng,
hoặc uốn ngược, chóp thùy đài vuốt nhọn hình kim hoặc không vuốt nhọn.
Nhị 12; chỉ nhị dài hơn bao phấn; bao phấn hướng ra ngoài, mở dọc. Bầu hạ
hoặc trung, 6 ô; noãn hoàn toàn hợp sinh. Vòi nhụy 6, rời hoặc nối liền
thành cột, chóp nguyên hoặc xẻ thành 2 thùy; núm nhụy phần chót hoặc
phần bên (hình 3.3).
Quả: nạc hoặc nang xốp, tách ra không đều đặn khi chín.
Hạt: thường màu đen lồi ở lưng, phẳng hoặc tạo nếp ở mặt bụng, với phôi
nạc ở đáy (hình 3.4).
3.1.1.2. Khóa định loại và đặc điểm của các loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) ở Việt Nam
1a. Vòi nhụy hợp lại thành cột, đỉnh vòi nhụy nguyên.
2a. Lá đài hợp gắn lại ở thành bầu, tạo thành ống đài, thùy của đài không có
đuôi ở chóp
3a. Phiến lá 16-18 × 9-11 cm, mặt trên có vệt trắng dọc theo gân; núm nhụy
màu trắng 1. A. yunnanense
3b. Phiến lá 14-23 × 9-13 cm, mặt trên không có vệt trắng dọc theo gân;
núm nhụy có đốm màu tím 2. A.
balansae
2b. Lá đài rời gắn lại ở thành bầu (có thời điểm chụm lại nhưng không hợp),
thùy của đài có đuôi nhọn ở chóp
8
4a. Lá hình tim, cỡ 8-12 × 7-8 cm; mặt ngoài lá đài màu đỏ, thùy đài cỡ 2,0
× 1,2 cm; có đuôi nhọn dài 1-1,5 cm. Bầu trung 3. A.
cordifolium
4b. Lá hình tim, cỡ 13-24 × 11-18 cm; mặt ngoài lá đài đỏ nhạt rồi xanh ở

phía trên, thùy đài cỡ 2,5 × 1,2 cm; có đuôi nhọn dài 1,5-3,3 cm.
Bầu hạ 4. A. caudigerum
1b. Vòi nhụy rời, đỉnh vòi nhụy chẻ 2 hay có khuyết.
5a. Đài hợp hình ống dài 3-3,5 cm, thắt lại ở 1/3 phía trên 5. A.
glabrum
5b. Đài hợp hình trụ hay mở rộng dần, không thắt lại như trên.
6a. Ống đài và mặt dưới của phiến lá phủ lông tơ màu vàng nâu dày đặc,
cuống hoa uốn ngược, phủ lông …………… 6. A.
wulingense
6b. Ống đài và mặt dưới của phiến lá nhẵn hay chỉ có lông thưa ở gân lá;
cuống hoa thẳng, thường nhẵn.
7a. Ống đài thường nghiêng sang một bên, không cân đối, vùng cổ mảnh,
hẹp; bầu trung ………………………7. A. petelotii
7b. Ống đài không nghiêng, cân đối, vùng cổ rộng; bầu hạ.
8a. Ống đài hình ống, phồng xung quanh bầu; phiến lá hình tim mũi giáo,
mép không có răng 8. A.
blumei
8b. Ống đài hình trụ, mở rộng dần; phiến lá hình tim thuôn, như da, mép có
răng nhỏ không đều 9. A. reticulatum
3.1.1.2.1. Asarum yunnanense T. Sugaw., Ogisu & C. Y. Cheng - Tế tân
vân nam
Cỏ nhiều năm, cao 20-30 cm, đường kính thân 3-5 mm, có lông thưa ở thân
già, lông trắng dày ở thân non; thân rễ có lóng 2-3 cm, mang nhiều rễ con. Lá
mọc cách, thường 1-2 lá; cuống lá dài 7-12 cm, có lông trắng dày; phiến lá
hình tim-trứng, 16-18 × 9-11 cm; gốc lá hình tim; chóp lá nhọn; mép lá
nguyên, có lông thưa; mặt trên của phiến lá có vệt trắng dọc theo gân, có lông
trắng thưa; mặt dưới có lông mịn thưa ở gân; gân gốc 5, gân phụ 3 cặp. Lá
vảy không rõ. Cuống hoa uốn cong, lệch sang bên, dài 3,5 cm, có lông trắng,
thường mọc rủ xuống. Đài gần đối xứng hai bên, hơi đỏ tía, hình chuông. Lá
đài hợp gắn lại ở thành bầu, tạo thành ống đài, mặt ngoài có nhiều lông trắng,

mặt trong vàng nhạt, có nhiều lông tơ đỏ sẩm, có các tia đốm tròn màu vàng
nhạt; ống đài hình nón ngược; thùy đài 3, mở rộng, hình tam giác tròn. Nhị
12; chỉ nhị dài 0,3 mm, ngắn hơn bao phấn; bao phấn 3 mm; trung đới 0,8
mm, rộng hơn bao phấn, hình trụ; vòi nhụy hợp lại thành ống, đầu nhụy 6,
nguyên, núm nhụy màu trắng, phần cuối của núm nhụy tỏa xuống. Bầu dưới,
9
6 ô. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại, có lông trắng thưa. Hạt nhỏ, 12-27
hạt, màu nâu đen, nhẵn bóng.
Loc. class.: China: Yunnan: Hekou, 1987. Type-Proto.: T. Sugawara, M.
Ogisu & C.Y. Cheng, 890425. HT: PE, IT: PEM, MAK.
Sinh học và sinh thái: Mùa ra hoa vào tháng 11-12, quả chín vào tháng 6-7
năm sau, hạt phát tán gần, nhiều cây con mọc xung quanh.
Phân bố: Tuyên Quang (Na Hang). Còn có ở Trung Quốc.
Mẫu nghiên cứu: TUYÊN QUANG, NAT11128 (HN); Trung Quốc, No.
890425; Nhật Bản, MAK257702.
Giá trị sử dụng: Chưa rõ.
Ảnh - Tế tân vân nam
(Asarum yunnanense
T. Sugaw., Ogisu &
C. Y. Cheng) chụp
tại KBTTN Na Hang
(Tuyên Quang)
3.1.1.2.2. Asarum balansae Franch - Tế tân balansa
Cỏ nhiều năm, cao 9-23 cm. Thân rễ tròn, có đốt ngắn 1,5-3 cm, phân nhánh,
mang nhiều rễ con. Lá gồm 2-5 cái, mọc so le, có cuống dài 11-16 cm; phiến
lá dày, hình tim thuôn 14-23 × 9-13 cm; có lông ở cả 2 mặt, mặt dưới lông tập
trung nhiều ở gân lá, mặt trên có nhiều túm lông trắng, ngắn; mép lá nguyên.
Hoa 1-2 cái, mọc riêng lẻ ở kẽ lá hoặc ở ngọn, hoa có cuống dài 3-4 cm, có
lông trắng. Lá đài hợp, đầu chia thành 3 thùy; mặt ngoài màu xanh; mặt trong
màu vàng nhạt, phủ lông tím dày. Nhị 12, chỉ nhị ngắn, trung đới vượt lên bao

