Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tăng cường xã hội hóa trong công tác bảo vệ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.18 KB, 26 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường là mục tiêu và cũng là
định hướng cơ bản để đạt tới sự phát triển bền vững. Thật khó có thể dùng một
thước đo hay một loại công cụ nào để đo đếm sự hơn kém về tầm quan trọng giữa
môi trường và phát triển. Do đó không thể có sự đánh đổi của môi trường cho phát
triển hay ngược lại. Bảo vệ môi trường theo đó trở thành một vấn đề mang tính tất
yếu khách quan trong thời đại phát triển ngày nay.
Thực tế tại Việt Nam, trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì
tập trung ưu tiên phát triển kinh tế và cũng một phần do nhận thức hạn chế nên
việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường chưa chú trọng đúng mức. Tình
trạng tách rời công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã hội diễn ra
phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường diễn
ra phổ biến và ngày càng nghiêm trọng, đe dọa trực tiếp tới sự phát triển kinh tế -
xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai. Giải
quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay
không chỉ là đòi hỏi cấp thiết đối với các cấp quản lí, các doanh nghiệp mà đó còn
là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Nhận thức được vấn đề
cấp bách trên, Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương, đường lối và các chính sách
nhằm bảo vệ môi trường trong đó có nội dung quan trọng đó là thực hiên và tăng
cường xã hội hóa trong bảo vệ môi trường. Vậy xã hội hóa trong bảo vệ môi
trường là gì? Công tác thực hiện xã hội hóa trong bảo vệ môi trường như thế nào?
Giải pháp nào tăng cường xã hội hóa trong bảo vệ môi trường? Để trả lời những
câu hỏi trên, đề tài: “Thực trạng và giải pháp nhằm tăng cường xã hội hóa trong
bảo vệ môi trường” được tiến hành thực hiện nhằm hệ thống hóa một số cơ sở lý
luận về xã hội hóa trong bảo vệ môi trường, nghiên cứu thực trạng xã hóa hóa
trong bảo vệ môi trường một cách khái quát và cụ thể thông qua các mô hình xã
hội hóa trong bảo vệ môi trường và từ đó đưa ra giải pháp nhằm tăng cường xã hội
hóa trong bảo vệ môi trường tại Việt Nam.
1.2.Mục tiêu của đề tài nghiên cứu
1.2.1.Mục tiêu chung


Tìm hiểu thực trạng xã hội hóa trong bảo vệ môi trường, từ đó đề xuất giải pháp
nhằm tăng cường xã hội hóa trong bảo vệ môi trường tại Việt Nam.
1.2.2.Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa một số cơ sở lý luận về xã hội hóa trong bảo vệ môi
trường,
- Thực trạng xã hội hóa trong bảo vệ môi trường tại Việt Nam: tình hình chung và
thực trạng thực hiện các mô hình xã hội hóa trong bảo vệ môi trường,
- Giải pháp tăng cường xã hội hóa trong bảo vệ môi trường tại Việt Nam.
1.2.3.Phương pháp nghiên cứu
a.Phương pháp thu thập thông tin
Đề tài sử dụng phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Tài liệu đã công bố sử
dụng trong đề tài bao gồm những thông tin liên quan đến cơ sở lý luận, thực trạng
và giải pháp về xã hội hóa trong bảo vệ môi trường được thu thập qua sách, báo,
internet.
b.Phương pháp phân tích thông tin, số liệu
- Phương pháp thống kê mô tả: Quan sát các số liệu, thông tin thu thập để mô tả
thực trạng xã hội hóa trong bảo vệ môi trường tại Việt Nam.
-Phương pháp so sánh: Trong công tác xã hội hóa trong bảo vệ môi trường có
nhiều mô hình được xây dựng, thực hiện, phương pháp so sánh đưa ra nhằm đánh
giá ưu nhược điểm của các mô hình này và mức độ phù hợp của từng mô hình đối
với từng vùng, địa phương, khu vực.
PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
2.1.Cơ sở lý luận về xã hội hóa trong bảo vệ môi trường
2.1.1.Môi trường
Có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về môi trường:
- Môi trường là toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay
một sinh vật tồn tại, phát triển, trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy
(Hoàng Việt, Từ điển Tiếng Việt, 1998).
- Sau Hội nghị Stockholm, năm 1972 đến nay, định nghĩa được dùng phổ biến là:
“Môi trường là khung cảnh tự nhiên, là khu nhà chung của giới sinh vật, là nơi con

người sinh sống, lao động, nghỉ ngơi và giải trí, là nơi hình thành và tích lũy nguồn
tài nguyên thiên nhiên”.
Theo luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (29/11/2005) thì “Môi trường bao gồm tất
cả các yếu tố tự nhiên, yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao
quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của
con người và thiên nhiên”.
2.1.2.Bảo vệ môi trường
Theo Luật bảo vệ môi trường năm 2005 “Bảo vệ môi trường là hoạt động
giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến
với môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường;
khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học”.
2.1.3.Xã hội hóa trong bảo vệ môi trường
• Xã hội hóa
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin thì thuật ngữ
xã hội hóa được giải thích là “làm cho trở thành của chung của xã hội”. Với ví dụ
xã hội hóa tư liệu sản xuất, tức là quốc hữu hóa tư liệu sản xuất. Nghĩa của cụm từ
này trong các tiếng nước ngoài cũng tương tự (đặt dưới sự kiểm soát của chính phủ
hay sở hữu tập thể; luyện cho hợp với môi trường xã hội; làm cho phù hợp với tư
tưởng và triết lý xã hội chủ nghĩa; quốc hữu hóa…)”.
Theo Tiến sĩ Nông Phú Bình viết trong cuốn Một số thuật ngữ hành chính do
Nhà xuất bản Thế giới xuất bản năm 2000, thì “ Xã hội hóa là quá trình chuyển
hóa, tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực
hoạt động kinh tế - xã hội, trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước”.
• Xã hội hóa trong bảo vệ môi trường
Trong thực tế, công tác xã hội hóa trong bảo vệ môi trường (BVMT) đã được
thực hiện ở nhiều địa phương, nhiều quốc gia, dưới nhiều hình thức khác nhau
nhưng cho đến nay chưa có một khái niệm chuẩn nào về xã hội hóa trong bảo vệ
môi trường. Tuy nhiên có thể hiểu một cách khái quát nhất, xã hội hóa trong

