Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Giải pháp tăng cường hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Tư vấn Kiến trúc Xây dựng TT-Associate

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.21 KB, 70 trang )

Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ loại hình doanh nghiệp
nào, vốn cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vốn là đòi hỏi đầu tiên và
bắt buộc phải có, là yếu tố không thể thiếu để đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp vừa phải đảm bảo vốn cho hoạt động của
mình đồng thời phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường, mở rộng
sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống cho người lao động, tạo công ăn việc
làm, tăng nhanh lợi nhuận. Hiệu quả sử dụng vốn cao hay thấp sẽ quyết định đến
sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh khốc
liệt như hiện nay.
Xuất phát từ những lý do này và nhận thức được những vấn đề trên nên sau
một thời gian thực tập tại công ty Cổ phần Tư vấn Kiến trúc Xây dựng TT-As
tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty
Cổ phần Tư vấn Kiến trúc Xây dựng TT-Associate” làm nội dung nghiên cứu
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Tư vấn
Kiến trúc Xây dựng TT-As.
Đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ
phần Tư vấn Kiến trúc Xây dựng TT-As.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của đề tài là những lý luận và thực tế về tình hình sử dụng vốn
tại Công ty Cổ phần Tư vấn Kiến trúc Xây dựng TT-As.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là sẽ giới hạn việc nghiên cứu tại Công ty
Cổ phần Tư vấn Kiến trúc Xây dựng TT-As.
4. Phương pháp nghiên cứu
Với phương pháp nghiên cứu truyền thống, kết hợp lý luận với thực tiễn
trên cơ sử phân tích các hoạt động tài chính của công ty, chuyên đề nhằm nêu rõ
bản chất, vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường; nguyên tắc và nội dung


trong việc sử dụng vốn của doanh nghiệp đồng thời đưa ra các giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần Tư vấn Kiến trúc Xây
dựng TT-As.
5. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục,
chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết chung về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Tư vấn Kiến trúc
Xây dựng TT-As
Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cổ phần
Tư vấn Kiến trúc Xây dựng TT-As
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1. VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của vốn
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập
và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp,
vốn phản ánh nguồn lực tài chính đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên,
khi nói về vốn, trên thực tế còn tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau.
Theo Marx, dưới góc độ các yếu tố sản xuất, vốn được khái quát hoá thành
phạm trù tư bản. K.Marx cho rằng: Vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng
dư, là đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa về vốn của K.Marx có một tầm
khái quát lớn vì bao hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của
vốn là giá trị cho dù nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: tài
sản cố định, nhà cửa, nguyên vật liệu, tiền công Vốn là giá trị đem lại giá trị
thặng dư vì nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ phát triển lúc bấy giờ, K.Marx đã bó
hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có quá
trình sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.

Theo P.Samuelson: “Vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho
quá trình sản xuất mới, là đầu vào của hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp
(máy móc, trang thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu…)
Còn theo D.Begg, tác giả cuốn “kinh tế học”, cho rằng: vốn bao gồm vốn
hiện vật và vốn tài chính. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hoá, sản phẩm đã sản
xuất ra để sản xuất các hàng hoá khác. Vốn tài chính là tiền và các giấy tờ có giá
của doanh nghiệp. Theo định nghĩa trên, D.Begg đã đồng nhất vốn với tài sản
của doanh nghiệp. Thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất
cả các tài sản mà doanh nghiệp dùng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn
của doanh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp.
Bất cứ một doanh nghiệp nào, khi bắt đầu hoạt động cũng cần phải có một lượng
vốn nhất định để thực hiện các khoản đầu tư cần thiết như: chi phí thành lập
doanh nghiệp, mua sắm nguyên vật liệu, đầu tư công nghệ, trả tiền công, lãi vay,
nộp thuế…Lượng vốn này đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được thực hiện liên tục, chi phí mua công nghệ và máy móc, thiết
bị mới…giúp cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng. Qua đó ta thấy vốn đưa
vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều hình thái vật chất khác nhau
để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường. Lượng tiền
mà doanh nghiệp thu về sau quá trình tiêu thụ phải bù đắp được chi phí bỏ ra
ban đầu, đồng thời phải có lãi. Quá trình này phải diễn ra liên tục thì mới bảo
đảm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một loại hàng hoá. Nó giống
các hàng hoá khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, song nó có đặc điểm là người
sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Chi phí
của việc sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sở hữu và
quyền sử dụng nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh để sinh lợi.
Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận: vốn chủ sở hữu và nợ;
mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tùy theo tính
chất của chúng. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các doanh nghiệp
khác nhau sẽ không giống nhau, nó phụ thuộc vào một loạt các nhân tố như:

