Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Báo cáo tài chính và tính hữu ích của báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.14 KB, 43 trang )

Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH 2
1.1. Lý luận chung về Báo cáo tài chính: 2
1.1.1. Khái niệm: 2
1.1.2. Bản chất: 3
1.1.3. Nội dung: 3
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của Báo cáo tài chính 4
1.1.4.1: Mục đích của Báo cáo tài chính 4
1.1.4.2. Ý nghĩa của Báo cáo tài chính 4
1.1.4.3. Yêu cầu của Báo cáo tài chính 5
1.1.6.1. Bảng cân đối kế toán 6
1.1.6.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 6
1.2. Nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính 8
1.2.1. Nguyên tắc hoạt động liên tục 8
1.2.1.1 Nguyên tắc hoạt động liên tục 8
1.2.1.2 Cơ sở dồn tích 8
1.2.1.3 Nguyên tắc nhất quán 8
1.2.1.4 Trọng yếu và tập hợp 8
1.2.1.5 Nguyên tắc bù trừ 8
1.2.1.6 Nguyên tắc có thể so sánh 9
1.2.2. Các đặc điểm chất lượng và giới hạn của báo cáo tài chính: 10
1.2.2.1. Các đặc điểm chất lượng của báo cáo tài chính: 10
1.2.2.2. Những giới hạn trong các thông tin thích hợp và đáng tin cậy: 12
CHƯƠNG 2: TÍNH HỮU ÍCH CỦA BÁO CÁO TÀI CHÍNH 13
2.1. Một số luận điểm khác liên quan đến tính hữu ích của thông tin 14
2.2. Báo cáo tài chính có thật sự cần thiết trên thị trường chứng khoán? 16
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH HIỆN NAY Ở VIỆT NAM 18
3.1. Thực trạng về báo cáo tài chính ở Việt Nam 18
3.2. Các gian lận thường thấy trong báo cáo tài chính ở Việt Nam 19
3.3.1 Che dấu công nợ và chi phí 19


3.3.2. Bóp méo doanh thu trong kỳ 20
3.3.3. Ghi nhận sai niên độ 21
3.3.4. Không khai báo đầy đủ thông tin 22
CHƯƠNG 4: CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC GIAN LẬN TRONG BÁO CÁO TÀI CHÍNH 23
Tài liệu tham khảo 24
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống, nhu cầu tìm kiếm thu nhập của mỗi người là chính đáng,
trong hoạt động kinh doanh nhu cầu của doanh nghiệp là quản lý tài sản một cách
hiệu quả nhất.
Nhóm 1 - 1 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
Những thông tin mà bất kỳ đối tượng nào quan tâm đến tình hình hoạt động
của Doanh nghiệp đều quan tâm đến đều nằm trong các báo cáo thường gọi là Báo
cáo tài chính.
Nguồn thông tin quan trọng nhất để đánh giá tình trạng sức khỏe tài chính của
công ty là các Báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là phản ánh sự kết hợp của những
sự kiện xảy ra trong quá khứ với những nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận và
những đánh giá của cá nhân nhằm chủ yếu là cung cấp thông tin trình bày trên Báo
cáo tài chính.
Tùy theo lợi ích khác nhau các bên của công ty thường chú trọng đến những
khía cạnh khác nhau, các nhà đầu tư về cơ bản chú trọng đến lợi nhuận hiện tại và lợi
nhuận kì vọng bên cạnh việc chú trọng đến khả năng trả nợ, khả năng sinh lợi của
công ty, còn nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ thường chú trọng đến tình hình thanh
khoản và khả năng thanh toán của công ty. Ở một góc độ khác, nội bộ công ty thì
quan tâm đến hoạch định chiến lược phát triển công ty, kiểm soát hiệu quả hơn tình
hình tài chính của công ty. Các bên liên quan đến lợi ích công ty ở khía cạnh nào đi
nữa thì việc nắm thông tin trên Báo cáo tài chính và hiểu Báo cáo tài chính là đều cần
thiết.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Lý luận chung về Báo cáo tài chính:

1.1.1. Khái niệm:
Nhóm 1 - 2 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
“Báo cáo tài chính là công cụ để phản ánh, truyền đạt thông tin tổng hợp toàn
diện về thực trạng tài chính, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp đạt được từ việc khai thác các nguồn lực kinh tế mà doanh nghiệpnắm giữ,
nhằm thực hiện vai trò cung cấp thông tin cho nhiều đối tượng sử dụng để ra quyết
định” (Võ Văn Nhị, 2009, trang 379)
“Báo cáo tài chính là báo cáo tổng hợp và trình bày một cách tổng quát, toàn
diện tình hình tài sản, nguồn vốn, công nợ, tình hình và kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh của Doanh nghiệp trong một kì kế toán. Báo cáo tài chính còn phản ánh
việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kì báo cáo của doanh nghiệp”.
(Phan Đức Dũng, 2011, Phân tích báo cáo tài chính, trang 21)
1.1.2. Bản chất:
“Báo cáo tài chính là hệ thống các báo cáo với các chỉ tiêu được thiết lập thống
nhất và có mối liên hệ mật thiết với nhau để cung cấp những thông tin về thực trạng
tài chính, tình hình kết quả hoạt động kinh doanh trong một kỳ kế toán, để người sử
dụng báo cáo có thể lấy đó làm cơ sở nhận xét, đánh giá về doanh nghiệp nhằm đưa
ra những quyết định tùy theo mục đích sử dụng của mình.
Báo cáo tài chính là báo cáo có tính bắt buộc, được nhà nước quy định thống
nhất về danh mục báo cáo, biểu mẫu và hệ thống các chỉ tiêu phương pháp lập, nơi
gởi báo cáo và thời gian gởi báo cáo.” (Võ Văn Nhị, 2009, trang 379)
1.1.3. Nội dung:
Thông tin cung cấp trên Báo cáo tài chính giúp cho các đối tượng sử dụng thông
tin đưa ra quyết định thích hợp. Thông tin được trình bày chủ yếu trên Báo cáo tài
chính theo quy định của Luật kế toán, Chuẩn mực kế toán số 21, chế độ kế toán hiện
hành. Theo quy định hiện nay, tất cả Doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần
kinh tế đều phải lập và trình bày Báo cáo tài chính.
Khi lập và trình bày Báo cáo tài chính Doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu
đã được quy định tại Chuẩn mực kế toán số 21 “Trình bày Báo cáo tài chính” như

sau: trình bày một cách trung thực và hợp lý, phản ánh đúng bản chất kinh tế của các
giao dịch, tuân thủ nguyên tắc thận trọng, nguyên tắc trọng yếu.
Nhóm 1 - 3 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
Theo luật kế toán, chuẩn mực kế toán, và chế độ kế toán doanh nghiệp hiện
hành của Việt Nam, hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệpbao gồm bốn báo
cáo sau đây:
Bảng cân đối kế toán Mẫu số B01 – Doanh nghiệp
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Mẫu số B02 – Doanh nghiệp
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Mẫu số B03 – Doanh nghiệp
Bản thuyết minh báo cáo tài chính Mẫu số B09 – Doanh nghiệp
(Võ Văn Nhị, 2009, trang 381)
1.1.4. Mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của Báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là phương pháp tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các
theo các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh có hệ thống tình hình tài sản, nguồn hình
thành tài sản của doanh nghiệp, tình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tình
lưu chuyển các dòng tiền và tình hình vận động sử dụng vốn của doanh nghiệp trong
một thời kỳ nhất định. Do đó, báo cáo tài chính vừa là phương pháp kế toán, vừa là
hình thức thể hiện và chuyển tải thông tin kế toán tài chính đến những người sử dụng
để ra các quyết định kinh tế.
1.1.4.1: Mục đích của Báo cáo tài chính
Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản, nguồn
vốn, công nợ, tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một
kỳ kế toán
Cung cấp các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu cho việc đánh giá tình hình
và kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá thực trạng tài chính của doanh
nghiệp trong hoạt động đã qua và những dự đoán trong tương lai
1.1.4.2. Ý nghĩa của Báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực quản lý kinh tế, thu hút
sự quan tâm của nhiều đối tượng ở bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Mỗi