BVMT là việc huy động tất cả các nguồn lực từ các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh, các tổ chức xã hội và cộng đồng tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường.
Như vậy, xã hội hóa trong BVMT được nhìn nhận dưới các nội dung sau:
- Là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào
BVMT.
- Là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với tạo lập và
thực hiện các biện pháp nhằm cải thiện, BVMT.
- Là đa dạng hóa các hình thức hoạt động trong lĩnh vực BVMT. Bên cạnh việc
củng cố vai trò của nhà nước, cần phát triển rộng rãi các hoạt động do các tập thể
hoặc cá nhân tiến hành.
- Là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng và nhân lực, vật lực và tài
lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân.
• Mục tiêu của xã hội hóa trong bảo vệ môi trường
Xã hội hóa trong BVMT là hướng tới toàn dân thuộc mọi giai cấp, mọi tầng lớp xã
hội. Nhiệm vụ cơ bản của xã hội hóa trong BVMT là nâng cao nhận thức của cộng
đồng về BVMT một cách đầy đủ và động viên khuyến khích quần chúng tham gia
BVMT với mục tiêu cơ bản đó là:
- Nâng cao ý thức BVMT của người dân, mọi người đều phải nhận thức được tầm
quan trọng của môi trường và có ý thức BVMT. Xã hội hóa trong BVMT tạo điều
kiện cho người dân thực sự làm chủ, có trách nhiệm bảo vệ môi trường sống cho
mình và cộng đồng.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân, các thành phần kinh tế tham gia vào giải
quyết các vấn đề môi trường, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, đưa công tác quản
lý, giữ gìn vệ sinh môi trường vào nền nếp, có hiệu quả thiết thực và nâng cao chất
lượng môi trường.
- Từng bước giảm dần sự bao cấp của Nhà nước, tăng nguồn thu phí dịch vụ vệ
sinh môi trường từ người dân, huy động các nguồn lực tự có trong dân để góp phần
làm tốt công tác bảo vệ môi trường: từng bước chuyển dần cơ chế Nhà nước chịu
trách nhiệm cho các vấn đề môi trường sang việc người được hưởng lợi trực tiếp sẽ
phải chi trả phí dịch vụ, khi đó người được hưởng lợi sẽ yêu cầu người cung cấp

dịch vụ với chất lượng tốt hơn, và thay đổi tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước.
- Tạo công ăn việc làm và thu nhập chính đáng cho một bộ phận dân cư địa
phương: xã hội hóa trong BVMT khuyến khích các thành phần kinh tế, các cá nhân
tham gia vào BVMT hình thành nên các công ty, hợp tác xã (HTX), các tổ cung
cấp dịch vụ vệ sinh môi trường…vì vậy sẽ thu hút một lực lượng lao động, giải
quyết công ăn việc làm cho một bộ phận dân cư, nâng cao thu nhập và mức sống
cho một bộ phận lao động địa phương.
- Tạo sức mạnh tổng hợp cho công tác BVMT: xã hội hóa trong BVMT sẽ huy
động được sức mạnh của quần chúng, các tổ chức chính trị xã hội và cộng đồng kết
hợp với vai trò của Nhà nước tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện các mục tiêu
môi trường. Sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, các tổ chức sẽ giảm bớt
gánh nặng cho Nhà nước và chính quyền trong việc thực hiện các chủ trương và
chính sách về môi trường, cho phép các cơ quan tập trung mạnh hơn vào các hoạt
động điều phối để thực hiện được mục tiêu BVMT nói riêng và phát triển bền vững
nói chung.
• Nội dung của xã hội hóa trong bảo vệ môi trường
Trên cơ sở những mục tiêu trên, xã hội hóa trong BVMT được cụ thể hóa thành
những nội dung sau:
- Tuyên truyền giáo dục ý thức BVMT làm cho mọi người dân nhận thức được việc
giữ cho môi trường trong sạch là vấn đề hết sức quan trọng để bảo vệ bản thân, gia
đình và toàn xã hội. Mỗi người dân có trách nhiệm xây dựng cho mình nếp sống
sạch, tích cực tham gia bảo vệ môi trường.
- Phát động phong trào thi đua BVMT thông qua các chương trình, kế hoạch cụ thể
có đánh giá thi đua và khen thưởng.
- Xây dựng mô hình tổ chức quản lý thích hợp tùy vào điều kiện tự nhiên-kinh tế -
xã hội và hiện trạng môi trường từng khu vực, từng địa phương để lực chọn mô
hình hợp lý nhằm phát huy công tác BVMT một cách hiệu quả nhất.
- Xây dựng các cơ chế, chính sách quản lý xã hội hóa trong BVMT, tạo điều kiện
thuận lợi để khuyến khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế tham gia
BVMT.

2.2.Thực trạng xã hội hóa trong bảo vệ môi trường tại Việt Nam
2.2.1.Khái quát tình hình chung về xã hội hóa trong bảo vệ môi trường tại Việt
Nam
Nhìn lại công tác BVMT trong thời gian qua, hoạt động xã hội hóa đã có
những thành tích đáng ghi nhận. Rõ nét nhất là trong lĩnh vực thu gom, xử lý chất
thải rắn. Tại TP Hồ Chí Minh tỷ lệ tham gia vào công tác thu gom, vận chuyển chất
thải rắn sinh hoạt giữa các thành phần tư nhân và nhà nước là 40% và 60%. Ở Hà
Nội, hiện nay ngoài công ty URENCO còn có các đơn vị ngoài quốc doanh tham
gia thu gom chất thải rắn như công ty cổ phần Thăng Long, Công ty cổ phần Xanh,
hợp tác xã Thành Công… Nhiều địa phương khác cũng đã có các đơn vị tư nhân
thực hiện như Công ty thị chính Kiến An và Công ty công trình công cộng Đồ Sơn
ở Hải Phòng, Công ty cổ phần công nghiệp Cẩm Phả và công ty TNHH An Lạc
Viên ở Quảng Ninh, công ty TNHH Huy Hoàng ở Lạng Sơn… Trong lĩnh vực xử
lý chất thải rắn cũng đã có sự tham gia của khối tư nhân như công ty SERAPHIN,
Tâm Sinh Nghĩa, Thủy lực máy…
Trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế, xây dựng các công trình xử lý chất thải…
cũng đã có nhiều công ty, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia. Nhiều viện
nghiên cứu, trung tâm tư vấn tư nhân, quy tụ những chuyên gia môi trường, đang
là lực lượng chính trong việc tư vấn, thực hiện các báo cáo đánh giá tác động môi
trường cho các doanh nghiệp, đánh giá môi trường chiến lược cho các dự án chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch của nhiều cơ quan quản lý.
Thời gian qua, công tác phổ biến, thúc đẩy BVMT trong các tầng lớp quần
chúng nhân dân cũng đã được hình thành và bước đầu thực hiện có hiệu quả. Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã ký kết với Bộ TNMT các Nghị
quyết liên tịch về thúc đẩy BVMT. Giải thưởng môi trường được công bố hàng
năm, các phòng trào BVMT ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, xã hội hóa BVMT cũng đang có nhiều bất cập. Cụ thể là chưa
xây dựng được các quy định pháp lý để khuyến khích khối tư nhân tham gia sâu
rộng hơn nữa vào BVMT, ví dụ như trong lĩnh vực xử lý, phục hồi các điểm ô
nhiễm, lĩnh vực công nghiệp môi trường; chưa có cơ chế cạnh tranh lành mạnh và