phấn; vòi nhụy hợp lại thành ống, đầu nhụy 6, nguyên, núm nhụy có đốm
màu tím. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại, bên ngoài có những hàng lông
trắng chạy dọc. Hạt nhỏ (12-30 hạt), màu đen, nhẵn bóng; số hạt trung bình
của quả là 19,5.
Loc. class.: Tonkin, mont Ba Vi pus de la pagode Dein-Touran. Typus:
Balansa 3160 (P).
Sinh học và sinh thái: Loài Tế tân balansa (Asarum balansae Franch) bắt
đầu ra hoa từ đầu tháng 10; hoa nở vào đầu tháng 12; quả chín và phát tán
hạt vào tháng 7-8 năm sau.
10
Phân bố: Tuyên Quang (Na Hang), Hà Nội (Ba Vì), Hòa Bình (Lạc Sơn),
Thanh Hóa (Thường Xuân) và Quảng Trị (Hướng Hóa). Còn có ở Trung
Quốc và Nhật Bản.
Mẫu nghiên cứu: TUYÊN QUANG, NAT11121 (HN); HÀ NỘI,
NAT12031 (HN), 0217 (VNU), 3160 (NMNH); HÒA BÌNH, CPC 1695
(HN); THANH HÓA, XL804 (HN); QUẢNG TRỊ, CPC 2819 (HN).
Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ dùng làm thuốc ho, chữa viêm phế quản,
cảm sốt và tê thấp.
Ảnh - Tế tân balansa
(Asarum balansae
Franch)
chụp tại KBTTN Na
Hang (Tuyên Quang)
3.1.1.2.3. Asarum cordifolium C. E. C. Fischer - Tế tân lá hình tim
Cây thảo, sống nhiều năm, thân rễ nằm ngang, cao 15-25 cm, có lóng 2-3
cm. Thân rễ tròn, có lông thưa ở thân già, lông trắng dày ở thân non. Lá
mọc cách, 1-4 lá; hình tim 8-12 × 7-8 cm; mép lá nguyên, có lông trắng
thưa; 2 mặt lá phủ lông trắng; cuống lá 12-20 cm, có lông trắng dày ở cuống
lá non; gân đáy 5. Hoa đơn độc, mọc ở ngọn, màu đỏ, có nhiều lông trắng ở
mặt ngoài; cuống dài 2 cm, có nhiều lông trắng. Lá vảy hình mũi giáo. Đài

rời; lá đài màu đỏ, cỡ 2,0 × 1,2 cm; ở chóp lá đài đột ngột thót lại thành
đuôi nhọn, dài 1-1,5 cm. Cánh hoa 3, dạng hình kim, màu đỏ, dài 0,3 cm.
Nhị 12; chỉ nhị dài bằng bao phấn, màu đỏ tím; trung đới hình lưỡi, vượt
bao phấn. Vòi nhụy 6, hợp; cao bằng bao phấn; đỉnh nguyên. Quả phát triển
trong bao hoa tồn tại, màu đỏ nhạt, có lông trắng dày; bầu trung, 6 ô. Hạt
nhỏ, 15-30 hạt, màu nâu đen, nhẵn.
Loc. class.: India (Asam), Myanma (Chin, Kachin và Sagaing). Syntypus:
Kingdon Ward, F., 8123 (K), Kingdon Ward F., 6661 (K).
Sinh học và sinh thái: Cây ra hoa vào đầu tháng 10, hoa nở vào đầu tháng
11, phát tán hạt vào tháng 6-7 năm sau, hạt phát tán gần.
Phân bố: Lào Cai (Bản Khoang, Bãi Rác, Tả Phìn, Tả Van, Cát Cát - Sa
Pa). Còn gặp ở phía Nam Himalayan, Assam (Ấn Độ) và Bắc Myanma.
11
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT11129 (HN); HÀ NỘI, 3719-HNU;
Kew, K000634499, K000634500 (K).
Giá trị sử dụng: Người Dao Đỏ (Sa Pa, Lào Cai) sử dụng làm thuốc tắm trị
đau lưng, nhiễm trùng vết thương và trị bệnh trĩ.
Tình trạng: Loài Tế tân lá hình tim (Asarum cordifolium) mọc dưới tán
rừng thảo quả tại Bản Khoang (Sa Pa, Lào Cai) nên ít nhiều bị tác động bởi
hoạt động canh tác của người dân trồng thảo quả.
Ảnh - Tế tân lá hình tim
(Asarum cordifolium C.
E. C. Fischer )
chụp tại VQG Hoàng
Liên (Sa Pa, Lào Cai)
3.1.1.2.4. Asarum caudigerum Hance - Tế tân hoa có đuôi
Cây thảo, sống nhiều năm, cao 15-30 cm. Thân rễ tròn, có đốt ngắn 1-1,5
cm, phân nhánh, mang nhiều rễ con. Cây đẻ nhánh khỏe và nhiều nên
thường phát triển thành từng khóm. Lá gồm 2-6 cái, mọc thành cặp, cuống
dài 18-30 cm; phiến lá dày, hình tim, 13-24 × 11-18 cm; ở mặt dưới có

