Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.4 KB, 72 trang )

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA VÙNG QUẢNG NAM
Thích Nữ Chúc Kim

DẪN NHẬP
Dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn đề cao tinh thần đoàn kết bền chặt, luôn tạo
nên một sức mạnh có thể vượt qua tất cả những thử thách chông gai, những nỗi áp bức
nặng nề. Lịch sử đất nước ta đã trải qua biết bao thăng trầm, khi cam chịu nô lệ, lúc độc
lập tự chủ, khi thống nhất một dải, lúc phân đôi sơn hà. Qua đó, lịch sử cũng đã để lại
những trang sử oanh liệt, hào hùng cũng như những đêm dài đen tối nô lệ hàng thế kỷ. Do
đó, con người Việt Nam vừa có tinh thần độc lập, tự cường rất cao, với tinh thần đoàn kết
gắn bó keo sơn nên đã giành lại đất nước, đánh tan quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Như chúng ta được biết, nước ta nằm trong khu vực thuở xa xưa đã có một nền văn
minh cổ đại vững chắc, đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn đã đủ sức tạo nên một cốt lõi có sức
hấp thụ, thích nghi, chuyển hóa du nhập về sau một cách nhuần nhuyễn. Đành rằng hai ba
ngàn năm phải nằm ở một miền ngoại vi của nhiều nền văn minh, đành rằng chưa tự tạo
nên một hệ thống triết học, một ý thức hệ tôn giáo, dân tộc Việt Nam đã có thể kết hợp
những yếu tố tôn giáo nội sinh với những yếu tố kế thừa của văn minh Trung Quốc, Ấn Độ
và gần đây của Châu Âu để tạo nên một bộ mặt tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam thống nhất
và đa dạng.
Như vậy, Việt Nam một quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa, trong đó Phật giáo là một
tôn giáo lớn đã du nhập vào Việt Nam từ rất lâu. Rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học
hiện nay cho rằng Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ trước công nguyên. Mặc khác, Phật
giáo đã thấm sâu vào nền văn minh Việt Nam (văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần tâm linh
và văn hóa xã hội) và nền văn minh Việt Nam đã dung hóa (bản địa hóa) trở thành một bản
chất và bản sắc dân tộc, phù hợp với đời sống và tâm hồn người Việt Nam.
Phật giáo truyền vào Việt Nam, đã hội nhập vào cuộc sống của con người, đã xóa
tan mọi khoảng cách giữa người và thần thánh. Con người Việt Nam thường sợ thần, sợ
thánh, sợ ma, sợ quỷ. Nhưng với Bụt thì không hề có một ý niệm sợ hãi, bởi vì Bụt hiền
lành, bởi ông Bụt tuy có quyền năng vô hạn như có thể thấy trong truyện Tấm Cám luôn
giúp cho người hiền lành, không hề có ý niệm trừng phạt ai. Và trong công cuộc xây dựng


đất nước và giữ nước suốt chiều dài lịch sử, các vị thiền sư và tín đồ Phật giáo đều đã có
mặt và đóng góp sự hy sinh của mình trong các cuộc đấu tranh chiến thắng quân xâm lược
và sau đó xây dựng đất nước.
Cùng hòa nhịp với sự phát triển của đất nước, Phật giáo tại xứ Quảng cũng theo
dòng lịch sử thăng trầm của đất nước, để rồi ngày nay vẫn đứng vững chắc và hòa quyện
với dân tộc, đã góp phần vào sự phát triển của thành phố, đã hội nhập vào lòng người một
cách sâu sắc với những giáo lý căn bản và cũng đã đóng góp một phần không nhỏ cho nền
văn hóa bản xứ.
1. Lý do chọn đề tài:
Trong công cuộc xây dựng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, xây dựng
một đất nước dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, một nền văn hóa
truyền thống và hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, giáo hội Phật giáo cũng như các tín đồ
đã tích cực đóng góp theo lời kêu gọi: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công” của chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối “tốt đời, đẹp đạo”.