công bằng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước tham gia BVMT.
Vẫn còn những đối xử chưa thực sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau tham gia bảo vệ môi trường.
2.2.2.Thực trạng việc thực hiện các mô hình xã hội hóa trong bảo vệ môi trường
tại Việt Nam
Để thực hiện tốt công tác xã hội hóa trong BVMT, một nội dung quan trọng
là xây dựng các mô hình xã hội hóa trong BVMT nhằm đưa vấn đề bảo vệ môi
trường tới gần cộng đồng hơn và từng bước tiến hành xã hội hóa.
Các mô hình được xây dựng có sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn. Mô hình
xã hội hóa bảo vệ môi trường được triển khai trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Mô
hình xã hội hóa trong BVMT hiện nay được tập trung vào 4 loại cơ bản: mô hình
trong đời sống sinh hoạt, mô hình trong nông nghiệp, mô hình trong công nghiệp
và các phong trào BVMT. Qua việc thực hiện, các mô hình đã mang lại những
chuyển biến tích cực trên mọi phương diện của đời sống kinh tế- xã hội, góp phần
thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nâng cao ý thức cộng đồng trong BVMT.
a.Mô hình xã hội hóa bảo vệ môi trường trong đời sống sinh hoạt
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Nước, Tưới tiêu và Môi trường , hiện có
các mô hình tổ chức thu gom, xử lý rác thải sau:
- Mô hình thu gom tự quản do dân tự tổ chức: Đây là hình thức phổ biến ở các
vùng nông thôn, do người dân tự thỏa thuận và cử người thu gom cho 1 xóm hoặc
1 cụm dân cư. Rác thải sau khi thu gom thường là đổ lộ thiên ven đường làng, bờ
mương, chưa được sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp địa phương cả về tài chính và
chính sách, người thu gom rác phải tự trang bị phương tiện thu gom, thu nhập
trung bình chỉ đạt 100.000-150.000 đ/người/tháng, không được hưởng các chế độ
bảo hiểm y tế, xã hội và bảo hộ lao động. Hoạt động không chuyên nghiệp, số lần
thu gom trung bình 1 lần/tuần, có nơi 2 tuần/1 lần chủ yếu thu gom rác cho khu
vực ven đường chính và khu tập trung dân cư.
- Mô hình thu gom do xã, thôn tổ chức: Đã có sự quan tâm của chính quyền địa
phương như hỗ trợ về phương tiện thu gom, nhiều địa phương đã qui hoạch được
điểm tập kết, bãi chôn lấp rác. Tuy nhiên, các mô hình này cũng chỉ dừng lại ở

nhiệm vụ thu gom rác thải từ khu dân cư đến các điểm tập kết, chưa có các biện
pháp kỹ thuật trong phân loại, xử lý rác thải. Chưa xây dựng được cơ chế và nguồn
tài chính để duy trì công tác thu gom, xử lý rác thải. Thu nhập của người thu gom
trung bình 200.000-300.000 đ/tháng, người thu gom chưa được hưởng các chế độ
bảo hiểm y tế, xã hội. Hoạt động thiếu chuyên nghiệp dẫn đến hiệu quả thấp. Trách
nhiệm của các cấp địa phương chủ yếu là hỗ trợ (có đến đâu hỗ trợ đến đấy) mà
chưa xây dựng được quy trình thu gom, xử lý rác thải đảm bảo các yêu cầu vệ sinh
môi trường .
Tổ tự quản thu gom rác thải sinh hoạt tại xã Nam Cường, thành phố Yên Bái
hoạt động theo mô hình trên. Người dân tại các thôn trong xã trực tiếp tham gia thu
gom rác thải sinh hoạt theo 5 nhóm nhỏ, do Hội nông dân xã điều hành trực tiếp.
Người thu gom được trang bị xe chở rác chuyên dụng, quần áo bảo hộ. Rác sau khi
thu gom được tập kết ra khu vực thuận tiện để Công ty công trình môi trường đô
thị Yên Bái thu gom và vận chuyển về bãi rác. Thu nhập hàng tháng của các thành
viên do người dân nộp phí từ 5000-10000 đ/tháng tùy khu vực sinh sống.
- Các mô hình hợp tác xã (HTX) dịch vụ VSMT: Được coi là 1 trong những mô
hình hoạt động hiệu quả, đặc biệt ở vùng nông thôn. Hoạt động theo luật HTX, có
điều lệ hoạt động, phương án sản xuất dịch vụ, kết hợp nhiều loại dịch vụ môi
trường như thu gom rác thải, thoát nước, cây xanh, quản lý nghĩa trang Hình thức
này chủ yếu ở các thị trấn, thị tứ, các xã. Hầu hết các HTX dịch vụ môi trường đã
được đầu tư xe thu gom rác, một số nơi đã được đầu tư xe vận chuyển rác thải. Thu
nhập của người làm dịch vụ môi trường trung bình từ 500.000 – 1.000.000
đ/người/tháng, người lao động được trang bị bảo hộ lao động, bảo hiểm y tế và bảo
hiểm xã hội. Số lần thu gom: 3-7 lần/tuần.
Điển hình cho mô hình này như: HTX môi trường và dịch vụ thương mại
Thành Vinh( Dương Kinh- Hải Phòng) được thành lập năm 2008 theo Luật Hợp tác
xã, ngành nghề kinh doanh chính: thu gom, vận chuyển rác thải, dịch vụ vệ sinh
môi trường. Khi bắt đầu thành lập, HTX thực hiện thu gom xử lý rác thải trên địa
bàn 2 phường Hưng Đạo và Đa Phúc với khối lượng năm 2008 là 900m
3