nhiều lông trắng, tập trung nhiều ở gân lá; mặt trên có lông trắng thưa, chủ
yếu ở gân; gân đáy 5; mép lá nguyên. Hoa đơn độc, mọc ở kẽ lá hoặc ở
ngọn; cuống hoa dài 1-5 cm, có lông trắng. Lá vảy 3. Đài rời; mặt ngoài lá
đài đỏ nhạt rồi xanh ở phía trên, mặt trong màu đỏ, cỡ 2,5 × 1,2 cm; ở chóp
lá đài đột ngột thót lại thành đuôi nhọn, dài 1,5-3,3 cm. Cánh hoa 3, dạng
hình kim, dài 0,3 cm, màu tím nhạt. Nhị 12; chỉ nhị dài bằng bao phấn, màu
đỏ tím; trung đới hình lưỡi, vượt bao phấn. Nhụy 6, vòi nhụy hợp lại thành
cột, đỉnh vòi nhụy nguyên, cao bằng bao phấn. Quả phát triển trong bao hoa
tồn tại, màu tím, có lông trắng dày; bầu dưới, 6 ô. Hạt nhỏ, 60-90 hạt, màu
nâu đen, nhẵn.
Loc. class.: In prov. Cantonensi, secus fl. East River. Typus: Herb. Propr. n.
21366.
Sinh học và sinh thái: Cây bắt đầu ra hoa từ tháng 11-12; hoa nở vào đầu
tháng 1 năm sau; quả chín và phát tán hạt vào tháng 3-4.
Phân bố: Hà Giang (Phó Bảng, Quản Bạ) và Tuyên Quang (Na Hang). Còn
có ở Trung Quốc.
12
Mẫu nghiên cứu: TUYÊN QUANG, NAT12012 (HN); HÀ GIANG, CPC
199 (HN) và CPC 242 (HN); Kew, K000634520; Natural History Museum,
BM000901357; Herbarium Musei Parisiensis, P01645340…; Trung Quốc (Đài
Loan), 041317…; Trung Quốc (Xishuangbanna), 2844, 065815; Virtual
Herbaria Austria, 2770.
Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ làm thuốc ho, chữa viêm họng, cảm sốt, cảm
lạnh.
Ảnh - Tế tân hoa có đuôi
(Asarum caudigerum Hance)
chụp tại KBTTN Na Hang
(Tuyên Quang)
3.1.1.2.5. Asarum glabrum Merr. - Tế tân nhẵn
Cây thảo sống nhiều năm, cao 20-30 cm. Thân rễ ngắn, tròn, có đốt; mang

nhiều rễ phụ dài; có thể phân nhánh. Lá mọc so le, gồm 2-3 cái; cuống dài
10-17 cm, nhẵn, khi non màu tía sau chuyển thành màu lục nhạt. Phiến lá
mỏng, hình tim nhọn đầu, cỡ 13-18 × 8-12 cm; gốc lá tạo thành 2 thùy, gần
nhọn, cách xa nhau; mặt trên lá nhẵn, mặt dưới có lông thưa ở gân; mép
nguyên. Hoa thường chỉ có 1 cái, mọc ở kẽ lá; cuống hoa dài 3 cm, màu tím
nâu, thường mọc rủ xuống, nhưng hoa lại hướng cong lên. Lá đài hợp thành
ống 3-3,5 cm, thắt lại 1/3 phía trên, màu nâu xám hình phễu hơi cong; đầu
chia thành 3 thùy tam giác hay hình mác, mặt ngoài có 7 đường vân chạy
dọc; họng màu tím nâu có vân trắng. Nhị 12, chỉ nhị ngắn, màu đỏ tím;
trung đới tròn đầu, vượt trên bao phấn. Nhụy 6, vòi nhụy rời; đỉnh vòi nhụy
chẻ làm 2, hình chữ V. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại, màu nâu xám
nhạt. Hạt nhỏ, màu đen.
Loc. class.: Vietnam: Tonkin: Hanoi, Mt. Bavi, open forests, ca. 600 m, 2
July 1940. Type-Proto.: Petelot 2611 (HT: A).
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 5-6, quả tháng 7-9. Hạt phát tán gần,
nên thấy cây con xung quanh gốc cây mẹ.
Phân bố: Lào Cai (Sa Pa), Hà Giang (Quản Bạ), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và
Hà Nội (Ba Vì).
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT13053; VĨNH PHÚC, NAT12093 (HN);
HÀ NỘI, NAT11073 (HN), 0219 (HNU).
13
Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ của loài Tế tân nhẵn (Asarum glabrum) được
dùng làm thuốc ho, chữa viêm họng, hoa ngâm rượu làm thuốc bổ.
Ảnh - Tế tân nhẵn
(Asarum glabrum Merr.)
chụp tại VQG Ba Vì (Hà
Nội)
3.1.1.2.6. Asarum wulingense C. F. Liang - Tế tân wuling
Cây thân thảo. Thân rễ đứng, dày 3-4 mm, đốt ngắn hơn 5 mm. Lá đơn độc,
cuống lá uốn ngược lại, mặt trên phiến lá màu xanh với các vết trắng, thường

hình trứng hay trứng thuôn, hiếm khi hình tam giác, 7-17 × 5-9 cm, mặt dưới
phủ lông vàng nâu dày đặc, mặt trên thường nhẵn hoặc có lông tơ dài ở gân
bên và gân chính, gốc lá hình tai hoặc hình tim dạng tai, thùy bên lá phân
nhánh, chóp lá nhọn; lá vảy hình trứng, 1,2 × 0,8 cm. Cuống hoa uốn ngược
phủ lông, dài 2 cm. Lá đài hợp lại ở thành bầu, đầu chia thành 3 thùy tam
giác hay hình mác, màu đỏ tía, 2-3 × 2-3 cm, mặt ngoài phủ lông tơ vàng nâu
dày đặc; ống đài hình trụ, 2,5 × 1,2 cm, mở rộng dần, không thắt lại, mặt
trong có sọc theo chiều dọc, miệng hình tròn, rộng 1 cm. Nhị 12, chỉ nhị ngắn
hơn bao phấn, trung đới kéo dài vượt bao phấn, hình lưỡi. Bầu dưới. Vòi nhụy
rời, chẻ 2 ở chóp; núm nhụy ở bên. Mùa ra hoa vào tháng 12-4.
Loc. class.: China: Guangxi: Longsheng, moist shady areas, ca. 1100 m, 14
Oct. 1956. Type-Proto.: S. L. Yu et al. 700702; HT: IBG (fl.).
Phân bố: Hà Giang (Quản Bạ), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và Hà Tĩnh (Hương
Sơn). Còn có ở Trung Quốc. Hiện tại chúng tôi chưa thu được mẫu của loài
này.
Giá trị sử dụng: Chưa rõ.
3.1.1.2.7. Asarum petelotii O.C. Schmidt - Tế tân petelot
Thân thảo. Thân rễ nằm ngang, đường kính 4-5 mm. Thân đứng mang 2 lá,
cuống lá dài 10-24 cm. Lá có phiến dạng hình trứng, trứng thuôn hay hình
mác thuôn, 13-23 × 8-13 cm; mặt dưới của phiến lá có lông tơ thưa ở gân lá,
mặt trên nhẵn; mép lá có lông cứng nhỏ; gốc lá có tai hay hình mác, thùy
14
bên phân nhánh, 7 × 6 cm; chóp lá nhọn. Vãy chồi hình trứng mũi giáo, 2 ×
1 cm; mép lá vảy có lông tơ dày. Cuống hoa mọc hướng thẳng lên, dài 3-5
cm; đài hoa màu tím hoặc tím nhạt; lá đài hợp lại thành ống hình trụ thường
nghiêng sang một bên ở thành bầu và mở rộng dần, hơi hẹp ở vòng miệng;
mặt ngoài nhẵn, mặt trong có sọc; thùy lá đài hình trứng, 2,5 × 2 cm, mặt
ngoài có 5 đường vân chạy dọc không rõ, mặt trong với một nữa bề mặt
màu đỏ tía, gần mép thùy màu vàng nhạt. Nhị 12, bao phấn dài 2 mm, trung
đới hình lưỡi, vượt lên bao phấn. Nhụy 6, vòi nhụy rời; đỉnh vòi nhụy chẻ 2,