Cùng chung với những công cuộc xây dựng ấy, Phật giáo tại xứ Quảng cũng đang trên đà
phát triển, những cơ sở sinh hoạt, những ngôi chùa, những cơ sở văn hóa Phật giáo, những
điểm du lịch mang rõ nét văn hóa Phật giáo cũng đang được nở rộ. Vì vậy, người viết được
sinh ra và lớn lên tại vùng đất này nên người viết chọn đề tài: “ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT
GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VÙNG QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG” cho luận
văn tốt nghiệp của mình, đồng thời từ đây, người viết mới có cơ hội tìm hiểu về văn hóa tại
địa phương mình, tìm hiểu thêm về sự ảnh hưởng của Phật giáo đã đóng góp cho văn hóa
bản xứ như thế nào, qua đó để biết được tầm quan trọng của Phật giáo.
Do đó, là một học viên đã biết suy nghĩ và tiếp thu ý kiến của Giáo sư, người viết
thấy có nhiều vấn đề mà mình chưa hiểu và chưa được biết tường tận, nên người viết mạo
muội mang khả năng và suy nghĩ khiêm tốn của mình đã học được để tìm hiểu về sự ảnh
hưởng của Phật giáo đối với đời sống văn hóa vùng Quảng Nam Đà Nẵng.
Tuy nhiên, với khả năng hạn hẹp của mình không sao tránh khỏi những sai sót,
người viết kính mong được Giáo sư và các bậc cao minh chỉ dạy thêm để sau này có dịp
người viết sẽ thực hiện tốt hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài:

Vấn đề nghiên cứu Phật giáo trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều nhà
khoa học nghiên cứu và những tác phẩm liên hệ đến Phật giáo đáng chú ý của các tác
giả:Hòa thượng Thích Minh Châu, Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Hòa thượng Thích
Thanh Kiểm, Hòa thượng Thích Mật Thể, Hòa thượng Thích Thanh Từ, Hòa thượng Thích
Trí Quảng, các nhà nghiên cứu Lê Đình Thám, Trần Trọng Kim, Nguyễn Đăng Thục, Lê
Mạnh Thát, Hà Văn Tấn, TS Trần Hồng Liên, TS Phan Lạc Tuyên, GS Minh Chi, GS Trần
Tuấn Mẫn cùng một số nhà nghiên cứu nước ngoài và các công trình của viện nghiên cứu
Phật học.
3. Phương pháp và phương pháp luận:
Dùng để viết luận văn này là phương pháp luận khoa học lịch sử, những quan điểm
của Ban Tôn Giáo chính phủ cũng như những chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước
đã ghi trong bản pháp chế luật về Tôn giáo của quốc hội ban hành năm 2004. Người viết sử
dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, đi điền dã và khai thác những tư liệu của các sách
nghiên cứu.
4.Vấn đề thực hiện:
Việc thực hiện luận văn đúng theo quy định của Học viện Phật giáo Việt nam tại
Thành phố Hồ Chí Minh, dưới sự hướng dẫn của GSTS Phan Lạc Tuyên, Giáo viên thỉnh
giảng bộ môn Văn Minh Việt Nam tại Học viện mà người viết đã được học. Khi cần thiết,
người viết sẽ thỉnh giáo quý Thượng Tọa tại Học Viện.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC VỀ QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG
1.1.Khái quát về địa lí nhân văn và sinh thái vùng Quảng Nam Đà Nẵng:
Sinh thái là sự tổng hợp của thiên nhiên, vũ trụ, thời tiết, gió mùa. Cái rộng lớn của
biển cả, của núi rừng đã che chở cho vùng đất Quảng Nam một địa thế hùng vĩ. Sách Đại
Nam Nhất Thống Chí có ghi: “địa hạt tỉnh, phía đông có biển bao vòng, phía tây có núi
che chở phía Nam liền tỉnh Quảng Ngãi, rừng Trí Bình giới hạn cõi bờ, phía Bắc hướng về
Kinh Đô, cửa Hải Vân chen chỗ xung yếu. Núi cao thì có núi Tào, Núi Ấn, Núi Chủ, Núi
Ngũ Hành Sơn. Sông lớn thì có Sông Chợ Củi (sài thị), Sông Cẩm Lệ và Sông Bến Ván
(Bản Tân), ải sông hiểm trở, lao đảo xây quanh, đồng nội rộng bằng, dân cư đông đúc.