− Trạng thái của nền kinh tế.
− Ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
− Quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp.
− Trình độ khoa học – kỹ thuật và trình độ quản lý.
− Chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp.
− Thái độ của chủ doanh nghiệp.
− Chính sách thuế…
Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất
cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình
sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản
xuất vật chất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất liên
tục suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất đầu
tiên đến chu kỳ sản xuất cuối cùng.
Như vậy, ta có thể hiểu vốn là toàn bộ các giá trị ứng ra ban đầu và các quá
trình sản xuất tiếp theo. Vốn là giá trị tạo ra giá trị thặng dư
1.1.2. Vai trò của vốn trong nền kinh tế thị trường
Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào thì cũng cần có
vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết
định tới các bước tiếp theo của quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp nào
cũng cần phải có vốn trước khi tiến hành sản xuất kinh doanh, sau đó vốn được
sử dụng vào sản xuất kinh doanh, sau một chu kỳ hoạt động nó phải được thu về
để phục vụ cho chu kỳ sản xuất kinh doanh sau. Vốn của doanh nghiệp có vai
trò quyết định trong việc tạo ra mọi của cải vật chất và những tiến bộ xã hội, vì
vậy nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, phát triển cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, mọi hoạt
động từ việc xác định mục tiêu cho đầu tư dài hạn, tìm nguồn tài trợ cho đến
việc đưa ra các quyết định tài chính ngắn hạn - tức là ba vấn đề quan trọng đầu
tiên của doanh nghiệp đều gắn với các hoạt động có liên quan đến vốn. Như vậy,
vốn là bộ phận không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh và do đó

việc huy động, đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất có ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Trong cơ chế hành chính cũ, cơ chế bao cấp, nguồn vốn sản xuất kinh
doanh của các xí nghiệp quốc doanh là rất hạn hẹp, ngân sách cấp phát vốn và
ngân hàng cho vay với lãi suất ưu đãi. Vì thế vai trò đảm bảo vốn của tài chính
xí nghiệp chưa được đặt ra như một vấn đề cấp bách. Trong điều kiện của cơ chế
thị trường hiện nay, việc huy động đủ vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh
doanh được diễn ra liên tục từ khâu mua sắm vật tư, sản xuất cho đến tiêu thụ
sản phẩm. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại
thì phải trang bị cho mình các bí quyết, các dây chuyền công nghệ hiện đại để
nâng cao năng suất lao động, bởi vì quy luật cạnh tranh đă đặt ra trước các nhà
doanh nghiệp những yêu cầu rất khắt khe trong sản xuất sản phẩm: phải bán
những cái mà thị trường cần chứ không phải bán những cái mà mình có. Sản
phẩm mà thị trường cần là những sản phẩm tốt, giá hạ, hợp thị hiếu người tiêu
dùng. Để đáp ứng được những yêu cầu này, doanh nghiệp cần phải có nhiều
vốn.
Vốn còn có ý nghĩa quyết định tới quy mô hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Do sự phát triển của kinh tế thị trường và cách mạng khoa học kỹ thuật,
doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì nhu cầu vốn càng quan
trọng hơn bao giờ hết và có xu hướng tăng không ngừng. Nó giúp cho doanh
nghiệp có thể tận dụng những cơ hội trong kinh doanh và tạo được lợi thế trong
cạnh tranh.
Bên cạnh đó, vốn cũng ảnh hưởng đến phạm vi hoạt động hay việc đa dạng
hoá nghành nghề kinh doanh của doanh nghiệp.Thông thường khi muốn tham
gia kinh doanh một lĩnh vực mới doanh nghiệp phải có một lượng tiền lớn cho
việc đầu tư máy móc, thiết bị sản xuất, dây chuyền công nghệ mới, xây dựng hệ
thống phân phối, tiêu thụ sản phẩm Nếu doanh nghiệp không có nguồn tài
chính mạnh thì khó có thể thực hiện được hoạt động này ngay ở những khâu đầu
tiên như phân tích thị trường, xây dựng phương án kinh doanh Hơn nữa, việc
đảm bảo nguồn vốn kinh doanh còn giúp doanh nghiệp chống đỡ được những

tổn thất, rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động.
Tóm lại, vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Đất nước ta sau hai mươi năm thực hiện đổi mới, nền
kinh tế đã ổn định và phát triển. Để duy trì được những thành quả đó, giữ vững
nhịp độ tăng trưởng và khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực
nói riêng, các nước trên thế giới nói chung thì một trong những vấn đề đang
được Nhà nước đặc biệt quan tâm là nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế.
Trong bối cảnh chung đó, mỗi doanh nghiệp đều phải tích cực khai thác, huy
động, phát triển nguồn vốn của mình để tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp, làm
cho doanh nghiệp thực sự trở thành một tế bào quan trọng trong nền kinh tế, góp
phần tạo đà thúc đẩy nền kinh tế đất nước đi lên.
1.1.3. Phân loại vốn
Có rất nhiều cách phân loại vốn khác nhau, tuỳ theo loại hình doanh nghiệp
và các đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức tạo vốn
và huy động vốn khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, các phương thức huy
động vốn của doanh nghiệp được đa dạng hóa nhằm khai thác mọi nguồn vốn
trong nền kinh tế. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong hoàn cảnh cụ thể ở Việt
Nam, do thị trường tài chính chưa phát triển hoản chỉnh nên việc khai thác và sử
dụng vốn có những nét đặc trưng nhất định. Do đó, người ta phân loại vốn theo
các tiêu thức khác nhau:
1.1.3.1. Phân loại theo tính chất sở hữu
a. Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao
gồm các bộ phận chủ yếu: Vốn góp ban đầu; Lợi nhuận không chia; Tăng vốn
bằng cách phát hành cổ phiếu mới.
 Vốn góp ban đầu:
Khi doanh nghiệp mới thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có
một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông - chủ sở hữu góp vốn. Khi nói lên
nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở
hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình

thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của
ngân sách Nhà nước. Chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước.
Hiện nay, cơ chế quản lý tài chính nói chung và quản lý nguồn vốn của doanh
nghiệp Nhà nước nói riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình
thực tế.
Đối với doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp thì chủ doanh
nghiệp phải có một số vốn ban đầu cần thiết để xin đăng ký thành lập doanh
nghiệp. Đối với công ty Cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố
quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và
chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên,
các công ty cổ phần cũng có một số dạng tương đối khác nhau, do đó cách thức
huy động vốn cổ phần cũng khác nhau. Trong các loại hình doanh nghiệp khác
như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), các nguồn vốn cũng tương tự như trên; tức là vốn có thể do chủ đầu tư bỏ
ra, do các bên tham gia, các đối tác góp… Tỷ lệ và quy mô góp vốn của các bên
tham gia công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau (như luật pháp, đặc điểm
ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu liên doanh).
 Lợi nhuận không chia:
Quy mô vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng. Tuy
nhiên, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu hoạt động có hiệu quả thì
doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn
vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái
đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một phương thức
tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh
nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều
doanh nghiệp coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục
tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu
vốn ngày càng tăng.

Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như
doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào
khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách
tái đầu tư của Nhà nước.
Tuy nhiên, đối với công ty cổ phần thì việc giữ lại lợi nhuận không chia
phụ thuộc vào một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty giữ lại một phần lợi
nhuận trong năm cho tái đầu tư, điều đó đồng nghĩa với việc công ty không dùng
số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ
phần (cổ tức), nhưng bù lại họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của
công ty.
Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tài trợ
bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt, khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu
lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiểu trong thời kỳ
trước mắt (ngắn hạn) do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu
tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có
thể bị giảm sút.
Khi giải quyết vấn để cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức của
công ty cổ phần phải lưu ý đến một số yếu tố có liên quan như:
− Tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ.
− Mức chia lãi trên một cổ phiếu của các năm trước.
− Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu
của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó.
− Hiệu quả của việc tái đầu tư.
 Phát hành cổ phiếu.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở
hữu bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới. Đây là một kênh huy động vốn dài
hạn rất quan trọng cho công ty thông qua thị trường chứng khoán. Phát hành cổ
phiếu được gọilà hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Có hai loại cổ
phiếu cơ bản là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.

− Cổ phiếu thường:
Cổ phiếu thường (cổ phiếu thông thường) là loại cổ phiếu thông dụng nhất
vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và quá trình lưu hành
trên thị trường chứng khoán. Cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất
được trao đổi mua bán trên thị trường chứng khoán. Vì vậy nó là công cụ tài
chính quan trọng nhất trên thị trường chứng khoán. Mặc dù việc phát hành cổ
phiếu có nhiều ưu thế so với các phương thức huy động vốn khác nhưng cũng có
những hạn chế và các ràng buộc cần được doanh nghiệp cân nhắc kỹ lưỡng.
Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được quyền phát hành gọi là vốn cổ phiếu
được cấp phép. Đây là một trong những quy định của Ủy ban chứng khoán Nhà
nước nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch
chứng khoán. Muốn tăng vốn cổ phần thì trước hết cần phải được đại hội cổ
đông cho phép, sau đó phải hoàn tất những thủ tục quy định khác.
Sau khi phát hành, phần lớn những cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu tư
(các cổ đông). Những cổ phiếu này được gọi là những cổ phiếu đang lưu hành
trên thị trường. Tuy nhiên có thể chính những công ty phát hành lại mua lại số
cổ phiếu của mình và giữ chúng nhằm mục đích nào đó. Những cổ phiếu này
được gọi là cổ phiếu ngân quỹ, được coi như tạm thời không lưu hành. Việc mua
lại hoặc bán ra những cổ phiếu này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tình hình
cân đối vốn và khả năng đầu tư; tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị
trường; chính sách đối với việc sát nhập hoặc thôn tính công ty (chống thôn
tính); tình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của Ủy ban chứng
khoán Nhà nước; mệnh giá và thị giá.
− Cổ phiếu ưu tiên:
Cổ phiếu ưu tiên chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát
hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên tỏ ra là
phù hợp hơn cả. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cố định,
người mua cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường.
Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ
không nhận được cổ tức của kỳ đó. Việc giải quyết chính sách cổ tức được nêu

rõ trong điều lệ công ty.
Phần lớn các công ty cổ phần đều quy định rõ: công ty có nghĩa vụ trả hết
số lợi tức chưa thanh toán của các kỳ trước cho các cổ đông ưu tiên, sau đó mới
thanh toán cho các cổ đông thường. Các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính công
ty phát hành thu hồi lại (chuộc lại) khi công ty thấy cần thiết.
Hạn chế của cổ phiếu ưu tiên là cổ tức được lấy từ lợi nhuận sau thuế, khác
với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty.
Các công ty thường cố gắng cân bằng giữa nợ và vốn chủ sở hữu để giữ
vững khả năng thanh toán, củng cố uy tín tài chính. Khi tỷ lệ nợ ở mức thấp, nếu
cần vốn thì các công ty thường chọn cách phát hành trái phiếu tức là tăng nợ (mà
không tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu). Nếu tỷ lệ nợ ở mức cao, công ty
phải tránh việc tăng thêm tỷ lệ nợ và chọn cách phát hành cổ phiếu. Tuy nhiên,
thực tế các công ty không quan tâm nhiều đến việc giữ một mức cân bằng chính
xác. Việc điều chỉnh vốn chủ sở hữu và các khoản nợ thường ngẫu hứng và linh
hoạt.
Ngoài ra, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp có thể được bổ sung từ phần
chênh lệch đánh giá lại tài sản cố định và chênh lệch tỷ giá.
b. Nợ của doanh nghiệp
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử
dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại hoặc vay thông
qua phát hành trái phiếu.
 Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại.
Có thể nói rằng nguồn vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn
quan trọng nhất không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp
mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các
doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương
mại cung cấp trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng.
Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử
dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thị
trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay vốn ngân hàng

để đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm
bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nhưng cũng có nhiều hạn
chế nhất định. Đó là các điều kiện về hạn mức tín dụng, kiểm soát của ngân
hàng, chi phí sử dụng vốn (lãi suất).
Các doanh nghiệp muốn vay tại các ngân hàng thương mại cần đáp ứng
được các yêu cầu đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh nghiệp phải
xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần thiết mà ngân hàng yêu cầu.
Một khi doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự
kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Và nếu lãi
suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí sử dụng vốn lớn và
làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Vì vậy bên cạnh việc sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng các doanh
nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín
dụng của nhà cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan
hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại
có ảnh hưởng to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà cả với toàn bộ nền kinh
tế. Trong một số công ty, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản
phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40%
tổng nguồn vốn. Nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ,
tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng
các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện rằng buộc cụ
thể có thể được ấn định trong khi hai bên ký kết hợp đồng mua bán hay hợp
đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín
dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn.
Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới, các hình thức
tín dụng ngày càng được đa dạng hóa và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh
hơn, do vậy các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài
trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
 Phát hành trái phiếu công ty

Trái phiếu (hay còn gọi là trái khoán) là một tên chung của các giấy vay nợ
trung và dài hạn. Có hai loại trái phiếu cơ bản là trái phiếu Chính phủ và trái
phiếu công ty. Thời hạn phổ biến nhất của trái phiếu thường có thời hạn 1 năm,
3 năm, 5 năm và 10 năm; rất ít công ty phát hành trái phiếu có kỳ hạn tới 20
năm. Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại
trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp và tình hình
trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì
liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn
của trái phiếu.
− Trái phiếu có lãi suất cố định:
Đây là loại trái phiếu thường được sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất trong
các loại trái phiếu doanh nghiệp. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và
không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Để huy động vốn trên thị trường bằng
trái phiếu, doanh nghiệp phải tính đến mức độ hấp dẫn của trái phiếu. Tính hấp
dẫn phụ thuộc và các yếu tố như: lãi suất của trái phiếu; kỳ hạn của trái phiếu và
uy tín của doanh nghiệp.
Trong việc phát hành trái phiếu cũng cần chú ý đến mệnh giá vì nó có thể
liên quan đến sức mua của dân chúng. Đặc biệt, ở Việt Nam khi phát hành trái
phiếu, doanh nghiệp cần xác định một mức giá vừa phải để nhiều người có thể
mua được, tạo sự lưu thông dễ dàng cho trái phiếu trên thị trường.
− Trái phiếu có lãi suất thay đổi:
Đây là loại trái phiếu có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan
trọng khác. Trong điều kiện thị trường có mức lạm phát khá cao và lãi suất
không ổn định, doanh nghiệp có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu
này. Do các biến động của lạm phát kéo theo sự dao động của lãi suất thực, các
nhà đầu tư mong muốn được hưởng một lãi suất thỏa đáng khi so sánh với tình
hình thị trường.
Tuy nhiền, nó cũng có một số nhược điểm như: doanh nghiệp không thể
biết chắc chắn về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn cho việc
lập kế hoạch tài chính. Ngoài ra, việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời

gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất.
− Trái phiếu có thể thu hồi:
Một số doanh nghiệp lựa chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu
hồi, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thởi gian nào đó. Trái phiếu như
vậy được quy định ngay khi phát hành để người mua trái phiếu được biết.
Doanh nghiệp phải quy định rõ về thời hạn và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại
trái phiếu.
Loại trái phiếu này có thể được sử dụng như một cách điều chỉnh lượng
vốn sử dụng. Khi không cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại các trái phiếu,
tức là giảm số vốn vay. Doanh nghiệp có thể thay đổi nguồn tài chính do phát
hành trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các
loại trái phiếu đó.
− Chứng khoán có thể chuyển đổi:
Các doanh nghiệp thường phát hành những chứng khoán kèm theo những
điều kiện có thể chuyển đổi được. Sự lựa chọn và chuyển đổi cho phép cả doanh
nghiệp lẫn người đầu tư có thể lựa chọn cách thức đầu tư thích hợp và có lợi.
Có hai loại hình thức chuyển đổi chính: giấy bảo đảm và trái phiếu chuyển
đổi.
Giấy bảo đảm: người sở hữu giấy bảo đảm có thể mua một số lượng cổ
phiếu thường, được quy định trước với giá cả và thời gian xác định.
Trái phiếu chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành
một số lượng nhất định các cổ phiếu thường. Nếu thị giá cổ phiếu tăng lên thì
người giữ trái phiếu có cơ may nhận được lợi nhuận cao.
1.1.3.2. Phân loại theo cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản
hữu hình và vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Theo
cách phân loại này thì vốn của doanh nghiệp được phia thành vốn cố định và
vốn lưu động.
a. Vốn cố định
Bất kỳ một hàng hoá nào cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng,