hình chữ V. Bầu trung. Quả phát triển trong bao hoa tồn tại, màu đỏ tía
(hình 3.17).
Ảnh - Tế tân petelot (Asarum
petelotii O.C. Schmidt)
chụp tại VQG Tam Đảo
(Vĩnh Phúc)
Loc. class.: Vietnam. Typus: Petelot 3891 (P).
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 4-5, quả tháng 6-8. Hạt phát tán gần,
nên thấy cây con xung quanh gốc cây mẹ.
Phân bố: Lào Cai (Sa Pa) và Vĩnh Phúc (Tam Đảo). Còn có ở Trung Quốc
(Vân Nam).
Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT13054 (HN); VĨNH PHÚC, NAT12094
(HN); Petelot, 5009, 3891, 5036 (P).
Giá trị sử dụng: Rễ và thân rễ của loài Tế tân petelot (Asarum petelotii)
được dùng làm thuốc ho, chữa viêm họng, hoa ngâm rượu làm thuốc bổ.
3.1.1.2.8. Asarum blumei Duch. - Tế tân blume
Cỏ nhiều năm; thân ngắn, dài 1-2 cm, mang ít rễ to 1,5 mm, có ít rễ con. Lá
2; cuống dài đến 10 cm, không lông; phiến hình tim mũi giáo, to 8 × 4 cm,
mặt trên xám lục, mặt dưới ửng nâu, gân đáy 3(5), gân phụ 2 cặp; bìa lá
không răng. Cuống hoa dài 1,5 cm. Lá đài hợp gắn lại ở thành bầu, tạo
thành hình ống, không nghiêng, vùng cổ rộng, phồng xung quanh bầu, dài
1,5-2 cm; thùy lá đài 3, tròn dài, cao 1 cm. Nhị 12; vòi nhụy rời, đỉnh vòi
nhụy chẻ 2. Quả nang, bầu 6 ô.
15
Phân bố: Hà Giang, Lạng Sơn và Vĩnh Phúc. Còn có ở Malaixia, Nhật Bản
(Suruga) (phụ lục 6.8). Hiện tại chúng tôi chưa thu được mẫu của loài này.
Mẫu nghiên cứu: Pháp (Pari), P01645370 và P01645371.
Giá trị sử dụng: Rễ cây chứa tinh dầu mà thành phần chủ yếu là safrole và
eugenol, được dùng làm thuốc chữa viêm phế quản, ho và chữa thủy thũng.
Nhân dân thường dùng làm thuốc gây nôn.

3.1.1.2.9. Asarum reticulatum Merr. - Tế tân mạng
Thân nằm rồi đứng, đơn độc hay phân nhánh, nhẵn, đường kính đến 3 mm,
có rễ sái vị, ngắn. Lá hình tim thuôn, như da, cả hai mặt nhẵn, 13-17 × 6-8
cm, nhọn hoặc nhọn dần; gốc lá hình tim, thùy lá ngắn hoặc hơi xòe, hình
trứng, tròn, 2,5-4 × 2,5-3,5 cm; mép lá có răng nhỏ không đều, có lông tơ;
gân chính 3, rõ, lồi ở mặt dưới lá, thêm hai gân mãnh từ gốc thùy lá kéo dài
ra, hình mạng lưới thưa rõ ở phía dưới, không dính liền; cuống lá dài 8-9
cm. Lá đài hợp thành ống ở thành bầu, mở rộng dần, dài 3-3,5 cm, mặt
ngoài nhẵn, gốc gồ lên, rộng 1,8 cm (phần thắt lại), phía cổ họng hơi thắt
lại, hướng xuống dưới, thùy hình trứng rộng, tròn, chiều dài khoảng 2 cm;
lá vảy hình mũi giáo, nhọn dần, dài khoảng 1,5 cm, ở mép có ít hoặc nhiều
lông tơ. Nhị 12, chỉ nhị vượt lên bao phấn, bao phấn dài 2 mm; trung đới
hình lưỡi, tròn, ngắn. Nhụy 6, vòi nhụy rời; đỉnh vòi nhụy chẻ làm 2, hình
chữ V.
Ảnh - Tế tân mạng
(Asarum reticulatum
Merr.) chụp tại VQG
Hoàng Liên (Sa Pa,
Lào Cai)
Loc. class.: Vietnam: Tonkin: Chapa, 1500 m, 1935. Typus: Petelot 2554
(HT: A).
Sinh học và sinh thái: Mùa hoa tháng 3-4, quả tháng 5-6. Hạt non phát
triển bình thường trong quả, chưa thấy cây cho quả chứa hạt già, quả non
thường mọc sát mặt đất và bị thối rữa khi có mưa. Loài này đa số tái sinh
bằng chồi, chưa thấy cây con mọc xung quanh gốc cây mẹ. Cây ưa ẩm, ưa
16
bóng; thường mọc trên đất nhiều mùn dọc theo hành lang khe suối, sườn
núi, 2 bên đường mòn trong rừng, dưới tán rừng kín thường xanh ẩm, ở độ
cao 1.500-1.700 m.
Phân bố: Mới thấy ở Lào Cai (Can Hồ B, Bản Khoang, Sa Pa).