; năm
2009 là 10.152m
3
. Năm 2010, HTX thực hiện thu gom xử lý trên địa bàn 5 phường
thuộc quận quận Dương Kinh, với khối lượng 15.465,99m
3
; năm 2011, thu gom đạt
21.000m
3
rác thải. Hiện tại, HTX đang tiếp tục triển khai đề án thu gom, vận
chuyển, xử lý rác thải nông thôn tại xã Phù Ninh, huyện Thủy Nguyên với mức
tham gia đóng phí thu gom rác thải của các hộ dân đạt 92 – 94%. Năm 2011 đạt
doanh thu 2.418 triệu đồng, đảm bảo mức thu nhập bình quân của 1 xã viên 2.5
triệu đồng/tháng. Bộ máy quản lý HTX gồm 6 người với mức thu nhập trung bình
từ 3.5 triệu đến 5 triệu đồng/tháng.
Như vậy, ưu điểm của mô hình này là việc hoạt động mang tính chất chuyên
trách, cơ cấu chặt chẽ, giữa các xã viên có sự phân chia trách nhiệm và lợi nhuận
thu được nên họ có trách nhiệm và hiệu quả công việc tương đối cao. Tuy nhiên
hạn chế nằm ở chỗ, kinh phí hoạt động của các HTX phần lớn do tự túc, kinh
doanh bằng vốn tự có, sự hỗ trợ từ chính quyền hay Nhà nước còn hạn chế, và
chưa có sự hỗ trợ của công nghệ xử lý hiện đại nên khâu xử lý rác thải chưa tốt.
- Mô hình doanh nghiệp hoạt động công ích chuyên trách BVMT: Ở loại mô hình
này, doanh nghiệp chuyên trách về môi trường ( do Nhà nước hoặc tư nhân thành
lập) đảm nhận việc huy động sự đóng góp của cộng đồng dân cư. Nguồn lực hoạt
động của mô hình có sự hỗ trợ từ nhiều nguồn như hỗ trợ tài chính từ ngân sách địa
phương, thu phí môi trường từ cộng đồng( dân cư, kinh doanh, sản xuất ), các dự
án môi trường trong nước và các tổ chức quốc tế tài trợ.
Điển hình cho mô hình này là Công ty TNHH MTV Môi trường Đô thị Hà
Nội (URENCO) là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc UBND thành phố Hà Nội,
hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con. URENCO là doanh nghiệp

chính chịu trách nhiệm quản lý môi trường, thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải
đô thị trên địa bàn Hà Nội, cung ứng các dịch vụ vệ sinh môi trường đô thị và khu
công nghiệp trên phạm vi toàn quốc. URENCO phụ trách thu gom, vận chuyển và
xử lý chất thải ở 4 Quận trung tâm của thành phố Hà Nội là Hoàn Kiếm, Ba Đình,
Đống Đa và Hai Bà Trưng. Với khối lượng rác thải sinh hoạt thu gom trung bình là
3.500 tấn/ngày. Không chỉ phụ trách thu gom rác thải sinh hoạt phát sinh hàng
ngày, URENCO còn là công ty hàng đầu về thu gom, xử lý các loại chất thải khác
như chất thải xây dựng, chất thải công nghiệp, chất thải y tế nguy hại và phân bùn
bể phốt.
Doanh nghiệp do tư nhân thành lập như Công ty TNHH Môi trường Công
nghiệp Xanh tiền thân là công ty TNHH dịch vụ môi trường vận tải được thành lập
từ năm 1998 với điểm xuất phát ban đầu từ ý tưởng thành lập nhóm thu gom rác
thải công nghiệp doanh nhân Đỗ Vĩnh Thành tại xã Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên,
tỉnh Vĩnh Phúc. Ngành nghề kinh doanh chính của công ty là dịch vụ làm sạch, vệ
sinh môi trường; sử dụng và tái chế các chất thải công nghiệp, thu mua phế liệu
công nghiệp; sản xuất sắt thép, đúc kim loại; cho thuê kho, bãi đỗ xe; thu gom
quản lý chất thải, dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải nguy hại; vận tải
bốc xếp hàng hóa, khai thác; chế biến, kinh doanh đất, đá, cát sỏi và các vật liệu
xây dựng khác. Công ty đã đầu tư xây dựng trung tâm tái chế phế thải và xử lý chất
thải là một cơ sở tái chế và xử lý hiện đại nhất trên địa bàn tỉnh với quy trình xử lý
rác thải khép kín bằng các hệ thống xử lý có công suất từ 20 - 30 tấn rác/ngày.
Tổng kinh phí đầu tư ban đầu khoảng 80 tỷ đồng. Những công đoạn xử lý chất thải
được đảm bảo an toàn tuyệt đối cho môi trường.
Mô hình này đang ngày càng được nhân rộng đặc biệt là tại các thành phố, thị xã,
đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh Qua đó, có thể thấy được vai trò
rất lớn của các doanh nghiệp của các doanh nghiệp trong nỗ lực BVMT, do có
những ưu điểm như thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải nhanh hơn, chuyên nghiệp,
có sự đầu tư về cơ sở kỹ thuật, máy móc hiện đại. Tuy nhiên, điểm hạn chế của mô
hình này là nguồn kinh phí đầu tư cho trang thiết bị, sự hỗ trợ của Nhà nước còn
hạn chế, việc vay vốn gặp nhiều khó khăn, địa bàn xây dựng trung tâm xử lý chất