Đặc điểm thì phía Tây Nam có các bảo định vàYên Sơn khống chế giặc Man mà dẹp yên
biên cảnh. Phía Đông Bắc có các thành Yên Hải và Điện Hải ngăn cản giặc Tây mà giữ
vững mặt biển. Cửa biển Đại Chiêm thuyền bè sum họp, chợ phố Hội An hàng hóa nhóm
đầy, thực là nơi đô hội mà là một tỉnh lớn trong khu Nam trực vậy” [13,296]
Với địa hình như vậy, sinh thái đã ảnh hưởng đến con người, đến cuộc sống, đến
tánh tình của người dân xứ Quảng. Được bao bọc bởi núi non biển cả, bờ biển chạy dài từ
cực Bắc đến cực Nam. Sau lưng là dãy trường Sơn án ngự cả biên giới Việt Lào, núi non
trùng trùng bốn phía đều là núi non biển cả.Vì thế ảnh hưởng của địa lý sinh thái đã làm
cho con ngươì Quảng Nam luôn có một nghị lực phi thường một sức chịu khó. Đất Quảng
Nam xưa nay vẫn để lại trong lòng nhiều người một ấn tượng không lấy gì tốt đẹp, đa số
nhân dân lao động một cụôc đời lầm than khốn khổ, quanh năm suốt tháng cặm cụi cùng
vạt khoai nương sắn, con người nông dân bị bao quanh bởi bốn bờ ruộng. Hơn nữa, khí
hậu thêm phần khắc nghiệt, có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ ràng nói chung vùng Quảng
Nam Đà Nẵng so với các vùng phía Nam thì không bằng.Tuy thế, thiên nhiên cũng đã ban
tặng cho vùng đất Quảng Nam Đà Nẵng những nguồn sống khác. Biển cả đã cưu mang
cho người dân có được cuộc sống ấm no hơn, núi rừng cũng thế.Với núi non biển cả như
thế đã tạo cho Quảng Nam một khí hậu dễ chịu bởi gió biển, những bóng mát từ những dãy
núi đồ sộ. Thiên nhiên vẫn có phần ưu ái cho vùng đất Quảng Nam nhiều thắng cảnh,
những khu du lịch tự nhiên lý tưởng như Non Nước Ngũ Hành Sơn, Bà Nà núi chúa, Bán
Đảo Sơn Trà v.v…(sẽ được trình bày ở phần sau). Những điều kiện ấy có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống con người. Nói chung Quảng Nam Đà Nẵng là một tỉnh trù phú, đồng
bằng ở đây chỉ chiếm 12% diện tích toàn tỉnh, còn lại là rừng núi, nhưng so với các tỉnh
khác ở miền Trung bộ ở nước ta thì đồng bằng Quảng Nam Đà Nẵng vẫn tương đối
rộng lớn.
“Quảng Nam là đất quê mình
Núi đồng sông biển rành rành từ đâu
Bắc thừa thiên giáp Hải Vân
Nam thì Quảng Ngãi giáp gần núi phong
Tây thì giáp đến gần sông Buong
Rừng cao rừng thấp mấy tầng mây xanh

Đông thì biển rộng thênh thang
Đất đai trăm dặm rành rành như ghi” [4,15]
Ngày nay, với sự chuyển mình theo sự phát triển của cả nước, vùng đất Quảng
Nam Đà Nẵng đã tách ra hai tỉnh thành là Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam riêng
biệt. Tuy thế hai tỉnh này cũng vẫn gắn bó với nhau bởi những điều kiện thiên nhiên, bởi
những bờ biển chạy dài đến vô tận.
Tóm lại, vùng sinh thái Quảng Nam Đà Nẵng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống con
người. Với những khắc nghiệt của khí hậu, những trận bảo lụt, những tai họa của thiên
nhiên đã làm cho con người của vùng đất này có một sức chịu đựng, một sự đoàn kết để
chống chọi lại với những thiên tai hạn hán. Vì thế trong cuộc sống, con người phải nỗ lực
làm việc, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc có thể xảy đến bất cứ lúc nào nên họ ít khi
ngừng nghỉ. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi: “đàn ông thì lo cày ruộng, đàn bà
chăm lo nuôi tằm, dệt lụa. Núi sông hùng vĩ, nên con người tư chất thông minh, kẻ sĩ có
lòng trung trực, lời nói ngay thẳng. Tuy thế đất thì xấu, sông núi thì chảy xiết nên tính
người hay nóng nảy, ít trầm tĩnh, chỉ những người học vấn uyên thâm mới không bị phong
khí ràng buộc, việc qua lại thường xuyên, tình giao kết như ngày xưa và đều đặn, liên lạc,
cúng tế bằng xướng ca. Đất thì xấu phong tục tiết kiệm, nhưng thật thà chất phác, phong
thổ tất cả đều là như thế”.