đối tượng quan tâm đến Báo cáo tài chính trên một góc độ khác nhau song nhìn
chung đều nhằm có được những thông tin cần thiết cho việc ra các quyết định phù
hợp với các mục tiêu của mình:
Nhóm 1 - 4 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
Với nhà quản lý doanh nghiệp: Báo cáo tài chính cung cấp thông tin tổng hợp
về tình hình tài sản, nguồn hình thành tài sản cũng như tình hình và kết quả kinh
doanh sau một kỳ hoạt động, trên cơ sở đó các nhà quả lý sẽ phận tích đánh giá và đề
ra các giải pháp, quyết định quản lý kịp thời, phù hợp cho sự phát triển của doanh
nghiệp trong tương lai
Với các co quan hữu quan của nhà nước: như tài chính, ngân hàng kiểm toán,
thuế…. Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng trong việc kiểm tra giám sát, hướng
dẫn, tư vấn cho doanh nghiệp thực hiện các chính sách, chế độ kinh tế tài chính của
doanh nghiệp
Với các nhà đàu tư, các nhà cho vay: Báo cáo tài chính giúp họ nhận biết khả
năng về tài chính, tình hình sử dụng các loại tài sản, nguồn vốn, khả năng sinh lời,
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, mức độ rủi ro… để họ cân nhắc, lựa chọn và
đưa ra quyết định phù hợp
Với nhà cung cấp: Báo cáo tài chính giúp họ nhận biết khả năng thanh toán,
phương thức thanh toán, để từ đó họ quyết định bán hàng cho doanh nghiệp nữa hay
thôi hoặc cần áp dụng phương thức thanh toán như thế nàp cho hợp lý
Với khách hàng: Báo cáo tài chính giúp họ có những thông tin về khả năng
cũng như chính sách chi trả cổ tức, tiền lương, bảo hiểm xã hội và các vấn đề khác
lien quan đến lợi ích của họ thể hiện trên báo cáo tài chính
1.1.4.3. Yêu cầu của Báo cáo tài chính
Để thực sự trở thành công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế Báo cáo tài
chính phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản dưới đây:
Báo cáo tài chính phải được lập chính xác, trung thực, đúng mẫu biểu đã quy
định, có đầy đủ chữ ký của những người có lien quan và phải có dấu xác nhận của cơ
quan, đơn vị để đảm bảo tính pháp lý của báo cáo

Báo cáo tài chính phải đảm bảo tính thống nhất về nội dung, trình tự và
phương phấp lập theo quyết định của nhà nước, từ đó người sử dụng có thể so sánh
được, đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua các thời kỳ hoặc
giữa các doanh nghiệp khác với nhau
Nhóm 1 - 5 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
Số liệu phản ánh trong Báo cáo tài chính phải rõ ràng đủ độ tin cậy và dễ hiểu
đảm bảo thuận tiện cho những người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính phải
đạt được mục đích của họ
Báo cáo tài chính phải được lập và gửi theo đúng thời hạn quy định
Ngoài ra báo cáo tài chính còn phải đảm bảo tuân thủ các khái niệm, nguyên
tắc và chuẩn mực kế toán được thừa nhận và ban hành. Có như vậy hệ thống báo cáo
tài chính mới thực sự hữu ích mới đảm bảo đáp ứng được yêu cầu của đối tượng sử
dụng để ra các quyết định phù hợp
1.1.5. Đối tượng sử dụng thông tin Báo cáo tài chính
Các đối tượng sử dụng Báo cáo tài chính bao gồm những người bên ngoài đơn
vị (các nhà đầu tư, chủ nợ, Nhà nước, ) và những người bên trong đơn vị (người
quản lý, nhân viên,…).
1.1.6. Hệ thống Báo cáo tài chính:
Mục đích: cung cấp những thông tin tổng quát về tình hình tài sản, nguồn hình
thành tài sản và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, thông tin việc đánh giá tình
hình tài chính, thông tin tạo ra tiền và sử dụng tiền trong kỳ, những thông tin khác.
1.1.6.1. Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán trình bày các thông tin về các nguồn lực kinh tế mà
doanh nghiệp đang nắm giữ và nguồn hình thành các nguồn lực này. Mục đích của
bảng cân đối kế toán là cung cấp thông tin về thực trạng tài chính của một doanh
nghiệp tại một thời điểm nhất định.
Bảng cân đối kế toán giúp những người sử dụng báo cáo tài chính biết được sức
mạnh tài chính tổng thể của doanh nghiệp, tài sản của doanh nghiệp được tài trợ từ
những nguồn nào và khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp.

Bảng cân đối kế toán: tình hình tài chính của một Doanh nghiệp chịu ảnh hưởng
bởi nguồn lực kinh tế, đơn vị kiểm soát, cơ cấu tài chính, khả năng thanh toán, khả
năng thích ứng với các thay đổi trong môi trường hoạt động kinh doanh của mình.
1.1.6.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Nhóm 1 - 6 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
Báo cáo này phản ánh các yếu tố trực tiếp liên quan đến việc đánh giá tình hình và
kết quả hoạt động kinh doanh, bao gồm các chỉ tiêu về doanh thu, thu nhập khác, các
khoản chi phí phát sinh, lợi nhuận của doanh nghiệptrong kỳ kế toán.
Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, người sử dụng sẽ biết được khả
năng sinh lời của doanh nghiệp, việc quản lý các khoản chi phí so với kỳ trước có tốt
hơn không và những hoạt động nào của doanh nghiệp đã đem lại doanh thu và lợi
nhuận cao trong kỳ.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: đánh giá những thay đổi có thể có trong
các nguồn lực kinh tế Doanh nghiệp có thể kiểm soát được trong tương lai.
1.1.6.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Một doanh nghiệp có thể tạo ra được lợi nhuận cao trong kỳ kế toán nhưng vẫn gặp
khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ. Điều này sẽ rất dễ nhận thấy từ những
thông tin trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Mục đích của báo cáo lưu chuyển tiền tệ là
cung cấp các thông tin về các dòng tiền chi ra và dòng tiền thu vào trong các hoạt
động của một doanh nghiệp trong một kỳ kế toán, giúp người sử dụng biết được tiền
của doanh nghiệp được tạo ra nhiều hay ít từ những hoạt động nào.
Một doanh nghiệp có thể tạo ra được lợi nhuận cao trong kỳ kế toán nhưng vẫn gặp
khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ. Điều này sẽ rất dễ nhận thấy từ những
thông tin trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Mục đích của báo cáo lưu chuyển tiền tệ là
cung cấp các thông tin về các dòng tiền chi ra và dòng tiền thu vào trong các hoạt
động của một doanh nghiệptrong một kỳ kế toán, giúp người sử dụng biết được tiền
của doanh nghiệp được tạo ra nhiều hay ít từ những hoạt động nào.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: (theo phương pháp trực tiếp, hoặc theo phương
pháp gián tiếp): sự thay đổi tình hình tài chính hữu ích cho việc tiếp cận với các hoạt