thải còn gặp nhiều khó khăn từ phía người dân, chính quyền địa phương. Hiện nay,
có quá ít cơ chế khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, cả về
nguồn vốn và công nghệ. Để đầu tư hoạt động lĩnh vực này, doanh nghiệp phải
tuân thủ, thực hiện khá nhiều quy định. Ngoài quy định của Luật Doanh nghiệp,
Đầu tư,…doanh nghiệp phải tuân thủ chặt chẽ các quy định Luật Bảo vệ môi
trường. Trong khi đó, nguồn thu lĩnh vực này còn rất hạn chế. Khi đăng ký, kê
khai, các chủ nguồn chất thải nguy hại thường có xu hướng khai giảm đi so với
lượng rác thải thực tế. Thiếu cơ chế hỗ trợ, nguồn thu kém là lý do khiến số doanh
nghiệp tư nhân đầu tư, hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn quá ít, quy
mô hoạt động nhỏ lẻ.
b.Mô hình xã hội hóa bảo vệ môi trường trong nông nghiệp
Việt Nam là một quốc gia đi lên từ nông nghiệp lạc hậu, thô sơ chủ yếu canh
tác theo lối thủ công là chính. Việc canh tác trong nông nghiệp từ trước đến nay đã
và đang ảnh hưởng lớn tới môi trường. Việc ảnh hưởng này đã gây những tác
động không nhỏ và cần sớm được cải thiện như việc sử dụng các loại hoá chất
độc hại, việc canh tác không đúng kĩ thuật, không đảm bảo an toàn, vệ sinh môi
trường.
Việc thực hiện các mô hình làng sinh thái bền vững gắn kết giữa phát
triển kinh tế nông, lâm nghiệp với bảo vệ môi trường cùng các chương trình
tập huấn vệ sinh môi trường, kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt , đã giúp cho môi
trường nông nghiệp được cải thiện, kinh tế tăng lên rõ rệt, tỷ lệ các hộ nghèo giảm
đi đáng kể, tạo việc làm cho nhân dân nông thôn và miền núi, góp phần xóa đói
giảm nghèo, diện tích rừng được phục hồi nhanh chóng, chấm dứt tình trạng
khai thác rừng bừa bãi. Đó chính là các mô hình làng sinh thái, mô hình trồng
cây gây rừng kết hợp với bảo vệ môi trường, mô hình RVAC ở Quảng Trị,
Hải Dương, Bắc Kạn, Lào Cai.
Một điển hình tiêu biểu là làng sinh thái phủ xanh đồi trọc ( thôn Số, xã Hợp
Nhất, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây ): Làng sinh thái xây dựng cho vùng đất dốc, vùng
đất được đánh giá là có điều kiện địa hình đa dạng và phức tạp nhất. Do địa hình
phức tạp nên giao thông đi lại khó khăn, hạn chế sự buôn bán, trao đổi hàng hoá,

thông tin giữa các cộng đồng dân cư trong vùng. Làng Hợp Nhất là làng người Dao
xuống núi định canh, định cư, được hình thành từ những năm 60. Trước đây, do
phong tục tập quán, cách sống của đồng bào người Dao ở Ba Vì, không biết trồng
trọt thâm canh tăng vụ nên đất dốc, trơ trọi, bị xói mòn, cây lương thực chưa được
trồng. Việc khai thác rừng, sử dụng tài nguyên rừng rất bừa bãi và thiếu hợp lý.
Thu nhập của người dân Hợp Nhất rất thấp so với toàn huyện. Từ khi xây dựng
Làng sinh thái (1993) đến nay, bộ mặt của xã Hợp Nhất đã từng bước thay đổi.
Cuộc sống ấm no hơn, cơ cấu hạ tầng cơ sở phát triển, trình độ hiểu biết của bà con
được nâng cao, thay đổi cả về vật chất và tinh thần. Vận dụng VAC để phát triển
kinh tế gia đình, ở các sườn dốc bà con tận dụng làm máy phát điện, làm đập giữ
nước để tưới cây trồng vào các mùa khô. Đến năm 2007, 95% các gia đình đều có
vườn bậc thang trồng rau, quả cung cấp cho người, chăn nuôi lấy thịt bán ra thị
trường, lấy phân cho cá, cho vườn. Vì vậy, bà con vừa có thêm thu nhập vừa bảo
vệ được môi trường. Hiện nay, Làng sinh thái Hợp Nhất đã có trường học cho các
cháu, y tế phát triển. Có thể nói, mô hình Làng sinh thái Hợp Nhất trên vùng đất
dốc mang đặc trưng của vùng với mô hình ruộng bậc thang thích hợp phát triển cây
xanh nhằm mục tiêu phủ xanh đất trống đồi núi trọc đã có ảnh hưởng theo chiều
hướng tốt tới môi trường, góp phần cải thiện môi trường, từng bước nâng cao chất
lượng môi trường sống trên vùng đất dốc, biến một vùng đất khắc nghiệt thành nơi
môi trường gắn kết với con người.
c.Mô hình xã hội hóa bảo vệ môi trường trong công nghiệp
Hiện nay với một thực trạng thực tế là môi trường trong các ngành công
nghiệp bị ô nhiễm rất nặng nề. Với mục tiêu giải quyết vấn đề môi trường
trong công nghiệp và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, việc áp
dụng sản xuất sạch hơn đã góp phần giảm lượng chất thải, bảo đảm vệ sinh,
cải thiện đáng kể môi trường lao động; kích thích doanh nghiệp đầu tư cải tiến
công nghệ, thay đổi thiết bị, xây dựng các hệ thống xử lý chất thải; giảm đáng
kể mức tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng, tiết kiệm chi phí sản xuất; nâng
cao năng suất lao động, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường;
nâng cao nhận thức của cán bộ, công nhân về tiết kiệm nguyên vật liệu, năng