Mẫu nghiên cứu: LÀO CAI, NAT12045, NAT13055 (HN); Petelot 2554
(HNU).
Giá trị sử dụng: Dân tộc Dao Đỏ sử dụng cả cây làm thuốc chữa bệnh trĩ và
thuốc kháng sinh.
3.1.1.3. Một số ghi nhận mới về đặc điểm các loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) ở Việt Nam
3.1.1.3.1. Đặc điểm hình thái
Theo các mô tả trước đây, trong cấu trúc hoa của các loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) không tồn tại tràng hoa ở bao hoa, chỉ có lá đài gắn lại với nhau
hợp ở thành bầu và tạo thành ống đài hoặc rời và tạo thành ống đài giả phía
trên bầu. Khi phân tích cấu trúc hoa ở các loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum
caudigerum), loài Tế tân lá hình tim (Asarum cordifolium) và loài Tế tân
petelot (Asarum petelotii), chúng tôi phát hiện có sự tồn tại của tràng hoa
tiêu biến ở dạng hình kim, dài khoảng 0,3 cm (hình 3.21). Ở các loài Tế tân
vân nam (Asarum yunnanense), Tế tân balansa (Asarum balansae), Tế tân
nhẵn (Asarum glabrum) và Tế tân mạng (Asarum reticulatum) có phát hiện
tràng hoa ở một số ít cá thể.
3.1.1.3.2. Mùa ra hoa
Qua các đợt khảo sát từ năm 2010 đến năm 2013 tại Lào Cai (Sa Pa), Hà
Giang (Quản Bạ), Tuyên Quang (Na Hang), Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Hà Nội
(Ba Vì) và Thanh Hóa (Thường Xuân) theo các mùa khác nhau trong năm,
chúng tôi đã ghi nhận được mùa hoa và mùa quả của các loài thuộc chi Tế
tân (Asarum L.).
Kết quả cho thấy, thời điểm ra hoa, quả chín và phát tán hạt theo ghi nhận
của chúng tôi thường sớm hơn so với những ghi nhận trước đây.
3.1.1.3.3. Phân bố
Qua việc đánh dấu định vị tại các điểm nghiên cứu, chúng tôi đã ghi nhận và
xây dựng đai độ cao phân bố của các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt
Nam (bảng 3.5). Qua bảng 3.5 cho thấy, loài Tế tân vân nam (A. yunnanense)
mới phát hiện một số ít cá thể ở độ cao 410 m tại Tuyên Quang (Na Hang);

loài Tế tân banlansa (A. balansae) mới phát hiện phân bố ở độ cao 200-400 m
tại Tuyên Quang (Na Hang), Hà Nội (Ba Vì), Hòa Bình (Lạc Sơn), Thanh
Hóa (Thường Xuân) và Quảng Trị (Hướng Hóa); loài Tế tân lá hình tim (A.
cordifolium) ở độ cao 1.500-1.700 m tại Lào Cai (Sa Pa); loài Tế tân hoa có
đuôi (A. caudigerum) ở độ cao 700-1.000 m tại Tuyên Quang (Na Hang) và
Hà Giang (Quản Bạ); loài Tế tân nhẵn (A. glabrum) ở độ cao 900-1.100 m tại
17
Lào Cai (Sa Pa), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và Hà Nội (Ba Vì); loài Tế tân petelot
(A. petelotii) ở độ cao 1.000-1.600 m tại Lào Cai (Sa Pa) và Vĩnh Phúc (Tam
Đảo); loài Tế tân mạng (A. reticulatum) ở độ cao 1.500-1.700 m tại Lào Cai
(Sa Pa). Những ghi nhận về đai độ cao phân bố của các loài thuộc chi Tế tân
(Asarum L.) khác biệt so với những ghi nhận trước đây.
3.1.2 Kết quả điều tra về vốn tri thức bản địa của cộng đồng trong việc
sử dụng các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) làm thuốc
Tế tân balansa (Asarum balansae)
+ Thuốc tắm: Lấy lá làm thuốc tắm chữa bệnh đau nhức xương khớp
+ Men rượu: Lá loài Tế tân balansa (Asarum balansae) kết hợp với các loài
khác làm men rượu, sản xuất rượu ngô men lá.
Tế tân lá hình tim (Asarum cordifolium)
+ Toàn cây sử dụng làm thuốc tắm trị đau lưng, nhiễm trùng vết thương và
trị bệnh trĩ.
Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum)
Rễ và thân rễ làm thuốc ho, chữa viêm họng, cảm sốt, cảm lạnh.
Tế tân nhẵn (Asarum glabrum)
+ Thuốc tắm: Sử dụng lá làm thuốc tắm chữa trị bệnh đau bụng, đau mắt,
thâm mắt, làm tan mộng mắt và trị thấp khớp.
+ Thuốc bổ: Sử dụng hoa ngâm với rượu uống hàng ngày, trị bệnh mất ngủ,
đau đầu, thần kinh suy nhược và ăn uống ngon miệng.
Tế tân mạng (Asarum reticulatum)
+ Toàn cây được sử dụng điều trị bệnh trĩ: sắc uống điều trị trĩ nội; sắc uống

và giã nát đắp điều trị trĩ ngoại (Phụ nữ mang thai và cho con bú không
được sử dụng).
+ Làm thuốc kháng sinh: Giã nát đắp điều trị các vết thương, lỡ loét ngoài
da, u nhọt.
+ Thuốc tắm: Toàn cây được sử dụng làm thuốc tắm gây ra thai.
3.1.3. Thăm dò khả năng nhân giống và xây dựng mô hình bảo tồn
một số loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.)
3.1.3.1. Loài Tế tân balansa (Asarum balansae)
3.1.3.1.1. Khả năng tái sinh tự nhiên của loài Tế tân balansa (Asarum
balansae) tại Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang
Cây tái sinh có nguồn gốc từ chồi chiếm ưu thế (từ 76,6-97,5%); cây tái
sinh có nguồn gốc từ hạt chiếm tỷ lệ tương đối thấp (từ 2,5-23,4%). Chất
lượng tái sinh không đồng đều giữa các khu vực.
18
3.1.3.1.2. Đặc điểm phân bố của loài Tế tân balansa (Asarum balansae)
tại Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang trong các cấu trúc thảm
thực vật
Phân bố theo kiểu rừng
Tại Bản Bung, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang hầu hết phân bố ở kiểu
rừng nhiệt đới thường xanh mưa ẩm trên núi thấp, chủ yếu ở chân và sườn
núi.
Phân bố theo trạng thái và sinh cảnh
Theo trạng thái rừng: Tế tân balansa (Asarum balansae) phân bố tập trung
chủ yếu ở trạng thái rừng IIIA2, thuộc vùng lõi của KBTTN Na Hang.
Về sinh cảnh: Tế tân balansa (Asarum balansae) chủ yếu phân bố trên đất,
chúng mọc sát ngay bề mặt đất, nơi đất giàu mùn; độ ẩm, độ xốp và ánh
sáng cao; thoáng khí. Đôi khi thấy xuất hiện trên các hốc đá. Có thể bắt gặp
loài Tế tân balansa (Asarum balansae) ở những nơi ẩm ướt, ven các suối,
dưới tán rừng cây gỗ nhỏ, chủ yếu ở hai bên đường mòn đi lại trong rừng.
Phân bố theo địa hình và đai cao