nó cũng là đối tượng để trao đổi buôn bán trên thị trường. Như vậy, trong nền
kinh tế thị trường để mua sắm tài sản cố định trước hết phải có một số vốn ứng
trước.Vốn tiền tệ ứng trước để mua sắm tài sản cố định hữu hình hoặc những chi
phí đầu tư cho tài sản cố định không có hình thái vật chất được gọi là vốn cố
định của doanh nghiệp.
Vốn cố định là khoản vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định; quy mô tài
sản cố định được quyết định bởi quy mô của vốn cố định. Song đặc điểm vận
động của tài sản cố định lại quyết định đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển
của vốn cố định. Trên ý nghĩa của mối quan hệ đó ta có thể khái quát những nét
đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh như sau:
Vốn cố định được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Sở dĩ có đặc điểm
này do tài sản cố định có thể được phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì thế
vốn cố định - hình thái biểu hiện bằng tiền của nó cũng tham gia vào nhiều chu
kỳ sản xuất tương ứng.
Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm. Khi
tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, giá trị sử dụng của tài sản giảm dần.
Theo đó vốn cố định cũng được tách thành hai phần: một phần sẽ tham gia vào
chi phí sản xuất kinh doanh (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với
giảm dần giá trị sử dụng tài sản cố định; phần còn lại của vốn cố định được cố
định trong nó. Trong các chu kỳ sản xuất kinh doanh kế tiếp, nếu như phần vốn
luân chuyển dần dần được tăng lên thì phần vốn cố định lại dần dần giảm đi
tương ứng với mức suy giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết thúc sự
biến thiên nghịch chiều đó, cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng và
vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển.
Như vậy, trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn cố định được luân
chuyển dần dần từng phần, vì thế phải sau một thời gian dài vốn cố định mới
hoàn thành được một vòng luân chuyển. Như vậy ta có thể nói vốn cố định của
doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định, mà
đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất
và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định đã hết thời gian sử dụng.

Tài sản cố định của doanh nghiệp không những bao gồm toàn bộ tài sản cố
định hiện có thuộc sở hữu doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn vốn khác
nhau mà còn bao gồm các tài sản cố định doanh nghiệp đi thuê dài hạn của bên
ngoài (thuê tài sản).
Tài sản cố định hữu hình: là những tài sản có tính chất vật chất như nhà
cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị.
Tài sản cố định vô hình: là tài sản cố định không có hình thái vật chất, là
những giá trị biểu hiện những quyền của doanh nghiệp như quyền đặc nhượng,
quyền sử dụng, giá trị bằng phát minh sáng chế, lợi thế thương mại. Ngoài ra,
phần này cũng gồm những giá trị đã được đầu tư như chi phí thành lập doanh
nghiệp, chi phí chuẩn bị sản xuất kinh doanh, chi phí nghiên cứu.
Tài sản cố định thuê dài hạn: là những tài sản mà doanh nghiệp có do thuê
theo hợp đồng thuê; quyền sở hữu tài sản cố định được chuyển cho bên đi thuê
khi hết hạn hợp đồng hoặc bên đi thuê có thể mua được tài sản cố định với giá
trị tài sản cố định thuê tại một thời điểm nào đó hoặc vào lúc kết thúc hợp đồng.
Hao mòn luỹ kế tài sản cố định: là toàn bộ giá trị hao mòn của của 3 loại tài
sản nêu trên .
Đầu tư dài hạn bao gồm vốn góp liên doanh bằng bất cứ hình thái nào (hiện
vật hay tiền), đầu tư chứng khoán dài hạn (cổ phiếu, trái phiếu), và đầu tư dài
hạn khác (đặc biệt là đầu tư kinh doanh bất động sản).
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là một bộ phận quan trọng của vốn
đầu tư nói riêng và của vốn sản xuất nói chung. Quy mô vốn cố định và trình độ
quản lý sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến trình độ trang bị kỹ
thuật của sản xuất kinh doanh. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm vận động
của nó lại tuân theo tính quy luật riêng, nên việc quản lý và sử dụng vốn cố định
một cách có hiệu quả được coi là trọng điểm của công tác tài chính doanh
nghiệp.
b. Vốn lưu động
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tư
liệu lao động còn phải có đối tượng lao động. Đối tượng lao động khi tham gia

vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu; bộ phận chủ
yếu của đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể
của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất; đối
tượng lao động chỉ có thể tham gia vào một chu kỳ sản xuất, đến chu kỳ sản xuất
sau lại phải dùng đối tượng lao động khác. Vì vậy toàn bộ toàn bộ giá trị của đối
tượng lao động được chuyển dịch toàn bộ một lần vào sản phẩm và được bù đắp
khi giá trị sản phẩm được thực hiện.
Đối tượng lao động trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận:
một bộ phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên
tục như nguyên nhiên vật liệu…một bộ phận khác chính là những vật tư đang
trong quá trình chế biến như sản phẩm đang chế tạo, bán thành phẩm. Hai bộ
phận này biểu hiện dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu động. Để phục vụ
cho quá trình sản xuất còn cần phải dự trữ một số công cụ dụng cụ và phụ tùng
thay thế, vật đóng gói cũng được coi là tài sản lưu động. Mặt khác, quá trình sản
xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông. Trong quá trình lưu
thông còn phải tiến hành một số công việc như chọn lọc, đóng gói, xuất giao sản
phẩm và thanh toán. Do đó hình thành một số khoản hàng hoá và tiền tệ trong
khâu lưu thông.
Tài sản lưu động nằm trong quá trình sản xuất và tài sản lưu động nằm
trong quá trình lưu thông thay chỗ nhau vận động không ngừng nhằm đảm bảo
cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi. Như vậy, doanh
nghiệp nào cũng cần một số vốn thích đáng để đầu tư vào tài sản lưu động, số
tiền ứng trước của những tài sản lưu động được gọi là vốn lưu động của doanh
nghiệp.
Tài sản lưu động là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp mà
thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi thường dưới một năm hoặc một chu kỳ
kinh doanh. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản lưu động
được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các loại chứng khoán thanh khoản cao,
phải thu và dự trữ tồn kho. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại thì
giá trị của tài sản lưu động thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản

của doanh nghiệp.
Tài sản lưu động bao gồm:
− Vốn bằng tiền: gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và các khoản tiền
đang chuyển. Tài khoản “tiền mặt” bao gồm tiền mặt, ngân phiếu, ngoại tệ, vàng
bạc đá quý.
− Đầu tư ngắn hạn: là việc bỏ vốn mua chứng khoán có giá trị hoặc góp vốn
liên doanh bằng tiền, hiện vật có thể thu hồi kịp thời trong một chu kỳ kinh
doanh hoặc trong khoản thời gian không quá một năm như tín phiếu kho bạc,
trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng và các khoản đầu tư khác không quá một năm.
− Các khoản phải thu bao gồm phải thu từ khách hàng, phải thu nội bộ, thế
chấp ký cược ký quỹ.
− Dự phòng phải thu khó đòi: các khoản phải thu khó đòi phát sinh tại tài
khoản này được coi là chi phí trong kỳ.
− Tam ứng cho công nhân viên và chi phí trả trước ( chi phí đã phát sinh
nhưng có tác dụng đến kết quả của nhiều kỳ hạch toán được tính vào chi phí của
nhiều kỳ).
− Vật tư hàng hoá tồn kho: bao gồm vật tư, hàng hoá, thành phẩm, giá trị
sản phẩm dở dang. Doanh nghiệp có thể sử dụng một trong các phương pháp
như giá bình quân gia quyền, giá đích danh, giá nhập trước xuất trước hoặc giá
nhập sau xuất trước để dánh giá tồn kho. Riêng sản phẩm dở dang và thành
phẩm thì được đánh giá theo chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Ngoài ra, tài sản lưu động còn bao gồm các khoản chi phí sự nghiệp dở
dang hoặc đã kết thúc nhưng đang chờ quyết toán. Chi phí sự nghiệp là những
khoản chi phí của doanh nghiệp cho những công việc, những hoạt động được
trang trải bằng nguồn kinh phí do ngân sách Nhà nứơc cấp hoặc cấp trên phát.
Vốn lưu động luôn được chuyển hoá thành nhiều hình thái khác nhau, bắt
đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ vật tư hàng hoá và cuối cùng lại trở
về hình thái tiền tệ ban đầu của nó. Quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên
tục không ngừng cho nên vốn lưu động cũng không ngừng tuần hoàn và có tính
chất chu kỳ

Do sự chu chuyển không ngừng nên vốn lưu động thường xuyên có các bộ
phận tồn tại cùng một lúc dưới các hình thái khác nhau trong các lĩnh vực sản
xuất và lưu thông.
Tóm lại, vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu
động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện
thường xuyên, liên tục. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một
lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản
xuất. Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được trong quá trình tái
sản xuất. Trong cùng một lúc, vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bổ trên
khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới các hình thái khác nhau. Muốn
cho quá trính tái sản xuất được liên tục thì doanh nghiệp cần phải có đủ vốn lưu
động đầu tư vào các hình thái khác nhau đó, khiến cho các hình thái có được
mức tồn tại hợp lý và đồng bộ với nhau. Như vậy sẽ khiến cho việc chuyển hoá
hình thái của vốn trong quá trình luân chuyển được thuận lợi. Nếu như doanh
nghiệp nào đó không đủ vốn thì tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp khó khăn và do đó
quá trình sản xuất cũng bị trở ngại hoặc gián đoạn.
Trong các doanh nghiệp vấn đề tổ chức và quản lý vốn lưu động có một vai
trò quan trọng. Doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động càng có hiệu quả thì càng
có thể sản xuất được nhiều sản phẩm tức là càng tổ chức được tốt quá trình mua
sắm, quá trình sản xuất và tiêu thụ, phân bổ hợp lý vốn trên các giai đoạn luân
chuyển để vốn đó chuyển biến nhanh từ một loại này thành một loại khác, từ
hình thái này sang hình thái khác thì tổng vốn lưu động sẽ tương đối ít hơn mà
đạt hiệu quả cao hơn.
1.1.3.3. Phân loại theo nguồn hình thành
a. Vốn do Ngân sách Nhà nước cấp
Là vốn do Nhà nước cấp cho doanh nghiệp được xác nhận trên cơ sở biên
bản giao nhận mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển. Vốn
do Nhà nước cấp có hai loại là vốn cấp ban đầu và vốn cấp bổ sung trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
b. Vốn tự bổ sung