lượng về bảo vệ môi trường; tăng thu nhập cho người lao động, cải thiện mối
quan hệ giữa công nhân viên và lãnh đạo doanh nghiệp. Đến nay, các mô hình
này đã và đang tiếp tục được nhân rộng ở nhiều nhà máy, doanh nghiệp công
nghiệp như: mô hình áp dụng tiếp cận sản xuất sạch hơn trong công nghiệp;
mô hình áp dụng chương trình cải tiến doanh nghiệp (FIP) tại Việt Nam
Theo Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP), sản xuất sạch hơn
là việc áp dụng liên tục chiến lược phòng ngừa tổng hợp về môi trường vào các
quá trình sản xuất, sản phẩm và dịch vụ, nhằm nâng cao hiệu suất sinh thái và giảm
thiểu rủi ro cho con người và môi trường. Công ty cổ phần giấy xuất khẩu Thái
Nguyên, công ty tinh bột sắn FOCOCEV từng là những doanh nghiệp gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng nằm trong danh sách của Quyết định 64 về xử lý các
doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường thì đến nay vấn đề ô nhiễm nước thải của
các công ty này đã được giải quyết và ra khỏi danh sách. Ngoài ra các doanh
nghiệp thuộc Chương trình sau khi áp dụng hệ thống quản lý môi trường đơn giản
và sản xuất sạch hơn đã giải quyết cơ bản được các vấn đề môi trường, đồng thời
tận dụng tái sử dụng lại 100% chất thải hoặc xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi
trường với chi phí hợp lý như công ty xi măng Lưu Xá, công ty giấy Sông Lam.
Các doanh nghiệp tham gia sản xuất sạch hằng năm có thể tiết kiệm khoảng 23,8 tỷ
đồng nhờ giảm tiêu thụ nguyên, vật liệu. Sau khi áp dụng sản xuất sạch hơn, doanh
nghiệp còn cải thiện được môi trường lao động, tránh tiếp xúc với khí thải, hóa
chất độc hại. Như vậy việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong sản xuất công nghiệp
vừa mang lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường, đảm bảo cho việc thực hiện phát
triển bền vững. Tuy nhiên, rào cản đối với việc áp dụng rộng rãi Chương trình này
đầu tiên là từ chính sách Nhà nước, tuy có nhiều cố gắng và xây dựng được hệ
thống chính sách về bảo vệ môi trường tương đối toàn diện, nhưng còn gặp nhiều
khó khăn trong việc cưỡng chế tuân thủ đối với các quy định của Nhà nước. Do
vậy nhiều cơ sở sản xuất chưa thật sự quan tâm đến bảo vệ môi trường. Rào cản
thứ hai liên quan đến động lực của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp cho rằng
bảo vệ môi trường là việc của Nhà nước. Tư tưởng trông chờ sự hỗ trợ của Nhà
nước trong các hoạt động bảo vệ môi trường, trong đó có áp dụng sản xuất sạch

hơn còn tương đối phổ biến. Về mặt kỹ thuật, nhiều cơ sở sản xuất còn yếu về
kiểm toán và hạch toán nội bộ nên không đo đếm được mức chi phí của mình mất
đi theo chất thải. Do vậy không nhận thấy sự cần thiết của việc áp dụng sản xuất
sạch hơn để giảm chất thải đồng thời giảm chi phí sản xuất. Rào cản mang tính
quản lý, bao gồm: văn hóa doanh nghiệp, sự phù hợp của SXSH đối với phương
thức quản lý của Việt Nam, và kỹ năng quản lý của các chủ doanh nghiệp cũng là
một hạn chế cần được thay đổi cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao từ sản xuất
sạch trong công nghiệp.
d.Các phong trào xã hội hóa bảo vệ môi trường
Hiện nay, các phong trào xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường là rất
cần thiết và phát huy tác dụng. Các đoàn thể nhân dân, tổ chức chính trị xã
hội các cấp với thế mạnh lực lượng đông đảo và nhiệt tình như Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Phụ nữ đã tích cực xây dựng
và duy trì các phong trào bảo vệ môi trường đạt hiệu quả cao, góp phần làm
sạch môi trường nông thôn; tạo dựng thói quen, nếp sống vệ sinh, sạch sẽ; giúp
người dân được tiếp cận, sử dụng, tiết kiệm nước sạch, giữ gìn vệ sinh môi trường
sống, cảnh quan xung quanh… Các phong trào này đến nay đã đạt được kết quả tốt
trong công tác vận động, tuyên truyền người dân tham gia chung tay góp phần cải
tạo môi trường.
Những năm qua, Ủy ban MTTQ thành phố Bắc Ninh tích cực phối hợp với
các tổ chức thành viên chú trọng tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ
môi trường, góp phần làm cho môi trường sống ngày càng xanh - sạch - đẹp, bảo
vệ sức khỏe con người, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương. MTTQ các
cấp thành phố và các tổ chức thành viên đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm
nâng cao nhận thức và vận động nhân dân tích cực tham gia bảo vệ môi trường với
các hình thức phong phú. Nội dung tuyên truyền tập trung vào các vấn đề: Thực
trạng, nguy cơ và các hiểm họa tác động từ môi trường đến cuộc sống con người,
các giải pháp cần thực hiện tại cộng đồng dân cư, trách nhiệm của mỗi người dân
trong việc bảo vệ môi trường… Cùng với việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận
động, việc phát động các phong trào thi đua tham gia bảo vệ môi trường cũng được

chú trọng. MTTQ lồng ghép phong trào “Đoàn kết xây dựng môi trường cảnh quan
sạch đẹp” với thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư”. Các tổ chức thành viên xây dựng, phát động các phong trào thi
đua phù hợp với hoạt động của tổ chức mình như: Đoàn Thanh niên với phong trào
“Thanh niên xung kích tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng”, “Hành trình xanh”;
Hội Phụ nữ với phong trào “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”… Các phong trào
thi đua phát triển mạnh mẽ góp phần thay đổi nhận thức và từng bước hình thành
thói quen bảo vệ môi trường trong mỗi người dân thành phố.
2.3.Giải pháp tăng cường xã hội hóatrong bảo vệ môi trường
2.3.1 Hoàn thiện cơ sở pháp lý về xã hội hoá trong bảo vệ môi trường
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, tăng cường xã hội hóa trong
công tác bảo vệ môi trường; hình thành hệ thống các văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành theo hướng thống nhất, công bằng, hiện đại và hội nhập, khắc
phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, không rõ trách nhiệm và thiếu khả thi. Hệ
thống pháp luật về môi trường phải tương thích, đồng bộ trong tổng thể hệ thống
pháp luật chung của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Cân đối, bố trí các nguồn vốn ODA, vốn tín dụng trong kế hoạch ngân sách
hàng năm cho công tác xã hội hóavề môi trường, tạo điều kiện về thủ tục hành
chính để các tổ chức, cá nhân tham gia sâu rộng vào các loại hình xã hội hóa.
2.4.2 Nâng cao nhận thức, tăng cường thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức
về công tác bảo vệ môi trường.
Cần thấy rõ rằng công tác thông tin, tuyên truyền, huấn luyện, phổ biến kiến
thức có vai trò hết sức đặc biệt để nâng cao nhận thức, hiểu biết về bảo vệ môi
trường cho các đối tượng, từ nhà quản lý, doanh nghiệp cho đến cộng đồng. Từ đó
khơi dậy ý thức trách nhiệm, nhiệt tình, tính chủ động, tự giác của mọi đối tượng,
tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy công tác bảo vệ môi trường đạt hiệu quả cao.
Cần sử dụng nhiều phương pháp và phương tiện phong phú, có hiệu quả để
tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, huấn luyện, phổ biến kiến thức. Cơ quan
quản lý Nhà nước cần tập trung vào việc ban hành các quy định cụ thể, xây dựng
một đội ngũ có trình độ để làm nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến kiến thức về môi