Về địa hình: Phân bố chủ yếu ở dạng địa hình như chân núi, có thể bắt gặp
một số ít cá thể ở sườn núi, chưa bắt gặp ở đỉnh núi và dông núi.
Về đai cao: Phân bố theo đai cao của loài Tế tân balansa (Asarum balansae)
rất rộng, từ 201 m đến 1200 m. Với điều kiện về độ cao này, rất thích hợp
cho việc gây trồng tự nhiên, nhằm bảo tồn và sử dụng bền vững loài biến
hóa núi cao (A. balansae) tại khu vực Bản Bung, xã Thanh Tương, huyện
Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
3.1.3.1.3. Khả năng nhân giống của loài Tế tân balansa (Asarum
balansae)
Tại 2 địa điểm ở Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang là tại rừng rừng tự
nhiên (thung Lung Khăm) và tại vườn ươm (Bản Bung), sau 41 ngày nhân
giống, tỷ lệ ra rễ từ hom thân rễ (58,33%-81,3%) cao hơn so với hom ngọn
(42,5%-57%); tỷ lệ ra rễ của hom thân rễ và hom ngọn ở vườn rừng tự
nhiên tại thung Lung Khăm (57%-81,3%) cao hơn so với vườn ươm tại Bản
Bung (42,5%-58,33%). Đặc biệt, chưa thấy cây nảy mầm từ hạt. Điều này
phù hợp với khả năng tái sinh tự nhiên của loài Tế tân balansa (Asarum
balansae) từ chồi trong điều kiện tự nhiên.
3.1.3.1.4. Tình trạng
Loài Tế tân balansa (Asarum balansae) được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam
(2007) với cấp đánh giá EN A1,c,d; B1 +2b,c. và Danh lục thực vật rừng và
động vật rừng nguy cấp, quí hiếm (nhóm 2A) trong Nghị Định 32/2006/NĐ-
CP để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Các điểm phân bố
không nhiều và cách xa nhau, dễ gặp rủi ro vì cây chủ yếu mọc ven rừng,
cạnh lối đi. Tại Hà Nội (Ba Vì), quần thể mọc chủ yếu ở độ cao từ 400-500
m, gần khu vực Đền Trung, tuy nhiên, cây thường mọc rải rác số lượng cá thể
19
không nhiều. Tại Tuyên Quang (Bản Bung, Na Hang), các điểm bắt gặp ở độ
cao từ 200 đến 600 m, mật độ phân bố cao hơn, nhưng không đồng đều trong
khu vực; ngoài ra còn gặp ở khu vực Hòa Bình (Lạc Sơn), Thanh Hóa
(KBTTN Xuân Liên) và Quảng Trị (Hướng Hóa).

3.1.3.1.5. Mô hình bảo tồn
Trên cơ sở những khảo sát tại khu vực nghiên cứu chúng tôi tiến hành
nghiên cứu và đưa ra mô hình bảo tồn sau đây:
Bảo tồn nguyên vị: Khoanh nuôi tự nhiên trên diện tích 200 m
2
(với số
lượng 900 cây) tại khu vực Lung Khăm (độ cao từ 400 đến 600 m) và trồng
mới 200 m
2
(800 cây con nhân giống) dưới tán rừng tự nhiên, thuộc Bản
Bung, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Nhìn chung, tại khu vực khoanh
nuôi và trồng mới, cây sinh trưởng và phát triển tốt.
Bảo tồn chuyển vị: Trồng dưới tán rừng trong khu vực vườn rừng của một
số hộ tại Bản Bung ở độ cao 200-430 m, diện tích 100 m
2
với số lượng 240
cây con đã nhân giống. Cây có đủ độ che sáng và độ ẩm, được chăm sóc tốt
nên sinh trưởng và phát triển cũng khá, tỷ lệ cây sống khá cao đạt 50,41%.
3.1.3.2. Loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum)
3.1.3.2.1. Khả năng tái sinh tự nhiên của loài Tế tân hoa có đuôi
(Asarum caudigerum) tại Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang
Kết quả cho thấy, loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) phân bố tập
trung dọc theo đường mòn sườn núi, nơi có độ ẩm cao, độ che thấp. Tại các
chân núi, ít gặp; đặc biệt, tại các đỉnh và rông núi, không thấy xuất hiện loài
này. Cây chủ yếu tái sinh bằng hạt và chồi.
3.1.3.2.2. Đặc điểm phân bố của loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum
caudigerum) tại Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang trong các cấu
trúc thảm thực vật
Phân bố theo kiểu rừng
Kết quả điều tra tại Bản Bung, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang cho thấy, loài

Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) phân bố ở kiểu rừng nhiệt đới
thường xanh mưa ẩm trên núi thấp, chủ yếu ở sườn và chân núi.
Phân bố theo trạng thái và sinh cảnh
Theo trạng thái rừng: Loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) phân
bố tập trung chủ yếu ở trạng thái rừng IIIA2, thuộc vùng lõi của KBTTN
Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
Về sinh cảnh: Loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) chủ yếu phân
bố trên đất, chúng mọc sát ngay bề mặt đất, nơi đất giàu mùn; độ ẩm, độ
xốp cao; thoáng khí; ưa sáng. Đôi khi thấy xuất hiện trên các hốc đá, hay
những nơi ẩm ướt, ven các suối, dưới tán rừng cây gỗ nhỏ, chủ yếu ở hai
bên đường mòn đi lại trong rừng.
Phân bố theo địa hình và đai cao
20
Về địa hình: Phân bố chủ yếu ở dạng địa hình sườn núi, có thể bắt gặp một
số ít cá thể ở chân núi, chưa bắt gặp ở đỉnh núi và rông núi.
Về đai cao: Phân bố về độ cao của loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum
caudigerum) rất rộng, từ 754 m đến 1.800 m. Với điều kiện về độ cao này,
rất thích hợp cho việc gây trồng tự nhiên, nhằm bảo tồn và sử dụng bền
vững loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) tại khu vực bản Bung,
xã Thanh Tương, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
3.1.3.2.3. Khả năng nhân giống của loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum
caudigerum)
Tại 2 địa điểm ở bản Bung là tại vườn rừng tự nhiên (thung Pu Cọ) và tại
vườn ươm (Bản Bung), tỷ lệ ra rễ từ hom thân rễ (12,5%-87,3%) cao hơn so
với hom ngọn (6,67%-80,1%). Tỷ lệ ra rễ ở vườn rừng tự nhiên (Pu Cọ) cao
hơn rất nhiều so với tỷ lệ ra rễ ở vườn ươm (Bản Bung). Đặc biệt, chưa thấy
cây nảy mầm từ hạt.
3.1.3.2.4. Tình trạng
Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) được xếp hạng VU (Sẽ nguy cấp)
trong Sách Đỏ Việt Nam (2007) và thuộc nhóm II trong Nghị Định