Là vốn nội bộ doanh nghiệp trong đó lợi nhuận chưa phân phối chiếm tỷ
trọng lớn. Đây là nguồn quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản
xuất.
c. Vốn liên doanh, liên kết
Là vốn do doanh nghiệp liên kết với các doanh nghiệp khác trong và ngoài
nước để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Do nhiều yếu tố phức tạp chi
phối nên cần phải quy định chặt chẽ và đầy đủ trên giấy tờ về quyền lợi và nghĩa
vụ của mỗi bên.
d. Vốn vay
Gồm những khoản vay từ ngân hàng, các tổ chức tín dụng, vay cán bộ công
nhân viên trong doanh nghiệp, vay nước ngoài, phát hành trái phiếu
1.1.3.4. Phân loại theo nội dung vật chất
Căn cứ vào nội dung vật chất, vốn kinh doanh được chia thành vốn thực và
vốn tài chính.
a. Vốn thực
Là bộ phận vốn được biểu hiện dưới dạng toàn bộ hàng hoá phục vụ cho
sản xuất kinh doanh và dịch vụ khác như máy móc, thiết bị, đường xá Các tài
sản này phản ánh hình thái vật chất của vốn, nó tham gia trực tiếp vào hoạt động
kinh doanh.
b. Vốn tài chính
Là bộ phận vốn được biểu hiện dưới hình thái tiền, chứng khoán và các
giấy tờ có giá trị khác. Phần vốn này phản ánh phương diện tài chính của vốn,
nó tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua hoạt động đầu tư.
1.1.3.5. Phân loại theo phạm vi huy động vốn
Căn cứ vào phạm vi huy động vốn, nguồn vốn kinh doanh của doanh
nghiệp được chia làm 2 nguồn sau:
a. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp
Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được từ hoạt động của bản
thân doanh nghiệp, bao gồm lợi nhuận giữ lại, các khoản dự trữ, dự phòng
b. Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp

Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động từ bên ngoài để đáp ứng
cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, bao gồm vốn vay ngân hàng, vốn vay các tổ
chức kinh tế, phát hành trái phiếu, nợ nhà cung cấp và các khoản nợ khác.
Cách phân loại này chủ yếu giúp cho việc xem xét tình hình huy động vốn
của doanh nghiệp đang hoạt động và mỗi hình thức phân loại có những ưu
nhược điểm riêng.
Huy động vốn bên trong có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển của
doanh nghiệp, doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong viêc sử dụng vốn trong quá
trình sản xuất kinh doanh nhưng có hạn chế là dễ đi đến tình trạng sử dụng vốn
kém hiệu quả.
Huy động vốn từ bên ngoài có ưu điểm là tạo cho doang nghiệp một cơ chế
tài chính linh hoạt, chi phí sử dụng vốn có giới hạn, nếu doanh nghiệp đạt mức
doanh lợi cao thì không phải chia phần lợi nhuận cao đó. Nhưng có hạn chế là
doanh nghiệp phải trả lợi tức tiền vay và hoàn trả tiền vay đúng thời hạn. Nếu
doanh nghiệp sử dụng vốn kém hiệu quả hoặc bối cảnh kinh tế thay đổi theo
chiều hướng bất lợi thì nợ vay sẽ trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp và
doanh nghiệp phải chịu rủi ro lớn.
1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGIỆP
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả sử dụng vốn trong doanh
nghiệp, mỗi cách đánh giá đều đưa ra những quan niệm từ nhiều khía cạnh và từ
mỗi một thị trường khác nhau.
Trong thời kỳ bao cấp thì quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn rất lệch lạc
và hầu như chưa có nhận thức nhiều về vấn đề này vì mọi hoạt động đều do Nhà
nước chỉ đạo và bao cấp, đó là một thị trường không có sự cạnh tranh, không có
động lực của sự thúc đẩy phát triển. Quan niệm của họ về hiệu quả sử dụng vốn
chỉ là sự hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao cho sao cho đúng hạn, đúng kế
hoạch. Một số ít kinh doanh thì chỉ dừng lại ở hiệu quả sử dụng vốn là kinh
doanh làm sao có lãi chứ chưa có nhận thức sâu sắc.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay quan niệm về hiệu quả sử dụng