động đầu tư kinh doanh và tài trợ của Doanh nghiệp trong kì báo cáo.
1.1.6.4. Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Bản thuyết minh báo cáo tài chính được thiết lập nhằm cung cấp và trình bày bổ
sung các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp mà ở 3 báo cáo tài chính
trên chưa trình bày hoặc chưa giải thích rõ ràng. Ngoài ra, bảng thuyết minh báo cáo
tài chính còn cung cấp cho người sử dụng những chính sách và chuẩn mực kế toán
mà doanh nghiệp đã lựa chọn sử dụng trong kỳ kế toán.
Bảng thuyết minh Báo cáo tài chính: bổ sung những thông tin về các khoản mục
chưa rõ trên Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh,
Nhóm 1 - 7 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
1.2. Nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính
1.2.1. Nguyên tắc hoạt động liên tục
1.2.1.1 Nguyên tắc hoạt động liên tục
Báo cáo tài chính thường được lập trên giả thiêt rằng Doanh nghiệp đang hoạt
động và sẽ tiếp tục hoạt động trong một tương lai có thể thấy được. Nói cách khác
Doanh nghiệp không có dự định hoặc không cần phải giải thể, hay thu hẹp quy mô
hoạt động của mình. Ngược lại, nếu Doanh nghiệp dự định hay cần phải làm như
vậy, Báo cáo tài chính có thể lập trên một cơ sở khác, và khi đó cần phải khai báo về
cơ sở này.
1.2.1.2 Cơ sở dồn tích
Để đạt được các mục tiêu của mình, các Báo cáo tài chính được lập trên cơ sở
dồn tích. Theo đó, ảnh hưởng của các nghiệp vụ và sự kiện được ghi nhận khi chúng
xảy ra (chứ không phải khi thu tiền hay thanh toán tiền) và chúng được ghi chú vào
sổ kế toán đồng thời báo cáo trên Báo cáo tài chính vào thời kỳ mà chúng liên quan.
1.2.1.3 Nguyên tắc nhất quán
Nguyên tắc này đòi hỏi Doanh nghiệp áp dụng các khái niệm, nguyên tắc chuẩn mực,
phương pháp tính toán nhất quán từ kỳ này sang kỳ khác.
1.2.1.4 Trọng yếu và tập hợp
Nguyên tắc này cho rằng nếu có những sai sót nhỏ, không trọng yếu có thể

chấp nhận được nếu các khoản mục này không làm ảnh hưởng đến tính trung thực và
hợp lý của Báo cáo tài chính, tức là không làm thay đổi quyết định của những người
sử dụng thông tin. Đồng thời thông tin cung cấp phải dựa trên cơ sở tập hợp đầy đủ,
không phân tán rải rác làm nhiễu thông tin cho người đưa ra quyết định.
1.2.1.5 Nguyên tắc bù trừ
Khi ghi nhận các giao dịch kinh tế và các sự kiện để lập và trình bày Báo cáo
tài chính không được bù trừ tài sản và công nợ, mà phải trình bày riêng biệt tất cả các
khoản mục tài sản và công nợ trên Báo cáo tài chính.
Nhóm 1 - 8 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
Bù trừ doanh thu, thu nhập khác và chi phí khi được bù trừ theo quy định tại
một chuẩn mực kế toán khác; Hoặc một số giao dịnh ngoài hoạt động kinh doanh
thông thường của Doanh nghiệp thì được bù trừ khi ghi nhận giao dịch và trình bày
Báo cáo tài chính, ví dụ:
Đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán ngắn hạn:
Lãi (lỗ) bán chứng khoán = Thu bán chứng khoán – giá gốc chứng khoán
Đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ:
Lãi (lỗ) mua bán ngoại tệ = thu bán ngoại tệ - Giá mua ngoại tệ
Các khoản mục được bù trừ trình bày: Số lãi (hoặc lỗ thuần)
1.2.1.6 Nguyên tắc có thể so sánh
Theo nguyên tắc có thể so sánh giữa các kì kế toán, trong các Báo cáo tài
chính như: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ phải trình bày các số liệu để so sánh, cụ thể:
Đối với Bảng cân đối kế toán: phải trình bày số liệu so sánh theo từng chỉ tiêu
tương ứng được lập vào cuối kì kế toán năm trước gần nhất (Số đầu năm);
Đối với Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: phải trình bày số liệu so
sánh theo từng chỉ tiêu tương ứng được lập cho kì kế toán năm trước.
Đối với Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phải trình bày số liệu so sánh theo từng chỉ
tiêu tương ứng được lập cho kì kế toán năm trước gần nhất.
Để đảm bảo nguyên tắc so sánh, số liệu “Năm trước” trong Báo cáo kết quả

hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh Báo cáo tài
chính phải được điều chỉnh lại số liệu trong các trường hợp:
Năm báo cáo áp dụng chính sách kế toán khác với năm trước
Năm báo cáo phân loại chỉ tiêu báo cáo khác với năm trước
Kỳ kế toán “Năm báo cáo” dài hoặc ngắn hơn kỳ kế toán năm trước.
Bên cạnh đó, trong bản thuyết minh Báo cáo tài chính còn phải trình bày rõ lý
do của sự thay đổi trên để người sử dụng hiểu rõ được Báo cáo tài chính.
Tất cả Doanh nghiệp thuộc các ngành các thành phần kinh tế đều phải lập và
trình bày Báo cáo tài chính năm.
Các doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính theo kỳ toán là năm dương lịch
hoặc kỳ kế toán năm là 12 tháng tròn sau khi thông báo cho cơ quan thuế. Trường
Nhóm 1 - 9 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
hợp đặc biệt, doanh nghiệp được phép thay đổi ngày kết thúc kỳ kế toán năm dẫn đến
việc lập báo cáo tài chính cho một kỳ kế toán năm đầu tiên hay kỳ kế toán năm cuối
cùng có thể ngắn hơn hoặc dài hơn 12 tháng nhưng không được vượt quá 15 tháng.
Kỳ lập báo cáo tài chính giữa niên độ là mỗi quý của năm tài chính (không bao gồm
quý IV). Các doanh nghiệpcó thể lập báo cáo tài chính theo kỳ kế toán khác (như
tuần, tháng, 6 tháng, 9 tháng…) theo yêu cầu của pháp luật của công ty mẹ hoặc của
chủ sỡ hữu.
Đơn vị kế toán bị chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức sỡ hữu,
giải thể, chấm dứt hoạt động, phá sản phải lập báo cáo tài chính tại thời điểm chia,
tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức sỡ hữu, giải thể, chấm dứt hoạt động,
phá sản.
Thời hạn nộp báo cáo tài chính, đối với doanh nghiệpNhà nước phải nộp báo
cáo tài chính quý chậm nhất là 20 ngày, kể từ ngày kế toán kỳ kế toán, đối với Tổng
công ty Nhà nước chậm nhất là 45 ngày; phải nộp báo cáo tài chính chậm nhất là 30
ngày, kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm; đối với Tổng công ty Nhà nước chậm nhất
là 90 ngày; Trường hợp đơn vị kế toán trực thuộc Tổng công ty Nhà nước nộp báo
cáo tài chính quý, năm cho Tổng công ty theo thời hạn do Tổng công ty quy định.