trường.
Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ môi trường, có văn hóa ứng xử thân
thiện với môi trường trên cơ sở đổi mới tư duy, hành vi ứng xử, ý thức trách nhiệm
với thiên nhiên, môi trường của mỗi người dân trong xã hội.
Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết, xây dựng
các chuẩn mực, hình thành ý thức, lối nghĩ, cách làm, hành vi ứng xử thân thiện
với thiên nhiên, môi trường góp phần nâng cao nhận thức của người dân, doanh
nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức phi chính phủ tham gia tích cực
vào công tác bảo vệ môi trường.
Thực hiện đa dạng hóa về hình thức và nội dung các hoạt động bảo vệ môi
trường như: hội thảo, hội thi, nghiên cứu khoa học, nhận rộng mô hình điểm bảo vệ
môi trường,… nhằm tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ môi trường cho mỗi cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp, trong trường học,
Tập huấn về kiến thức môi trường và kỹ năng tổ chức các hoạt động truyền
thông bảo vệ môi trường để nâng cao năng lực cho cán bộ các cấp.
Thành lập các hội, tổ chức (thanh niên, phụ nữ, người cao tuổi, cựu chiến
binh,…) ở địa phương từ tỉnh đến thôn làng tình nguyện đảm trách công tác bảo vệ
môi trường để vừa tuyên truyền, giải thích đến từng hộ dân cư, định kỳ thực hiện
làm sạch môi trường để tạo thói quen tự giác cho người dân.
2.3.3 Cải tiến tổ chức quản lý trong bảo vệ môi trường
(1) Tăng cường hơn nữa vai trò quản lý của Nhà nước về bảo vệ môi trường: Cần
phải nhận thức đầy đủ rằng đặt ra vấn đề xã hội hoá bảo vệ môi trường không có
nghĩa là giảm nhẹ, chuyển giao bớt trách nhiệm của Nhà nước về bảo vệ môi
trường cho xã hội, mà trái lại càng phải đề cao, tăng cường hơn nữa trách nhiệm
quản lý của Nhà nước. Vấn đề cần đặt ra ở đây là cơ quan quản lý Nhà nước cần
thấy rõ trách nhiệm, làm đúng chức năng, tập trung tốt cho chức năng quản lý của
Nhà nước mà không thể có ai thay thế được; đồng thời san sẻ, giảm bớt các hoạt
động sự nghiệp, dịch vụ bảo vệ môi trường, không ôm đồm, làm thay vai trò của
các tổ chức xã hội, cơ quan chuyên môn trong các hoạt động tác nghiệp, dịch vụ về
bảo vệ môi trường.

(2) Coi trọng công tác quản lý và tổ chức thực hiện công tác bảo vệ môi trường ở
cơ sở: Cần xây dựng bộ máy tổ chức, quản lý công tác an toàn vệ sinh lao động ở
các đơn vị cơ sở theo nguyên tắc nêu cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng
lao động, người quản lý, vừa có sự phân công, phân cấp, xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ để huy động sự tham gia của các đoàn thể, các đơn vị chức năng và của
NLĐ trong cơ sở vào hoạt động ATVSLĐ, bảo đảm thực hiện đồng bộ các hoạt
động trong chu trình quản lý ATVSLĐ ở cơ sở.
(3) Cần có cơ chế để bảo đảm sự tham gia của các cấp, các ngành, các địa
phương, cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội vào hoạt động bảo vệ
môi trường: Cần xây dựng và ban hành quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm, các phương thức hoạt động trong bảo vệ môi trường của các tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội trong quá trình thực hiện xã hội hoá bảo vệ môi trường.
Việc thành lập một tổ chức dưới dạng như một Hội đồng hoặc Ban chỉ đạo về công
tác bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương, cơ sở để vừa làm tham mưu
cho các cấp chính quyền (ở Trung ương, địa phương) hoặc cho người sử dụng lao
động (ở cơ sở) vừa là tổ chức đầu mối để điều hoà, phối hợp sự tham gia, cộng tác
cùng thực hiện công tác bảo vệ môi trường là một hình thức hay, cần được triển
khai ở các cấp.
2.3.4 Đa dạng hoá các nguồn đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường
Một mặt cần tăng cường hơn nữa đầu tư từ ngân sách Nhà nước của Trung
ương và địa phương cho công tác bảo vệ môi trường, mặt khác cần làm cho các
ngành sản xuất, các doanh nghiệp thấy rõ trách nhiệm, giành phần kinh phí thoả
đáng cho công tác bảo vệ môi trường, tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Đồng
thời huy động sự đóng góp tài chính của các tổ chức, cá nhân dưới nhiều hình thức
phong phú, khuyến khích các hoạt động sự nghiệp, các dịch vụ công về bảo vệ môi
trường, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự trang trải; khuyến khích đầu tư trong nước
và nước ngoài bằng nhiều hình thức phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của từng
hoạt động bảo vệ môi trường.
Đa dạng hóa đầu tư cho bảo vệ môi trường, thực hiện phương châm xã hội
hóa; lấy chỉ số đầu tư cho môi trường, hoạt động bảo vệ môi trường, kết quả bảo vệ