32/2006/NĐ-CP của Chính phủ để hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích
thương mại. Các ven rừng, hai bên đường mòn trong rừng. Qua các đợt
khảo sát, chưa phát hiện loài Tế tân hoa có đuôi (Asarum caudigerum) tại
Hà Nội (Ba Vì), Vĩnh Phúc (Tam Đảo) và Lào Cai (Sa Pa). Mới chỉ gặp loài
này tại Tuyên Quang (Na Hang) và Hà Giang (Quản Bạ) với số lượng cá thể
khá nhiều, tuy nhiên, phân bố không đồng đều giữa các khu vực khác nhau.
3.1.3.2.5. Mô hình bảo tồn
Trên cơ sở những khảo sát tại khu vực nghiên cứu chúng tôi tiến hành
nghiên cứu và đưa ra mô hình bảo tồn sau đây:
Bảo tồn nguyên vị: Khoanh nuôi tự nhiên (300 cây) và trồng mới (600 cây
nhân giống) trên diện tích 200 m
2
/mỗi nơi, ở độ cao trên 900 m, tại thung
Pu Cọ thuộc Bản Bung, huyện Na Hang, Tuyên Quang; Cây sinh trưởng và
phát triển tốt, tỷ lệ sống đạt 80%.
Bảo tồn chuyển vị: Tại bản Bung ở độ cao 400 m; diện tích 100 m
2
với số
lượng 400 cây con đã nhân giống. Tuy được chăm sóc cẩn thận nhưng cây
sinh trưởng và phát triển kém, tỷ lệ sống thấp đạt 6-12%.
3.1.3.3. Loài Tế tân nhẵn (Asarum glabrum)
3.1.3.3.1. Khả năng nhân giống bằng hom
Thử nghiệm nhân giống bằng hom thân loài Tế tân nhẵn (Asarum glabrum)
tại VQG Tam Đảo (Vĩnh Phúc).
Từ kết quả thu được ở trên cho chúng ta thấy, loài Tế tân nhẵn (Asarum
glabrum) khi không xử lý thuốc (công thức đối chứng) cho tỷ lệ ra rễ không
cao (40%). Tỷ lệ ra rễ của các hom có xử lý thuốc kích thích (IBA, NAA và
IAA) đạt từ 77,1% đến 91,4%. Thời vụ nhân giống vào mùa xuân và mùa
21
thu là phù hợp cho việc nhân giống. Tỷ lệ ra rễ khá cao cho thấy khả năng

nhân giống bằng hom thân loài Tế tân nhẵn (Asarum glabrum) này là rất
khả thi và có thể thực hiện thành công được.
3.1.3.3.2. Tình trạng
Mặc dù cây bắt gặp ở nhiều điểm phân bố như Lào Cai (Sa Pa), Hà Giang
(Quảng Bạ), Hà Nội (Ba Vì) và Vĩnh Phúc (Tam Đảo) nhưng ở mỗi điểm số
lượng cá thể không nhiều, các quần thể thường nhỏ và bị phân cắt. Do bị
phá rừng làm nương rẫy cũng như do bị khai thác quá mức để sử dụng hay
buôn bán qua biên giới, cho nên, nơi sống và số lượng cá thể và kích thước
quần thể của loài bị ảnh hưởng, loài được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam 2007
với cấp đánh giá VU A1,c,d và Danh lục thực vật rừng và động vật rừng
nguy cấp, quí hiếm (nhóm 2A) trong Nghị Định 32/2006/NĐ-CP để hạn chế
khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại.
3.1.3.3.3. Mô hình bảo tồn
Trên cơ sở những khảo sát tại khu vực nghiên cứu chúng tôi tiến hành
nghiên cứu và đưa ra mô hình bảo tồn sau đây:
Bảo tồn nguyên vị: Khoanh nuôi tự nhiên tại khu vực ven đường núi Rùng
Rình (độ cao trên 1.000 m), thuộc thị trấn Tam Đảo, Vĩnh Phúc (VQG Tam
Đảo) diện tích 200 m
2
với số lượng 80 cây (trung bình khoảng 4.000
cây/ha). Số lượng cây không nhiều nhưng sinh trưởng và phát triển tốt. Tại
xã Thái An, Quản Bạ, Hà Giang với diện tích 100 m
2
dưới tán rừng khu vực
chân núi ở độ cao 1.100 m, với số lượng 600 cây. Cây sinh trưởng và phát
triển tốt.
Bảo tồn chuyển vị: Trồng cây dưới tán rừng khu vực Vườn thực vật tại Ban
quản lý VQG Tam Đảo ở độ cao 200 m; diện tích 150 m
2
với số lượng 500

cây con đã nhân giống. Tuy trồng dưới tán với độ ẩm và độ che sáng hợp lý,
chăm sóc cẩn thận, nhưng cây sinh trưởng và phát triển chậm, tỷ lệ sống đạt
60%.
3.2. THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA MỘT SỐ LOÀI THUỘC
CHI TẾ TÂN (ASARUM L.) Ở VIỆT NAM
3.2.1. Thành phần hóa học chủ yếu trong tinh dầu của một số loài thuộc
chi Tế tân (Asarum L.)
Hàm lượng tinh dầu của loài Asarum balansae đạt 0,02% (theo nguyên liệu
khô không khí). Tinh dầu là chất lỏng màu vàng chanh, có mùi thơm nhẹ và
nặng hơn nước. Tinh dầu từ loài Aarum balancae chứa 18 hợp chất, trong
đó, thành phần hóa học chính của tinh dầu là elemicin (71,53%) và trans
isoelemicin (19,85%).
Hàm lượng tinh dầu của loài Asarum yunnanense đạt 0,16% (theo nguyên
liệu khô không khí). Thành phần hóa học chính của tinh dầu là E-methyl
isoeugenol (47,39%); Cis-β-elemene (5,94%), bicyclogermacren (4,58%)
Myristicine (4,26%); δ-elemene (4,90%).
22
Hàm lượng tinh dầu của loài Asarum reticulatum đạt 0,002% (theo nguyên
liệu khô không khí). Thành phần hóa học chính của tinh dầu là myristicine
(59,06%); dilapiole (17,67%). Các hợp chất khác có tỷ lệ nhỏ là elemicine
(2,29%) và 2-caren (2,1%).
Hàm lượng tinh dầu của loài Asarum cordifolium đạt 0,22% theo nguyên liệu
khô không khí. Thành phần hóa học chính của tinh dầu là elemicin (84,38%) và
methyl eugenol (3,63%).
Ở loài Tế tân nhẵn (Asarum glabrum), hàm lượng tinh dầu từ phần trên mặt
đất của cây đạt 0,36% (theo nguyên liệu khô không khí). Thành phần chính
là: safrol (chiếm 42,24%), apiole (27,11%) và myristicin (6,13%).
3.2.2. Nghiên cứu phân lập và xác định cấu trúc các hợp chất từ một số
loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam
3.2.2.1. Nghiên cứu phân lập và xác định cấu trúc các hợp chất từ loài