1.2. Bối cảnh lịch sử và địa lí nhân văn:
Xét về lịch sử, tỉnh Quảng Nam được các lưu dân miền Bắc (Thanh, Nghệ, Tĩnh)
vào khai phá lập nghiệp tạo thành. So với các tỉnh Nam Trung Bộ trở vào, thì Quảng Nam
là đất nước Vua Lê chúa Nguyễn chú ý nhiều trong việc mở mang bờ cõi, cũng như phòng
thủ kinh đô.
Ngược dòng thời gian thì Quảng Nam là quận Nhật Nam đời Hán, bị nước Lâm Ấp
(chiêm thành) nhà Nhuận Hồ đánh lấy được động Chiêm, động Cổ Lũy, chia đặt thành
bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Đặt các chức Thăng, Hoa, An Lộ Phủ Sứ để cai trị, lại
di dân đến ở. Như vậy, phần đất này tương đối mới của nước Đại Việt, vừa mới khai
khẩn, dân cư mới đến lập nghiệp.
Quảng Nam, một quê hương từng là bãi chiến trường của các lực lượng giao tranh
trong nhiều tháng năm, và cũng là nơi nghĩ chân của những lưu dân về miền Nam trong

các giai đoạn lịch sử. Nhưng dầu cho triều đại trải qua bao nhiêu lần hưng vong,
giang sơn tuy bao lần đổi chủ đất đai này cuối cùng vẫn là của người dân đất Quảng.
Kể từ đầu thế kỷ 15(năm 1403) khu vực Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa đã chính thức
thông thuộc vào quyền lực nhà nước Đại Việt. Từ lãnh vực hành chính công quyền đến
phương diện công pháp quốc tế, sử Trung Quốc, Việt Nam, Chiêm Thành đều cho rằng
vào đầu thế kỷ 15, cả khu vực trên đã do người Việt cai quản. Năm 1403, triều đại nhà
Hồ sau khi thương thảo với triều đình Chiêm Thành, họ đã thuận giao nộp cả Chiêm động
(Bắc Quảng Nam), Cổ Lũy động (Nam Quảng Nam ngày nay) cho người Việt. Từ đó nhà
Hồ(1400-1407) chia đất Chiêm động và Cổ Lũy thành bốn châu là Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa
rồi đặt lệ Thăng Hoa thống lãnh bốn châu.
Sang giữa thế kỷ15, vua Lê Nhân Tông (1446) đã cải tổ nền hành chánh trong
nước bằng cách đặt các ty sở ở các Đạo. Sau đó(1471) vua Lê Thánh Tông (Hồng Đức
năm thứ 2) đã tổ chức hành chánh, tại các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đồng thời đặt làm
đạo thừa tuyên Quảng Nam như các đạo đã có từ Quảng Bình trở ra. Danh xưng Quảng
Nam bắt đầu có từ đó trong lịch sử mở nước của tiền nhân ta.
Năm 1471 Đạo Thừa Tuyên Quảng Nam thống lĩnh ba phủ chín huyện. Sách
Thiên Nam Dư Hạ Tập cho rằng đời Hồng Đức khi vẽ bản đồ Đại Việt thì Quảng Nam
Thừa Tuyên sứ ty thống lĩnh ba phủ chín huyện. Như vậy khu vực đạo Thừa Tuyên Quảng
Nam vào thế kỷ XV bao gồm một vùng rộng lớn từ Nam Thuận Hóa vào sát núi Thạch
Bi ở Phú Yên (nay thuộ tỉnh Phú Yên). Do đó, cả khu vực từ rừng núi xuống đồng bằng và
các hải đảo dọc theo lãnh thổ trên đều thuộc đạo Thừa Tuyên Quảng Nam. Sau đó (1490)
đổi lại gọi là xứ Quảng Nam. Năm 1520 gọi là trấn Quảng Nam, năm 1602 (đời Gia Dũ-
Nguyễn Hoàng) gọi là dinh Quảng Nam gồm cả ba phủ Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và Hoài
Nhơn, phía bắc là phủ Điện Bàn và chúa Tiên sai con trai thứ 6 là Nguyễn Phước Nguyên
(1563-1635) vào trấn thủ vì chúa và các cận thần đều xem đây là “đất yếu hầu của Miền
Thuận Quảng”. Từ đó, ông cho lập dinh trấn ở xã Cần Húc thuộc đất Duy Xuyên, huyện
Điện Phước phủ Điện Bàn làm ty sở. Năm 1604 cải đặt và đổi tên các khu vực hành
chánh hai xứ Thuận Hóa Quảng Nam lập ra huyện Lê Giang thuộc phủ Thăng Hoa (nay là
các phủ Duy Xuyên) kể từ đó, dinh Quảng Nam là đất các thái tử thực sự cầm quyền ở một
vùng đất mà chúa xem là quan trọng bậc nhất, như thái tử Nguyễn Phước Nguyên trấn thủ

từ năm 1602-1613, sau khi kế nghiệp chúa Tiên rồi chúa Nguyễn Phước Nguyên trao dinh
Quảng Nam lại cho thái tử Phước Kỳ, tiếp theo là Phước Lan… cho đến thế kỷ thứ XVIII
khi vương quyền chúa Nguyễn tan rã mới chấm dứt.