Đối với các loại hình doanh nghiệpkhác, nếu là doanh nghiệptư nhân và công ty hợp
danh phải nộp báp cáo tài chính năm chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngàt kết thúc kỳ kế
toán năm; đối với các đơn vị kế toán khác, thời hạn nộp báo cáo tài chính năm chậm
nhất là 90 ngày; Đơn vị kế toán trực thuộc nộp báo cáo tài chính năm cho đơn vị kế
toán cấp trên theo thời hạn do đơn vị kế toán cấp trên quy định.
1.2.2. Các đặc điểm chất lượng và giới hạn của báo cáo tài chính:
1.2.2.1. Các đặc điểm chất lượng của báo cáo tài chính:
Bạn đọc có thể tự hỏi làm sao biết được một báo cáo tài chính nào đó có chất
lượng hay không? Để trả lời cho câu hỏi này, tác giả cần thiết phải cho bạn đọc biết
được các đặc điểm nào quyết định tính chất lượng của báo cáo tài chính và có đặc
điểm đó là gì? Trước hết, bạn đọc phải hiễu rõ đặc điểm của chất lượng là gì? Đó là
các tính chất giúp cho các thông tin trên báo cáo tài chính trở nên hữu ích đối với
Nhóm 1 - 10 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
người sử dụng. Thực tế, đối với các báo cáo tài chính, có bốn đặc điểm chất lượng là
tính có thể hiểu được, tính thích hợp, tính đáng tin cậy và tính có thể so sánh được.
Trước hết, tính “có thể hiểu được”. Thông tin trên báo cáo tài chính phải trình bày
sao cho người đọc có thể hiểu được chúng. Tuy nhiên, người đọc được giả thuyết
rằng có những kiến thức tương xứng về doanh nghiệp, các hoạt động kinh tế và kế
toán cũng như có thiện chí nghiên cứu thông tin trên báo cáo tài chính. Ngoài ra,
những thông tin về những vấn đề phức tạp cần phải trình bày trên báo cáo tài chính vì
chúng liên quan đến việc ra các quyết định kinh tế thì không được loại trừ khỏi báo
cáo tài chính chỉ đơn thuần vì chúng có thể quá khó hiểu đối với một số người đọc
nào đó. Điều này khẳng định rằng mọi sự việc phát sinh ảnh hưởng đến quyết định
kinh tế thì phải trình bày trên báo cáo tài chính.
Thứ hai tính “thích hợp”. Để hữu ích, thông tin trên báo cáo tài chính phải thích
hợp với nhu cầu đưa ra quyết định của người đọc. Thông tin được gọi là thích hợp
khi chúng ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định của người đọc thông qua việc giúp
họ đánh giá các sự kiện xảy ra trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai; cũng như
khẳng định hay điều chỉnh những đánh giá trước đây của họ nhằm xác định tính thích

hợp của thông tin.
Tính thích hợp của thông tin phụ thuộc vào nội dung và “tính trọng yếu” của
thông tin. Có những trường hợp, chỉ riêng yếu tố nội dung cũng đủ để xác định thông
tin đó là thích hợp hay không thích hợp. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp, thông
tín thích hợp không đòi hỏi phải xem xét cả về nội dung và cả tính trọng yếu. Thông
tin được gọi là trọng yếu khi có sự bỏ sót hay trình bày sai biệt có thể ảnh hưởng đến
việc ra quyết định kinh tế của người đọc. Tính trọng yếu phụ thuộc vào tầm cỡ của
khoản mục hay sai sót được xét đoán trong trường hợp cụ thể. Vì vậy, nếu nhìn nhận
dưới góc độ nhu thế này, tính trọng yếu cung cấp một cái ngưỡng về chất lượng hơn
là một đặc điểm của chất lượng.
Thứ ba, tính “đáng tin cậy”. Thông tin chỉ thật sự hữu ích khi chúng đáng tin cậy.
Thông tin được gọi là đáng tin cậy nếu chúng không bị sai sót hay thiên lệch một
cách trọng yếu. Thông tin đáng tin cậy đòi hỏi những yêu cầu sau:
• Phản ánh trung thực. Thông tin phải phản ánh một cách trung thực về các nghiệp vụ
hay sự kiện mà báo cáo dự định trình bày cho người đọc.
Nhóm 1 - 11 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
• Nội dung quan trọng hơn hình thức. Để phản ánh trung thực các nghiệp vụ và sự
kiện, phải trình bày chúng đúng với bản chất chứ không chỉ cần căn cứ vào hình thức
pháp lý.
• Khách quan. Để có thể tin cậy được, các thông tin cần khách quan, nghĩa là không
thiên lệch.
• Thận trọng. Thận trọng bao gồm sự cẩn thận, trong việc thực hiện các xét đoán trong
những tình huống chưa rõ ràng; sao cho tài sản và thu nhập không bị thồi phồng, nợ
phải trả và chi phí không bị khai thiếu.
• Đầy đủ. Thông tin đáng tin cậy khi nó được trình bày đầy đủ trên báo cáo tài chính,
trong sự cân đối giữa tính trọng yếu và chi phí.
Cuối cùng là tính “có thể so sánh được”. Thông tin cần được trình bày trên
báo cáo tài chính sao cho người đọc có thể so sánh chúng với báo cáo tài chính của
các Doanh nghiệpkhác, hoặc với chính Doanh nghiệpđó của các kì trước. Để đạt

được yêu cầu này, việc đánh giá và trình bày thông tin cần phải nhất quán trong toàn
bộ doanh nghiệp, qua các kì khác nhau và nhất quán với các Doanh nghiệp khác. Tuy
nhiên trong thực tế có những trường hợp cần phải thay đổi hoặc lựa chọn các phương
pháp đánh giá và trình bày khác nhau, do đó cần phải khai báo về các chính sách kế
toán sử dụng, việc thay đổi chính sách kế toán và ảnh hưởng của việc thay đổi khi
trình bày báo cáo tài chính, cụ thể trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
1.2.2.2. Những giới hạn trong các thông tin thích hợp và đáng tin cậy:
Trong thực tế, một Doanh nghiệp không thể kì vọng thỏa mãn được các yêu cầu về
thông tin, nghĩa là thông tin vừa đảm bảo tính thích hợp mà lại đáng tin cậy, cụ thể
như:
Kịp thời. Thông tin nếu báo cáo chậm trễ sẽ mất đi tính thích hợp. Ngược lại việc
cung cấp thông tin đáng tin cậy đòi hỏi phải có thời gian. Cần phải có sự cân đối giữa
yêu cầu kịp thời và tính đáng tin cậy của thông tin.
Cân đối giữa lợi ích và chi phí. Lợi ích mang lại từ thông tin phục vụ cho người sử
dụng cần cân đối với chi phí bỏ ra để cung cấp cho thông tin đó.
Cân đối giữa các đặc điểm chất lượng. Trong thực tế cần đạt được một sự cân đối
giữa các đặc điểm chất lượng nhằm thỏa mãn các mục tiêu của Báo cáo tài chính. Do
đó, kế toán sẽ không kì vọng cùng một lúc tất cả các đặc điểm chất lượng.
Nhóm 1 - 12 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
Chính vì vậy, việc áp dụng các đặc điểm chất lượng và những chuẩn mực kế toán
thích hợp được hiểu như là sự phản ảnh trung thực và hợp lý hay còn gọi là trình bày
hợp lý trên Báo cáo tài chính.
CHƯƠNG 2: TÍNH HỮU ÍCH CỦA BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Báo cáo tài chính là nguồn thông tin quan trọng không chỉ đối với doanh
nghiệpmà còn phục vụ cả cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, như các cơ
quan quản lý nhà nước, các nhà đầu tư, các chủ nợ, nhà quản lý, kiểm toán viên độc
lập và các đối tượng khác có liên quan. Vai trò báo báo tài chính được xét thông qua
đối tượng sử dụng:
Nhóm 1 - 13 -

Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
- Đối với nhà quản lý doanh nghiệp, báo cáo tài chính cung cấp thông tin tổng
hợp về tình hình tài sản, nguồn hình thành tài sản cũng như tình hình và kết quả kinh
doanh sau một kỳ hoạt động, trên cơ sở đó các nhà quản lý sẽ phân tích đánh giá và
đề ra được các giải pháp, quyết định quản lý kịp thời, phù hợp cho sự phát triển của
doanh nghiệptrong tương lai.
- Đối với nhà nước, báo cáo tài chính cung cấp thông tin cần thiết giúp cho việc
thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế, giúp cho các cơ
quan tài chính nhà nước thực hiện việc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với các
hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời làm cơ sở cho việc tính thuế và các khoản
nộp khác của doanh nghiệpđối với ngân sách nhà nước.
- Đối với các nhà đầu tư, báo cáo tài chính giúp họ nhận biết khả năng về tài
chính, tình hình sử dụng các loại tài sản, nguồn vốn, khả năng sinh lời, hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh, mức độ rủi ro của doanh nghiệpđể họ cân nhắc, lựa chọn
và đưa ra quyết định có đầu tư hay không, đầu tư ở mức nào là hợp lý.
2.1. Một số luận điểm khác liên quan đến tính hữu ích của thông tin.
Tuy nhiên có nhiều luận điểm khác nhau liên quan đến tính hữu ích trong báo
cáo tài chính.
Nhóm tác giả Collins, Maydaw và Weiss (1997) trên cơ sở đánh giá hồi quy
trong giai đoạn từ 1953 đén 1993 nhận thấy: sự kết hợp giữa giá trị phù hợp của lợi
nhuận và giá trị ghi sổ của TS không bị suy giảm trong 40 năm qua, thậm chí còn
tăng lên một ít, hơn nữa các tác giả Fransis và Schipper (1996), Eley và Waymire
(1996) nói chung đều đồng tình rằng mối liên hệ giữa các biến số của thông tin vốn
và các dữ liệu tài chính cũng nhận được sự quan tâm đáng kể.
Nhóm tác giả Baruch Lev và Paul Zarowin (1998) của Đại học Newyork thì có
quan điểm ngược lại. Theo đó, liên kết chéo giữa cổ tức và lợi nhuận báo cáo và liên
quan đến sự hữu ích của thông tin về lợi nhuận đối với các nhà đầu tư đã suy giảm
trong hơn hai mươi năm qua và tính nhất quán giữa thông tin được chuyển tải trong
lợi nhuận báo cáo và thông tin phù hợp với các nhà đầu tư đã sụt giảm, bất chấp chất
lượng của các dự báo của các nhà phân tích. Thậm chí, cho dù theo Collins thì sự

liên kết giữa giá trị thị trường và lợi nhuận cùng gía trị ghi sổ có thể ổn định trong
bốn mươi năm qua, nhưng những bằng chứng thu thập được cho thấy sự liên kết ấy
Nhóm 1 - 14 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
bị giảm sút trong nửa giai đoạn sau. Lý giải về sự việc trên, Lev và Zarowin cho rằng
hệ thống đo lường và báo cáo kế toán không đối phó tốt với sự thay đổi đang tác
động sâu sắc đến hoạt động kinh doanh và giá trị thông tin của doanh nghiệpvà chính
tốc độ thay đổi quá nhanh của doanh nghiệpcùng với sự kém hiệu quả của hệ thống
kế toán trong xử lý các hậu quả của sự thay đổi là những nguyên nhân chính được
viện dẫn cho sự suy giảm về tính hữu ích của thông tin tài chính [2, trang 13]. Lev và
Zarowin đặt ra vấn đề là làm sao để ngăn chặn sự suy giảm về tính hữu ích của thông
tin tài chính và từ đó đưa ra hai đề xuất để nâng cao tính hữu ích của thông tin tài
chính, gồm vốn hoá các khoản đầu tư vô hình và trình bày lại một cách có hệ thống
các báo cáo tài chính hiện hành.
Ở một góc độ khác liên quan đến tính hữu ích của thông tin là sự cần thiết của
hoạt động kiểm toán độc lập đối với báo cáo tài chính, bởi lẽ có quá nhiều vấn đề nảy
sinh trong quá trình soạn lập, cung cấp thông tin kế toán cho người sử dụng (như
mâu thuẫn về lợi ích, khác biệt về nhu cầu sử dụng thông tin, quy trình thông tin - kế
toán phức tạp, khả năng kiểm tra thấp) khiến cho thông tin kế toán trở nên thiếu độ
tin cậy, không khách quan, chứa đựng nhiều rủi ro về sai sót, gian lận và do vậy, cần
phải có sự kiểm tra độc lập, đủ trình độ chuyên môn của bên thứ ba.
Tuy nhiên, việc xem xét vai trò của kiểm toán độc lập đối với báo cáo tài chính
được tiếp cận theo nhiều khía cạnh khác nhau. Trên quan điểm lợi ích của người sử
dụng thông tin, các nhà nghiên cứu như Campbell (1985), Shaw (1980) cho rằng kế
toán là phương thức mang lại sự tin cậy cho Báo cáo tài chính. Luận điểm này dựa
trên giả thiết là Báo cáo tài chính sẽ hữu ích hơn cho những nhóm người sử dụng
khác nhau khi chúng được kiểm toán viên độc lập kiểm tra và báo cáo và sự hữu ích
tăng thêm này xuất phát từ việc hạn chế bớt rủi ro do việc BCTC chứa đựng những
gian lận trọng yếu.
Trong khi đó, đứng từ phía người quản lý, Chow và Rice (1982) cho rằng người

quản lý tự nguyện chấp nhận kiểm toán vì nhờ đó, làm tăng độ tin cậy của thông tin
trên Báo cáo tài chính, cải thiện lợi thế so với trường hợp không kiểm toán. Hơn nữa
những lợi ích mang lại theo Campbell sẽ vượt quá chi phí cho cuộc kiểm toán. Việc
báo cáo (tài chính) là một trách nhiệm phải thực hiện của người quản lý đối với chủ
doanh nghiệpvà cũng là trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với các bên liên quan
trong xã hội. Do vậy, lợi ích của xã hội sẽ được đảm bảo hợp lý từ việc kiểm toán
Nhóm 1 - 15 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
được xem như là một phần của hệ thống kiểm soát của xã hội đối với thông tin trên
Báo cáo tài chính. Nói tóm lại, kiểm toán độc lập là một phương thức đảm bảo ở mức
độ hợp lý nhất định độ tin cậy của thông tin (…) để bảo vệ quyền lợi chung của xã
hội và các bên liên quan trong nền kinh tế thị trường mà thông tin là cơ sở cho việc ra
quyết định kinh tế.
2.2. Báo cáo tài chính có thật sự cần thiết trên thị trường chứng khoán?
Các công ty và tập đoàn vẫn thường xem việc công khai Báo cáo tài chính như
một hình thức thông tin tốt và là yếu tố quan trọng nhằm củng cố mối quan hệ với
các nhà đầu tư và các chuyên gia phân tích tài chính. Việc các công ty đưa ra những
lợi ích như sẽ đảm bảo bình ổn giá cả, nâng cao giá trị kinh tế và thu hồi thêm các
nhà đầu tư… được các chuyên gia đánh là không chính xác và chỉ thể hiện được
những mục tiêu trước mắt, mà chưa cung cấp được những dữ liệu kinh doanh cơ bản
mang tính chiến lược lâu dài. Những công ty và tập đoàn thường xuyên cung cấp và
phát hành các Báo cáo tài chính cho rằng có hai lợi ích cơ bản là (1) việc này mang
lại các giá trị kinh tế cao và (2) giúp giảm thiểu tính bất ổn của giá cổ phiếu. Tuy
nhiên, các chuyên gia đã khẳng định rằng đây chỉ là sự ngộ nhận vì những lý do sau:
(i) Về các giá trị kinh tế khác với hy vọng của những công ty và tập đoàn này, thị
trường hầu như không có phản ứng nào đáng kể trước việc họ phát hành công khai
bản Báo cáo tài chính. Chẳng hạn, như khi so sánh tỷ lệ lãi cổ tức giữa các công ty có
cung cấp báo cáo với những công ty không thực hiện công việc này trong cùng một
năm, thì sự chênh lệch hầu như không có. (ii) Về tính bình ổn của gái cả, cứ 44 công
ty và tập đoàn được điều tra, thì có 21 công ty nhận thấy họ có được giá cả ổn định