vốn đã được nhận thức một cách hoàn thiện hơn bởi nền kinh tế thị trường là
một nền kinh tế của sự cạnh tranh, chỉ có sự canh tranh thì mới có thể tồn tại và
kinh doanh hiệu quả. Hiệu quả sử dụng vốn hay cũng chính là hiệu quả sản xuất
kinh doanh của một doanh nghiệp được đánh giá trên hai góc độ là hiệu quả
kinh tế và hiệu quả xã hội. Để đạt được cả hai tính hiệu quả trên thì bản thân
doanh nghiệp trước tiên phải có sự nhận thức và có chiến lược kinh doanh hiệu
quả, sau đó là những giải pháp của chính doanh nghiệp nhằm đưa hiệu quả sản
xuất hay cũng chính là hiệu quả sử dụng vốn một cách tốt nhất. Trong quan
niệm của các nhà kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn là chiến lược kinh doanh
hiệu quả nhất, với chi phí thấp nhất mà đưa lại lợi nhuận cao nhất, đó là chiến
lược đưa dòng vốn vào lưu thông một cách hiệu quả nhất, dòng vốn luôn luôn
chảy và không bị ứ đọng. Vì thế việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu
mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Đánh giá hiệu
quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung
và quản lý hiệu quả sử dụng vốn nói riêng.
Để đánh giá kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp hay đánh giá
quy mô của doanh nghiệp, chất lượng của một doanh nghiệp thì có rất nhiều
cách đánh giá, rất nhiều chỉ tiêu khác nhau nhưng một chỉ tiêu không thể thiếu
được và rất quan trọng đó là hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và
quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng
của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh bao gồm hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội,
mà ở đây hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sao cho đạt
hiệu quả kinh tế cao nhất với chi phí thấp nhất. Do vậy các nguồn lực kinh tế
đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Xét riêng về chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn thì nó bao gồm khá nhiều
chỉ tiêu nhỏ như : tốc độ luân chuyển của vốn, khả năng sinh lời, tỷ suất lợi
nhuận trên chi phí nó phản ánh mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào hay cụ thể

hơn đó là mối tưong quan giữa chi phí bỏ ra và lợi nhuận thu được. Chi bỏ ra
càng thấp mà lợi nhuận thu về càng lớn thì đó là biểu hiện rõ nhất của hiệu quả
sử dụng vốn. Ngoài ra những chỉ tiêu như tốc độ lưu thông của vốn cũng là một
chỉ tiêu quan trọng để đánh giá, tốc độ lưu thông càng cao thì chứng tỏ dòng vốn
lưu thông luôn luôn tốt, khả năng sinh lời cao, vốn không bị ứ đọng và chứng tỏ
rằng chiến lược sử dụng vốn của doanh nghiệp là rất tốt. Do vậy chiến lược nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn phải luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh
nghiệp, muốn vậy doanh nghiệp phải đảm bảo các điều kiện :
- Đảm bảo cho tốc độ quay vòng của vốn cao nhất, dòng vốn luôn
luôn trong lưu thông, tránh để vốn ứ đọng nhàn rỗi, qua đó khai thác các nguồn
lực một cách triệt để.
- Có chiến lược đầu tư và sử dụng vốn một cách hiệu quả và hợp lý
nhất, tránh đầu tư dàn trải và để thất thoát vốn, tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá
lợi nhuận.
- Luôn luôn hoàn thiện công tác quản lý trong doanh nghiệp, đặc biệt
là tăng cường giám sát việc sử dụng vốn trong khi đầu tư và trong quá trình sản
xuất kinh doanh.
Ngoài ra doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả
sử dụng vốn để có giải pháp kịp thời cho từng trường hợp, khắc phục hạn chế
và phát huy cao nhất những ưu điểm, lợi thế của mình.
Có hai phương pháp để đánh giá phân tích tài chính cũng như phân tích
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương
pháp phân tích tỷ lệ.
* Phương pháp so sánh.
Phương pháp so sánh là phương pháp đưa ra các con số cụ thể của
từng thời kỳ, từng giai đoạn rồi qua đó so sánh để phân tích và đưa ra kết luận,
tìm ra các nguyên nhân cụ thể và từ đó đề ra các biện pháp chiến lược để khắc
phục và phát huy một cách tốt nhất những thành quả đã đạt được.
Phương pháp so sánh yêu cầu các chỉ tiêu tài chính, các đại lượng phải
thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán…và

theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Xác định kỳ phân tích hay so
sánh, kỳ báo cáo hay kỳ kế hoạch phải chính xác và tuân theo những quy tắc
nhất định. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian, không gian, kỳ phân tích
được chọn là kỳ báo cáo hoặc kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn
bằng số tuyệt đối hoặc số tương đối, bình quân.
Nội dung so sánh bao gồm:
+ So sánh giữa số thực kỳ này với số thực kỳ trước để thấy được xu
hướng thay đổi về tài chính doanh nghiệp, đánh giá sự tăng trưởng hay thua lỗ
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ So sánh giữa số kế hoạch với số thực thực tế đạt được để thấy được
doanh nghiệp đã hoàn thành kế hoạch như thế nào, có vượt chỉ tiêu hay không
hay là kinh doanh thua lỗ so với kế hoạch đề ra.
+ So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của
ngành, hoặc so sánh với số liệu của các doanh nghiệp khác cùng ngành để thấy
rõ được sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế nói
chung và trong ngành nói riêng.
+ So sánh theo chiều dọc để xem xét từng chỉ tiêu so với tổng thể, so
sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối
và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán lien tiếp.
* Phương pháp phân tích tỷ lệ.
Với phương pháp này sẽ cho ta những tỷ lệ nhất định giữa số liệu của
kỳ này với số liệu của kỳ trước, giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu của
ngành và với ngành khác, ua đó ta thấy được tỷ lệ đầu tư, tỷ lệ hiệu quả sử dụng
vốn, tỷ lệ tăng trưởng … của doanh nghiệp trong từng kỳ, từng quý, và cả năm.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành
các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những mục tiêu cơ bản theo mục tiêu hoạt
động của doanh nghiệp. Cụ thể là nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ
về cơ cấu và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ

×