Năm Tân Dậu (1801) cũng gọi là Quảng Nam Dinh đến năm 1806 Vua Gia Long
đổi là Trực Lệ Quảng Nam dinh thuộc kinh sư, và đến năm 1832 đời Vua Minh Mạng thứ
13 đổi thành tỉnh Quảng Nam.
Mặc dầu trải qua bao lớp sống phế hưng, hai xứ Thuận Quảng nhân dân vẫn sung
túc thanh bình.Với đất nước đó, chẳng bao lâu sau Nguyễn Hoàng (1558-1613) vào trấn
thủ Thuận Hóa kiêm lãnh trấn Quảng Nam. Kể từ đó, tiền nhân ta đã lật sang một trang sử
mới cho bức dư đồ Đại Việt và Quảng Nam trở thành một đơn vị hành chánh lớn của tổ
quốc.
“Lịch sử mở đất phương nam của dân tộc là một quá trình dựng nước và giữ nước
khởi đi từ buổi bình minh mở cõi của dân ta. Quá trình đó đã phát triển trong trường kỳ
lịch sư ũdân tộc qua đời Lê – Trịnh – Nguyễn và cuối cùng là triều đại nhà Nguyễn (1802
– 1945). Trong chiều dài lịch sử dựng nước và mở nước, nhân dân ta đã đỗ biết bao mồ
hôi, nước mắt và không ít máu đào mới có một biên cương rộng lớn như ngày hôm nay.
Biên cương ấy duỗi dài vào Nam, ra biển đông, khởi nguyên từ đời nhà Hồ (1400 – 1407),
qua Vua Lê chúa Nguyễn (1558 – 1788), triều Nguyễn (1809 – 1945) tiền nhân ta đã vạch
lau lách, rừng bụi, núi non, bùn lầy để vươn dài lãnh thổ vào Nam, vượt trùng dương sống
lớn đến quần đảo Hoàng Sa, Cù Lao Chàm … làm thành trì bảo vệ đất nước”. [28,31]
Sách Lịch Sử Việt Nam của Đào Duy Anh có ghi: “muốn gây cơ sở kinh tế cho
công cuộc cát cứ, vì đất Thuận Quảng hẹp quá, chúa Nguyễn cần phải mở mang thêm bờ
cõi. Bởi vậy chúa Nguyễn lại tiếp tục công cuộc Nam tiến của các triều Lý – Trần – Lê và
ngay buổi đầu Nguyễn Hoàng đã lấn đất của Chiêm Thành đến Đại lãnh.
Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, sau kiêm lãnh xứ Quảng Nam, mà
đất cực nam của Quảng Nam là huyện Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhơn tức là phủ Tuy
Phước, tỉnh Bình Định ngày nay. Bên kia đèo Cù Mông là nước Chiêm Thành.
Năm Tân Hợi (1611) chúa Nguyễn sai chủ sự là Văn Phong đem quân vào đánh
Chiêm Thành, lấy đất bên kia đèo Cù Mông đến núi Thạch Bi đặt làm Phú Yên gồm hai
huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa cho Văn Phong làm lưu thủ. Đó là bước Nam Tiến đầu tiên

của các chúa Nguyễn.