hơn, trong khi đó con số các công ty giảm sút tính bình ổn giá là 23. Sự chênh lệch
của tỷ lệ lãi cổ tức giữa các công ty thực hiện và không thực hiện việc cung cấp báo
cáo doanh thu cũng không đáng kể.
Các chuyên gia phân tích tài chính và các nhà đầu tư cho rằng việc cung cấp
công khai báo cáo về tình hình kinh doanh có thể khiến các công ty và tập đoàn phải
gánh chịu những tổn thất nhất định mà họ không thể lường trước được. Trước hết, họ
sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong việc dự đoán chính xác con số doanh thu,
dẫn đến việc báo cáo sai. Hơn nữa, khi nhìn vào những con số trong báo cáo, các nhà
quản lý chỉ nhận biết và tập trung vào những mục tiêu mang tính ngắn hạn mà bỏ qua
Nhóm 1 - 16 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
các chiến lược lâu dài. Và nghiêm trọng nhất là khi các giám đốc điều hành và giám
đốc tài chính lâm vào tình trạng ngộ nhận, hoặc tự xây dựng nên tính ổn định “ảo”
của công ty mình. Việc tập trung xây dựng, điều tra, phát hành báo cáo tài chính
hàng tháng hoặc hàng tháng cũng rất tốn kém về thời gian, tiền bạc và công sức con
người. Chẳng hạn như, các nhà quản lý và nhân dân thực hiện báo cáo tài chính sẽ
mất khá nhiều thời gian để thực hiện báo cáo. Việc phát hành cũng cần một số kinh
phí không nhỏ. Tất nhiên là việc không cung cấp các Báo cáo tài chính, hoặc báo cáo
không minh bạch, cũng có thể khiến các công ty và tập đoàn phải đối mặt với một số
khó khăn.
Một số tập đoàn và công ty cũng tuyên bố sẽ cắt bỏ việc phát hành báo cáo tài
chính hàng quý, mà thay vào đó sẽ chỉ cung cấp những báo cáo hàng năm. Thậm chí,
có công ty còn tuyên bố hủy bỏ hoàn tàn công việc này, để tiến tới việc sẽ cung cấp
cho nhà đầu tư và các chuyên gia những số liệu và hướng dẫn mang tính lâu dài,
nhấn mạnh nhiều hơn vào những điều kiện, tình hình kinh doanh của họ. Lý do là các
giám đốc điều hành e ngại rằng công ty và tập đoàn của họ sẽ phải đối mặt với nguy
cơ mất ổn định của giá cổ phiếu, và hơn cả là việc hình ảnh của họ sẽ kém hấp dẫn
trong mắt các nhà đầu tư và phân tích tài chính. Tuy nhiên có một điều đáng lưu ý là,
việc không phát hành hoặc chấm dứt cung cấp Báo cáo tài chính của các công ty và
tập đoàn không dẫn đến việc lợi nhuận của họ sẽ thu hẹp hay gây nên sự bất ổn của

giá trị cổ phiếu, mà đây chỉ là hệ quả của sự yếu kém trong việc điều hành hoạt động
kinh doanh.
Với những kết quả trên, các chuyên gia khuyên các công ty và tập đoàn hãy lựa
chọn cách thức khôn khéo hơn trong việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư và
giới phân tích tài chính. Để mọi người có cái nhìn lạc quan và thấu hiểu hơn về thực
trạng kinh doanh cũng như triển vọng lâu dài của mình, các công ty và tập đoàn nên
cung cấp, gợi mở những thông báo về mảng kinh doanh chủ yếu, môi trường và xu
thế trong tương lai, cũng như chiến lược phát triển. Chẳng hạn như các công ty bán lẻ
có thể cung cấp và nhấn mạnh các nhân tố quan trọng trong việc tăng trưởng lợi
nhuận như các chỉ số như: mức tăng trưởng sản phẩm bán ra, giá cả, chi phí tiếp thị,
điều kiện, môi trường kinh doanh, chi phí đầu vào, chi phí bán hàng, chi phí hợp tác
(nếu có), bên cạnh đó là các dự liệu về vốn như số vốn, thời gian đầu tư, sơ đồ phân
phối vốn kinh doanh và hiệu quả của việc sử dụng vốn. Đừng quên giải thích rõ ràng
Nhóm 1 - 17 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
về tính hiệu quả và sự thay đổi có thể xảy ra trong tương lai để các nhà đầu tư cũng
như giới phân tích có thể nắm bắt và dự đoán rõ ràng thực trạng và tiềm năng của các
công ty để có kế hoạch đầu tư lâu dài. Như vậy, ngày càng có nhiều công ty và tập
đoàn hủy bỏ việc phát hành báo cáo tài chính cho các nhà đầu tư và giới phân tích tài
chính, mà thay vào đó, họ cung cấp những dự liệu và thông tin hiệu quả hơn, mang
tính chiến lược và chứa đựng những thông tin kinh doanh thiết yếu. Bằng cách đó, họ
vẫn có thể thu hút sự chú ý của đối tác và các nhà đầu tư một cách thuyết phục.
Từ đó có thể thấy bản thân báo cáo tài chính không mang tính hữu ích mà nó
chỉ hữu ích khi các thông tin của nó được đưa đến người sử dụng để thông qua đó
người sử dụng sẽ có những nhận định tương đối chính xác về thực trạng tài chính,
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đưa ra được các quyết định kịp thời,
đúng đắn, hợp lý tùy theo mục đích sử dụng của mình.
Tuy nhiên, nếu như các thông tin của các báo cáo tài chính bị bóp méo, sửa đổi
theo mục đích của người lập báo cáo thì tất cả những nhận xét, đánh giá của những
người sử dụng chắc chắn sẽ không còn chính xác nữa và những quyết định mà họ

đưa ra cũng sai lệch dẫn đến những thiệt hại cho người sử dụng. Lúc này thì tính hữu
ích của báo cáo tài chính không còn nữa.
Vậy báo cáo tài chính chỉ được coi là có tính hữu ích khi và chỉ khi nó thỏa mãn
đồng thời cả 2 điều kiện:
- Thứ nhất là các thông tin của báo cáo tài phải được đưa tới tay những người sử
dụng.
- Thứ hai là nội dung của báo cáo tài chính phải trung thực, minh bạch, không
bị bóp méo theo ý đồ của người lập báo cáo.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH HIỆN
NAY Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng về báo cáo tài chính ở Việt Nam
Trong tình hình thực tế hiện nay tại Việt Nam, hầu hết các báo cáo tài chính của
tất cả các doanh nghiệpở mọi ngành nghề, lĩnh vực đều bị bóp méo ít nhiều tùy theo
mục đích của người lập báo cáo. Đa phần các doanh nghiệpthường có ít nhất là 2 bộ
báo cáo tài chính hoàn toàn khác nhau ở mỗi kỳ kế toán. Khi nộp báo cáo cho cơ
quan Thuế thì doanh nghiệpthường làm giảm lợi nhuận bằng nhiều cách để giảm
Nhóm 1 - 18 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
thiểu số thuế phải nộp hay tìm mọi cách để làm ít đi các khoản phải nộp vào ngân
sách nhà nước như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…Trong khi nếu doanh nghiệpcó
nhu cầu vay vốn từ ngân hàng chẳng hạn, thì chắc chắn báo cáo tài chính sẽ được
phù phép để người sử dụng thấy được khả năng sinh lời cao từ hoạt động kinh doanh
cũng như khả năng thanh toán nợ rất tốt của doanh nghiệp.
3.2. Các gian lận thường thấy trong báo cáo tài chính ở Việt Nam
3.3.1 Che dấu công nợ và chi phí
Che dấu công nợ đưa đến giảm chi phí là một trong những kỹ thuật gian lận phổ
biến trên báo cáo tài chính nhằm mục đích khai khống lợi nhuận. Khi đó, lợi nhuận
trước thuế sẽ tăng tương ứng với số chi phí hay công nợ bị che dấu. Đây là phương
pháp dễ thực hiện và khó bị phát hiện vì thường không để lại dấu vết. Có ba phương
pháp chính thực hiện giấu gian lận và chi phí:

−Không ghi nhận công nợ và chi phí, đặc biệt không lập đầy đủ các khoản dự
phòng;
−Vốn hoá chi phí;
−Không ghi nhận hàng bán trả lại – các khoản giảm trừ và không trích trước chi phí
bảo hành;
Đối với một số hàng hóa đặc thù, nhiều công ty còn cho phép khách hàng là những
nhà phân phối hoàn trả lại hàng khi sắp hết hạn sử dụng. Mặc dù thường xuyên có
một tỉ lệ hàng trả lại nhất định nhưng vào cuối năm, công ty vẫn “quên” lập dự phòng
cho số hàng này.
Trong thời điểm hiện nay, trường hợp thường gặp của các công ty là không thực
hiện trích lập dự phòng đúng như quy định. Như trường hợp của công ty CTCP Xuất
nhập khẩu Bến Tre vừa công bố báo cáo tài chính 2012. Theo báo cáo, lợi nhuận
trước thuế đạt 86 tỷ đồng, giảm 10,7 tỷ đồng (giảm 11% so với số liệu trước kiểm
toán). Theo giải trình của công ty, lợi nhuận giảm do công ty phải trích lập dự phòng
chi phí nuôi cá tại các trại nuôi (10,5 tỷ đồng), trích lập dự phòng phải thu (40 triệu
đồng). Bourbon Tây Ninh cũng giảm lớn lợi nhuận sau kiểm toán do công ty đã trích
lập dự phòng bổ sung 95,5 tỷ đồng cho khoản vay đã cấp cho công ty Bourbon An
Hòa.
Nhóm 1 - 19 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
Một trường hợp khác của việc che dấu các khoản chi phí của doanh nghiệp là việc
không hợp nhất kết quả kinh doanh của các công ty con, các công ty đầu tư dài hạn
của doanh nghiệp khi kết quả kinh doanh bất lợi. Các khoản lỗ đầu tư này có thể là
rất lớn và ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3.3.2. Bóp méo doanh thu trong kỳ
Việc làm tăng doanh thu trong kỳ có thể thực hiện thông qua nhiều biên pháp. Đầu
tiên là ghi nhận vào sổ sách một nghiệp vụ bán hàng hoá hay cung cấp dịch vụ
không có thực. Kỹ thuật thường sử dụng là tạo ra các khách hàng giả mạo thông qua
lập chứng từ giả mạo nhưng hàng hóa không được giao và đầu niên độ sau sẽ lập bút
toán hàng bán bị trả lại,

Khai cao doanh thu còn được thực hiện thông qua việc cố ý ghi tăng các nhân tố
trên Hóa đơn như số lượng, giá bán… hoặc ghi nhận doanh thu khi các điều kiện
giao hàng chưa hoàn tất, chưa chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro đối với hàng
hoá – dịch vụ được bán. Một cách mà cách doanh nghiệp thường làm là tạo một hoạt
động bán hàng cuối năm, xuất hóa đơn đầy đủ nhưng không thực hiện giao hàng.
Sang năm sau sẽ ghi nhận giảm trừ khoản doanh thu này. Việc làm này thực chất là
cố gắng sử dụng một phần doanh thu thực của sang năm để ghi nhận trong năm nay.
Doanh thu thực sang năm sẽ phải chịu giảm đi phần đã ghi nhận này.
Một trường hợp khác là công ty vội vàng ghi nhận doanh thu khi khách hàng mới
chỉ dùng thử sản phẩm và có quyền trả lại hàng hóa nếu không hài lòng, hoặc hàng
xuất đi chỉ là hàng gửi bán mà chưa được bán ra. Đối với một số hàng hóa đặc thù
như hóa chất, nhiều công ty còn cho phép khách hàng là những nhà phân phối hoàn
trả lại hàng khi sắp hết hạn sử dụng. Mặc dù thường xuyên có một tỉ lệ hàng trả lại
nhất định nhưng vào cuối năm, công ty vẫn “quên” lập dự phòng cho số hàng này.
Mua hóa đơn cho những chi phí không có thật cũng là một gian lận khá phổ biến.
Ngoài việc tăng khống doanh thu nêu trên, doanh nghiệp còn có các biện pháp để
có thể tăng doanh thu trên báo cáo tài chính của mình. Một cách thường gặp là tăng
ảo doanh thu cuối kỳ thông qua các hoạt động đẩy mạnh doanh thu không bình
thường.
Ngoài ra việc tăng cường tín dụng cho đối tác, giảm giá hàng bán hoặc tăng các ưu
đãi bán hàng cuối năm cũng được nhiều doanh nghiệp xử dụng để làm tăng doanh
Nhóm 1 - 20 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
thu trong báo cáo tài chính năm nay. Việc này cũng gây ảnh hưởng giảm đến doanh
thu sang năm của doanh nghiệp.
Một ví dụ của việc ghi nhận sai doanh thu này là trường hợp Công ty Cổ phần Xây
dựng Điện VNECO (VE1). Năm 2011, từ chỗ lỗ 2,9 tỉ đồng tính đến quý III, bằng
việc đã cấp một khoản tín dụng khá lớn cho khách hàng, kết quả kinh doanh cuối
năm của VE1 đã trở thành đạt lợi nhuận 89 triệu.
Một cách khác mà doanh nghiệp có thể tăng nhanh doanh thu và lợi nhuận trong