môi trường cụ thể để đánh giá.
Tăng cường công tác giám sát đảm bảo sử dụng đúng mục đích và hiệu quả
nguồn vốn đầu tư cho môi trường; xây dựng các chế tài và hình thức xử phạt đủ
mạnh, để đảm bảo các doanh nghiệp thực hiện đúng quy định của Luật Bảo vệ môi
trường là người gây ô nhiễm phải trả tiền.
2.3.5 Tạo lập cơ chế, phương thức hoạt động phong phú, huy động sự tham gia
đóng góp của cộng đồng vào công tác
Để tăng cường xã hội hoá trong công tác bảo vệ môi trường cần tạo nên một
cơ chế linh hoạt, sử dụng các phương thức và mô hình hoạt động phong phú để có
thể huy động được sự đóng góp nhiệt tình, chủ động và bình đẳng của mọi tổ chức,
cá nhân ở nước ta.
- Xây dựng và thực hiện các mô hình hợp tác công tư Nhà nước và nhân dân
cùng làm trong bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong việc khắc phục, cải tạo các
điểm nóng về môi trường.
- Hết sức coi trọng cơ chế phối hợp liên ngành, tôn trọng và phát huy vai trò
của các tổ chức xã hội trong hoạt động bảo vệ môi trường. Thành lập các tổ chức
như Hội đồng hoặc Ban chỉ đạo công tác bảo vệ môi trường ở địa phương, cơ sở
- Hình thành và đưa vào hoạt động các quỹ, trong đó có những quỹ do Nhà
nước quản lý như “Quỹ đền bù môi trường” và cũng những quỹ do các tổ chức xã
hội thành lập như “Quỹ khuyến khích động viên phát huy sáng kiến bảo vệ môi
trường”,…
- Tổ chức nhiều hình thức sinh hoạt cộng đồng về bảo vệ môi trường như
các Câu lạc bộ, các Hội thi sáng kiến bảo vệ và cải thiện môi trường, các cuộc thi
tranh, áp phích về môi trường, các giải thưởng về khoa học công nghệ góp phần
bảo vệ môi trường…
- Xây dựng các mô hình, các điển hình để nêu gương cho các nơi trong cả
nước học tập, làm theo; Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào công
tác bảo vệ môi trường, lựa chọn những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, tiêu
biểu để tôn vinh khen thưởng từ đó nhân rộng các điển hình tiên tiến bảo vệ môi
trường.

- Lồng ghép, tích hợp trong hệ thống giáo dục các nội dung về môi trường
và bảo vệ môi trường trong các cấp học từ mầm non đến đại học. Ngoài ra, cần đưa
giáo dục môi trường vào các cơ sở đào tạo nghề và đặc biệt chú trọng công tác
cung cấp và phổ biến thông tin cho cộng đồng…
PHẨN III:KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Từ thực trạng công tác xã hội hóa trong bảo vệ môi trường và cụ thể hơn là thực
trạng những mô hình cụ thể về xã hội hoá trong bảo vệ môi trường đã triển khai tại
Việt Nam nêu trên có thể đánh giá được một cách khái quát hiệu quả về các góc độ
như kinh tế, quản lý, xã hội và môi trường. Mặc dù các mô hình trên được thực
hiện dưới các hình thức khác nhau, nguồn kinh phí có thể là do nhà nước bao cấp
hay được huy động từ trong cộng đồng dân cư thì chúng đều có hiệu quả rất cao và
cần được triển khai áp dụng rộng rãi theo cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Nhìn chung
các mô hình này đều mang lại hiệu quả tốt về môi trường, lượng chất thải được thu
gom, vận chuyển và xử lý nhiều hơn… đem lại môi trường sống trong lành, đảm
bảo vệ sinh và sức khoẻ cộng đồng. Về mặt kinh tế thì có mô hình có hiệu quả rất
tốt tiết kiệm chi phí cho ngân sách nhà nước hay nguồn thu từ phí vệ sinh môi
trường được tăng cường đóng góp vào ngân sách nhà nước nhưng có mô hình chỉ
đạt được mức độ trung bình (mô hình tự quản, hợp tác xã). Về mặt xã hội hầu hết
tất cả các mô hình này đều mang lại hiệu quả rất tốt, ý thức người dân về bảo vệ
môi trường được nâng cao, trách nhiệm của mỗi người ngày càng cao hơn. Qua đó,
việc triển khai mô hình xã hội hoá trong bảo vệ môi trường là cần thiết và
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội - môi trường tại Việt Nam.
Tuy nhiên, công tác xã hội hóa trong bảo vệ môi trường cũng có nhiều rào cản.
Đầu tiên là từ hệ thống pháp lý mặc dù khá hoàn thiện song chưa mang tính hành
động cao, quy định chưa rõ ràng và chưa đủ nghiêm khắc, cần quy định những
hành động có thể thực thi ngay chứ không phải nhiều văn bản hướng dẫn như hiện
nay. Các cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân, cộng đồng tham gia bảo
vệ môi trường còn hạn chế, Chính phủ khuyến khích cho vay vốn những doanh
nghiệp này nhưng lại không quy định một cách rõ ràng, đa phần các công ty, doanh

nghiệp hoạt động dịch vụ bảo vệ môi trường đều phải tự xoay sở nguồn vốn, có
trường hợp đầu tư trang thiết bị hiện đại lại không được chính quyền đồng ý cho
hoạt động như nhà máy Sông Công (Thái Nguyên) hay hoạt động không hết công
suất như công ty Bích Ngọc (Bắc Giang) trong khi rác thải vẫn chỉ được thu gom,
chôn lấp sơ sài. Vấn đề thứ hai đến từ nhận thức của người dân. Mặc dù có sự tăng
cường trong công tác tuyên truyền, giáo dục người dân tham gia bảo vệ môi trường
nhưng nhiều nơi người dân vẫn coi đây là việc của Nhà nước, nhiều doanh nghiệp
vì nguồn vốn nhỏ, không muốn hoặc không thể đầu tư cho hệ thống xử lý chất thải
nên cũng tìm cách xử lý hời hợt, trốn tránh sự kiểm tra của cơ quan Nhà nước.
Trách nhiệm công tác quản lý của Nhà nước về môi trường cũng là dấu hỏi lớn.
Việc phân tích, đánh giá cũng như kiểm tra mức độ ô nhiễm, hệ thống xử lý chất
thải của các doanh nghiệp càng cần tới sự quản lý của các cơ quan chuyên môn và
Nhà nước về khung pháp lý. Các chính sách, cơ chế hỗ trợ về vốn, khuyến khích
thuế, trợ giá đối với hoạt động bảo vệ môi trường, khuyến khích áp dụng các cơ
chế chuyển nhượng, trao đổi quyền phát thải và trách nhiệm xử lý chất thải phù
hợp với cơ chế thị trường cần được áp dụng phù hợp và hiệu quả hơn.
3.2.Kiến nghị
Từ những ưu điểm và hạn chế trên, đề tài đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng
cường xã hội hóa trong bảo vệ môi trường.
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường tại Việt Nam cần được hoàn
thiện theo hướng quy định cụ thể, rõ ràng hơn, nghiêm khắc hơn và có thể thực thi
ngay mà không cần phải có quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành như hiện nay.
Thứ hai, Việt Nam cần đẩy mạnh việc xã hội hoá trong công tác bảo vệ môi
trường, nâng cao trách nhiệm của công dân, sự tham gia của các tổ chữ dân sự, tổ
chức phi chính phủ, cụ thể:

×