Chúa Nguyễn khi lâm chung dặn công tử thứ sáu (chúa Hi Tông) rằng: “Đất Thuận
Quảng phía Bắc có núi Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và
núi Thạch Bi vững bền; núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người
anh hùng, nếu biết dạy dân luyện binh để chóng chọi với nhà Trịnh thì đủ xây dựng cơ
nghiệp muôn đời, còn nếu thế lực không địch được thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội,
chớ đừng bỏ quên lời dạy của ta”. Xem đó ta thấy rằng chúa Nguyễn đã nuôi chí mở rộng
về phía Nam, phía các triều đại trước Lê – Lý – Trần đã hướng về và chính chúa đã tiến
bước năm Tân Hợi. [19,296]
Xứ Thuận Hóa và Quảng Nam là vùng đất mới chiếm lại được của nhà Mạc năm
1554, lòng dân ở đây chưa tôn phục vua Lê chúa Trịnh. Đồng thời nhà Mạc cũng cho
người khuấy động cho dân chúng nổi loạn và âm mưu đánh chiếm lại. Ngoài ra, đất Thuận
Quảng là vùng đất mới, rừng núi hiểm trở, sương lam chướng khí và khí hậu độc địa. Trịnh
Kiểm thấy rằng: nếu Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa thì không còn sợ bị tranh quyền, lại có
người tài giữ đất, không cho nhà Mạc chiếm lại, bảo vệ được mặt nam của Tây Đô, chỉ còn
lo đối phó với nhà Mạc ở phía Bắc mà thôi. Vì vậy, Trịnh Kiểm dâng biểu xin vua Lê Anh
Tông cử Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hóa và được toàn quyền
quyết định mọi việc ở địa phương.
Năm Mậu Ngọ (1558) Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa
Đoan Quận Công chăm lo cho dân chúng, trấn Thuận Hóa trở nên thịnh vượng, trật tự an
ninh vững chắc. Vua lại cho Nguyễn Hoàng trấn thủ luôn trấn Quảng Nam, mỗi năm chỉ
phải nộp thuế cho triều đình 400 cân bạc và 500 tấn lụa.
Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng cai trị nhân hậu và tài giỏi nên xứ Thuận - Quảng
được thái bình và thịnh vượng; trong khi đó, các vùng đất khác đều bị nghèo nàn và loạn
lạc vì cuộc chiến tranh giữa nhà Mạc ở bắc triều (Đông Đô) và vua Lê chúa Trịnh ở Nam
triều (Tây Đô). Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã ca ngợi tài đức của Đoan Quận Công
như sau: “Nguyễn Hoàng trị nhậm xứ Thuận – Quảng mấy chục năm, chính lệnh khoan
hào, thưởng ban ân hậu, dùng pháp luật công bình, biết khuyên răn bản bộ, cấm trấp những
kẻ hung ác. Dân hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam đều cảm lòng mến đức; thay đổi
phong tục, chợ không nói thách, dân không trộm cắp, cổng ngoài không phải đóng thuyền

buôn nước ngoài đều đến buôn bán, trao đổi phải giá. Quân lệnh nghiêm cẩn, mọi người
đều ra sức… từ đó, nhà Mạc không dám dòm ngó, trong cõi được yên ổn làm ăn”.
Qua những sự kiện đã nêu trên, chúng ta thấy được rằng vùng đất Quảng Nam đã
được các vua chúa triều Nguyễn mở mang thêm rộng lớn. Đồng thời có một sự kiện quan
trọng khác đó là Vua Trần Anh Tông gả em gái là Công Chúa Huyền Trân cho vua Chế
Mân, vua Chế Mân dâng hai châu là Châu Ô và Châu Lý làm sính lễ, vì vậy vùng đất
Quảng Nam được mở rộng. Theo Khâm Định Việt Sử thì Châu Lý là các huyện Phú
Vang, Phú Lộc (tỉnh thừa thiên) và các huyện Diên Phước, Hòa Vang (tỉnh Quảng Nam).
Như vậy vùng đất Quảng Nam này có sự đóng góp của công chúa Huyền Trân. Ngày nay
vùng đất này theo sự chuyển biến của xã hội đã thay da đổi thịt, trở thành một thành phố
lớn thứ ba của đất nước.
Khi nói đến nhân văn là đề cập đến con người. Vùng đất này là vùng đất đầu
Nam Tiến của Việt Nam, tập trung tất cả những sự kiên cường, là vùng địa lý nhân kiệt.