kỳ của mình, đó là bán các tài sản hoặc các khoản đầu tư sinh lời của mình. Việc này
có thể làm lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp tăng nhiều, nhưng đã làm mất đi
những lợi ích tương lai mà các tài sản hoặc khoản đầu tư này mang lại.
3.3.3. Ghi nhận sai niên độ
Doanh thu hay chi phí được ghi nhận không đúng với thời kỳ mà nó phát sinh.
Doanh thu hoặc chi phí của kỳ này có thể chuyển sang kỳ kế tiếp hay ngược lại để
làm tăng hoặc giảm thu nhập theo mong muốn.
Vào những ngày cuối năm, công ty có thể ghi nhận doanh thu trước khi thực sự
xuất hàng để đạt chỉ tiêu doanh thu. Việc hạch toán doanh thu được thực hiện ngay
khi xuất hóa đơn vào ngày cuối năm trong khi sang năm mới, sau nhiều ngày, hàng
mới được xuất đi. Đối với các công ty xuất khẩu, chênh lệch thời gian nói trên
thường rất lớn, đẩy doanh thu tăng lên đáng kể. Thủ thuật này cũng có thể dễ dàng áp
dụng đối với doanh thu cung cấp dịch vụ bằng cách thay đổi thời gian và mức độ
hoàn thành dịch vụ.
Đối với chi phí, các doanh nghiệp cũng có thể ghi nhận chậm các khoản chi phí
phải được ghi nhận trong năm sang năm sau, từ đó làm tăng lợi nhuận trong kỳ của
công ty
Phương thức này thường được các công ty sử dụng để có thể đạt được chỉ tiêu
kinh doanh trong năm. Ví dụ tại Việt Nam:
Trong mùa kiểm toán năm 2010, Đơn vị kiểm toán có ý kiến ngoại trừ việc Công
ty Cổ phần Địa ốc Đà Lạt (DLR) ghi nhận 31,15 tỷ đồng doanh thu với giá vốn 27,98
tỷ đồng từ Dự án xây dựng Cụm dân cư - Khu chung cư Yersin thành phố Đà Lạt.
Theo ký kết, công ty sẽ bàn giao từng phần hạng mục công ty của dự án sau khi hoàn
thành và đủ điều kiện để bố trí tái định cư. UBND sẽ thanh toán cho công ty khi
Nhóm 1 - 21 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
quyết toán dự án và đã được cơ quan độc lập kiểm toán. Tuy nhiên, tại Báo cáo tài
chính năm 2010, công ty đã ước tính và ghi nhận doanh thu, giá vốn như trên theo số
liệu hoàn thành giữa công ty và đội thi công của công ty trong khi UBND tỉnh Lâm
Đồng chưa có văn bản chỉ định UBND thành phố Đà Lạt nghiệm thu. Đơn vị kiểm

toán cho biết, ngày 22/2/2011, UBND tỉnh Lâm Đồng đã có công văn thống nhất
giao cho UBND thành phố Đà Lạt là đơn vị tiếp nhận từng hạng mục công trình theo
từng giai đoạn giá trị công trình hoàn thành để DLR ghi nhận doanh thu.
Qua đây cho thấy DRL đã ghi nhận doanh thu và giá vốn Dự án xây dựng Cụm
dân cư - Khu chung cư Yersin thành phố Đà Lạt sai niên độ, doanh thu và giá vốn
này phải được ghi nhận ở niên độ năm 2011, nhưng đã được doanh nghiệp ghi nhận
vào năm 2010.
3.3.4. Không khai báo đầy đủ thông tin
Việc không khai báo đầy đủ các thông tin nhằm hạn chế khả năng phân tích của
người sử dụng Báo cáo tài chính. Các thông tin thường không đựợc khai báo đầy đủ
trong thuyết minh như nợ tiềm tàng, các sự kiện phát sinh sau ngày khóa sổ kế toán,
thông tin về bên có liên quan, các những thay đổi về chính sách kế toán, giao dịch
với công ty con, các bên liên quan…
Trong báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Container Phía
Nam (VSG), kiểm toán viên lưu ý người sử dụng đến khoản lỗ chênh lệch tỷ giá
chưa thực hiện do đánh giá lại số dư có gốc ngoại tệ cuối năm của khoản vay dài hạn
với số tiền 33,16 tỷ đồng đang được ghi nhận trên chỉ tiêu “chênh lệch tỷ giá hối
đoái”. Điều này giúp cho người sử dụng hiểu được, việc áp dụng TT 201/2009 giúp
cho công ty giảm lỗ 33,16 tỷ đồng. Nếu áp dụng VSA 10 thì chỉ tiêu lợi nhuận sau
thuế trên báo cáo tài chính của công ty năm 2010 không phải con số lỗ 40,66 tỷ đồng
mà là con số lỗ 73,82 tỷ đồng. Qua đó cho người sử dụng thấy một phần lợi nhuận
được tạo ra (hoặc một phần giảm lỗ) là do sự thay đổi cách hạch toán mà có chứ
không phải do bản thân hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty tạo ra.
Nhóm 1 - 22 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
CHƯƠNG 4: CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC GIAN LẬN
TRONG BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Đứng trước thực trạng hiện nay ở Việt Nam, để khắc phục các gian lận trong
báo cáo tài chính chúng ta cần có những giải pháp như sau:
- Đối với công ty: Trách nhiệm và áp lực từ cổ đông là rất quan trọng đối với

thái độ ứng xử của lãnh đạo, Hội đồng quản trị. Cổ đông phải thực hiện các quyền
biểu quyết của mình để chọn các công ty kiểm toán lớn, uy tín để làm người soi các
ngóc ngách về tài chính doanh nghiệp giúp mình. Ngoài ra để giúp kiểm soát tốt hơn
hoạt động của Hội đồng quản trị, việc bầu Ban kiểm soát có trình độ, đạo đức là rất
Nhóm 1 - 23 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
quan trọng trong việc duy trì cơ cấu minh bạch và hiệu quả bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mình.
- Đối với các nhà đầu tư: Để biết được tình hình tài chính doanh nghiệpcó tốt
hay không, ngoài việc phân tích các thông số tài chính doanh nghiệpđược công bố,
nhà đầu tư cũng cần so sánh các thông số đó với các công ty trong cùng lĩnh vực, khu
vực và tìm hiểu các bản giải trình báo cáo kiểm toán để từ đó mới có nhận xét tương
đối chính xác về thực trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp che dấu doanh thu bằng cách bán hàng hóa dịch vụ
mà không xuất hóa đơn hoặc mua khống hóa đơn để đưa vào chi phí nhằm làm giảm
số thuế phải nộp là một vấn đề rất nan giải. Sở dĩ hóa đơn có thể muốn xuất thì xuất
còn không thì thôi là do có nhiều trường hợp khách hàng nhận hàng hóa dịch vụ mà
không chịu lấy hóa đơn. Lý do đơn giản là khi lấy hóa đơn họ có thể phải trả số tiền
nhiều hơn do phần thuế giá trị gia tăng mà số tiền thuế giá trị gia tăng đó họ lại chẳng
được khấu trừ vào đâu hết vì họ là những người tiêu thụ sản phẩm sau cùng. Do đó
để khắc phục trường hợp này thì nhà nước nên điều chỉnh lại cách tính thuế thu nhập,
cho phép người dân được khấu trừ khoản thuế giá trị gia tăng trên các hóa đơn mua
hàng hóa, dịch vụ vào số thuế thu nhập cá nhân phải nộp, lúc này chắc chắn rằng bất
cứ khách hàng nào cũng sẽ đòi cho được hóa đơn khi mua hàng hóa, dịch vụ vì điều
đó mang lại lợi ích kinh tế cho họ. Khi đó, bắt buộc các doanh nghiệpsẽ phải xuất
hóa đơn đầy đủ khi bán hàng hóa, dịch vụ và nếu đã xuất hóa đơn rồi thì không có lý
do gì để các doanh nghiệp không ghi nhận, kê khai một cách trung thực các khoản
doanh thu của mình.
Tài liệu tham khảo
[1] PGS.TS. Võ Văn Nhị (2009), Kế toán tài chính doanh nghiệp 2009, Nhà sách

Kinh tế, NXB Tài chính
[2] TS. Phan Đức Dũng (2011), Phân tích Báo cáo tài chính, Nhà xuất bản thống kê
[3] Bộ tài chính, Chế độ kế toán doanh nghiệptheo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC,
NXB Tài chính, www.mof.gov.vn, kiemtoan.com.vn
[4] Bộ tài chính, Các chuẩn mực kế toán Việt Nam, NXB Tài chính,
www.mof.gov.vn
Nhóm 1 - 24 -
Báo cáo tài chính và tính hữu ích của BCTC GV: TS Phạm Ngọc Toàn
PHỤ LỤC
Nhóm 1 - 25 -

×