Asarum glabrum
Từ loài Asarum glabrum, chúng tôi đã phân lập và xác định cấu trúc được
02 hợp chất:
1) Hợp chất AS1: có cấu trúc là 3-methyl-8-hydroxy-3,4-
dihydroisocoumarin-6-O-
β
-D-glucopyranoside
O
OH O
O
OH
HO
HO
HO
1
3
4
5
6
7
8
9
10
1'
2'
3'
4'
5'
6'
11

O
O
OH O
O
OH
HO
HO
HO
O
2) Hợp chất AS3: có cấu trúc là 3-methyl-6-methoxy-3,4-
dihydroisocoumarin-8-O-
β
-D-glucopyranoside
3.2.2.2. Phân lập và xác định cấu trúc hóa học các hợp chất từ loài
Asarum balansae
Từ loài Asarum balansae, chúng tôi phân lập và xác định cấu trúc được 05
hợp chất
1) Hợp chất ABW4.2: có cấu trúc là threo-1-(3-hydroxy-4-
methoxyphenyl) propan-1,2-diol
O
HO
OH
HO
4'
3'
2'
1'
6'
5'
1

2
3
ABW4.2
23
2) Hợp chất ABW3.1: có cấu trúc là kaempferol 7-O-α-L-
rhamnopyranoside
3) Hợp chất ABW6.3: có cấu trúc là Naringenin-5,7-di-O-
β
-D-
glucopyranoside
4) Hợp chất ABW1.3: kaempferol 3-O-β-D glucopyranoside
5) Hợp chất ABW1.4.2: kaempferol 3-O-β-D galactopyranoside
ABW3.1 ABW1.3 ABW1.4.2
3.3. KẾT QUẢ THỬ NGHIỆM HOẠT TÍNH SINH HỌC
3.3.1. Hoạt tính kháng vi sinh vật
Bảy dịch chiết thô (AS1, AS3, AS-Me, AB-Me, AB.W1.3, AB.W4.2 và
AB.W6.3) và các phân đoạn của 3 loài Asarum glabrum, A. balansae và A.
caudigerum được thử hoạt tính kháng 8 loại vi sinh vật kiểm định (VSVKĐ)
trên các phiến vi lượng 96 giếng. Kết quả cho thấy, có 3 mẫu thể hiện hoạt
tính kháng yếu đối với các VSVKĐ là AS-Me và AB-Me.
3.3.2. Hoạt tính gây độc các dòng tế bào ung thư
3 loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) đều không biểu hiện hoạt tính gây độc
dòng tế bào ung thư.
3.3.3. Hoạt tính chống oxy hóa
2 mẫu ký hiệu ABW-3.1 và ABW-4.2 có biểu hiện hoạt tính chống oxy hóa
trên hệ DPPH.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
1. Đề tài mô tả chi tiết đặc điểm sinh học, sinh thái, phân bố và công dụng
của 7 loài đã biết thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam, trong đó, đã bổ

sung 2 loài Tế tân vân nam (Asarum yunnanense) và Tế tân lá hình tim
24
(Asarum cordifolium) cho hệ thực vật Việt Nam, nâng tổng số loài thuộc chi
(Asarum L.) ở Việt Nam lên 9 loài.
2. Tái sinh tự nhiên: Các loài Tế tân chủ yếu tái sinh bằng chồi, tái sinh
bằng hạt chiếm tỷ lệ nhỏ; cây thường mọc ven đường mòn trong rừng, gần
suối, độ ẩm và ánh sáng cao.
3. Nhân giống và bảo tồn: Đã nghiên cứu khả năng nhân giống các loài
Asarum balansae, A. glabrum và A. caudigerum. Cây ra rễ từ hom thân
chiếm tỷ lệ cao; chưa thấy hạt nãy mầm trong phòng thí nghiệm.
Có thể bảo tồn (nguyên vị) bằng mô hình khoanh nuôi tự nhiên và trồng
mới dưới tán rừng tại khu vực vườn rừng các loài Asarum balansae ở bản
Bung, Na Hang (Tuyên Quang), A. glabrum ở VQG Tam Đảo (Vĩnh Phúc)
và A. caudigerum ở Na Hang (Tuyên Quang). Nhìn chung cây sinh trưởng
và phát triển tốt.
Việc bảo tồn (chuyển vị) bằng việc trồng mới dưới tán rừng tại khu vực
vườn rừng loài Asarum balansae ở bản Bung, Na Hang (Tuyên Quang) là
có khả quan, cây sinh trưởng phát triển khá, tuy nhiên việc bảo tồn loài
Asarum glabrum tại vườn thực vật Tam Đảo thuộc VQG Tam Đảo và ở
KBTTN Bát Đại Sơn và loài Asarum caudigerum ở Na Hang (Tuyên
Quang) còn chưa tốt, cây đạt tỷ lệ sống thấp, cây sinh trưởng và phát triển
chậm.
4. Thành phần hóa học của tinh dầu: Thành phần hóa học chính của tnh
dầu loài Asarum reticulatum là myristicin (59,06%) và dilapiol (17,67%);
loài Asarum balansae là elemicin (71,53%) và trans-isoelemicin (19,85%);
loài Asarum cordifolium là elemicin (84,38%) và methyl eugenol (3,63%);
loài Asarum yunnanense là E-methyl isoeugenol (47,39%), cis-β-elemen
(5,94%), bicyclogermacren (4,58%), myristicin (4,26%) và δ-elemen
(4,90%); loài Asarum glabrum là safrol (42,24%), apiole (27,11%) và
myristicin (6,13%). Đây là các dẫn liệu mới về thành phần hóa học của tinh

dầu các loài thuộc chi Tế tân (Asarum L.) ở Việt Nam.
5. Hoạt tính sinh học: Hai mẫu, ký hiệu ABW-3.1 và ABW-4.2 của loài A.
balansae có biểu hiện hoạt tính chống oxy hóa trên hệ DPPH. Dịch chiết
AS-Me (A. glabrum) có tác dụng kháng vi khuẩn Gram (+) E. coli và nấm
mốc A. niger; dịch chiết AB-Me (A. balansae) có tác dụng kháng vi khuẩn
Gram (+) là E. coli, P. aeruginosa; Gram (-) là S. aureus và nấm mốc A.
niger; Gram (-) là S. aureus và nấm mốc A. niger, F. oxysporon.
6. Thành phần các hợp chất hóa học: Từ dịch chiết metanol của cây
Asarum glabrum hai hợp chất isocoumarin đã được phân lập. Cấu trúc của
chúng được xác định là 3-methyl-6-metoxy-3,4-dihydroisocoumarin-8-O-α-
D-glucopyranoside (AS1) và 3-methyl-8-hydroxy-3,4-dihydroisocoumarin-
6-O-α-D-glucopyranoside (AS3) dựa vào các phương pháp phổ kết hợp.
25

×