Lịch sử Việt Nam mấy thế kỷ qua đã chứng minh đất QuảngNam đã hun đúc và sản sinh
ra nhiều nhà yêu nước, những chiến sĩ cách mạng. Ngay từ khi đặt chân đến nước ta,
Quảng Nam trở thành một căn cứ vững chải để tụ họp các phong trào chống Pháp và cũng
là nơi cung cấp những người con ưu tú nhất để hiến dâng đời mình cho đất nước như:
Hoàng Diệu: Liệt sĩ danh tướng tự là Quang Viễn hiệu Tĩnh Trai, quê làng Xuân
Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam.
Phan Chu Trinh (1872 – 1926): Chí sĩ, là danh sĩ sinh ngày 9 – 9 – 1872 tự là Tử
Cáo, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu là Hi Mã, quê làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam.
Trần Cao Vân (1866 -1916): Liệt sĩ, nhà yêu nước, lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Duy
Tân, quê làng Tư Phú, tông Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Huỳnh Thúc Kháng (1876 – 1947): Chí sĩ, danh sĩ, sinh vào khoảng tháng 11 năm
1876. Ông họ Huỳnh, tiểu danh là Thước, trước gọi là Hanh sau đổi là Thúc Kháng tự là
Giới sanh, hiệu là Minh Viên. Quê làng Thạch Bình, tổng Tiên Giang thượng, huyện
Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Lê Đình Thám (1877 -1969): Bác sĩ, cư sĩ Phật giáo, nhà hoạt động hòa bình, pháp
danh Tâm Minh, quê làng Đông Mĩ, tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Lê Đình Dương (1893 -1919): liệt sĩ cận đại, y sĩ Đông Dương, anh ruột bác sĩ Lê
Đình Thám, con thượng thư Đông Các đại học sĩ Lê Đĩnh. Quê làng Đông Mĩ, huyện Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Trên đây là những người con được sinh ra từ vùng đất Quảng Nam, còn rất
nhiều thiên tài được sinh ra từ vùng đất này, nhưng người viết chỉ nêu vài người mà thôi.
Sách Đất Việt Trời Nam của Thái Văn Kiểm có ghi khoa thi hội năm Mậu Tuất
(1898) trong số 18 vị chiếm bảng vàng, riêng tỉnh Quảng Nam có đến 5 vị (3 tiến sĩ, 2 phó
bảng) cho nên Vua Thành Thái mới ban cho mỗi vị bốn chữ: “Ngũ Phụng Tề Phi” (năm
con Phụng cùng bay). Người đương thời đã tặng cho năm vị ấy “ Ngũ Hổ”.
1. Phạm Liệu ở Trừng Giang (Điện Bàn)
2. Phạm Tuấn ở Xuân Đài (Điện Bàn)
3. Phan Quang ở Phước Sơn (Quế Sơn)
4. Dương Hiển Tiến ở Cẩm Lâu (Điện Bàn)
5. Ngô Lý ở Cẩm Sa (Điện Bàn)
Ngoài Ngũ Hổ, tỉnh Quảng Nam còn có Tứ Hùng là :
1. Phạm Liệu ở Trừng Giang (Điện Bàn)
2. Huỳnh Hanh tức Huỳnh Thúc Kháng ở Thăng Bình (Tiên Phước)
3. Võ Hoành ở Nam Phước (Duy Xuyên)
4. Nguyễn Đình Hiến ở Trung Lộc (Quế Sơn)
Bốn vị này đã liên tiếp đậu thủ khoa trong các khoa thi Hương. Người đương thời
đã ghép thành vần cho dễ nhớ: Nhất Liệu, Nhì Hanh, Tam Hoành, Tứ Hiến .
Ngoài Ngũ Hổ và Tứ Hùng, Quảng Nam còn có Tứ Kiệt với bốn vị phó bảng đã đổ
đầu khoa thi hội năm giáp thìn (1904)
1. Nguyễn Đình Hiến ở Trung Lộc (Quế Sơn)
2. Phan Châu Trinh ở Tây Hồ (Tiên Phước)
3. Võ Vĩ ở An Phú (Thăng Bình)
4. Nguyễn Mậu Hoán ở Phú Cốc (Quế Sơn)
Chúng ta nhận thấy rằng trong các bậc túc nho hồi đó có hai nhà cách mạng lừng
danh là Huỳnh Thúc Kháng và Phan Châu Trinh đã từng mở đường giải phóng và dân chủ
hóa nước Việt Nam. [20,389]

1.3. Phật giáo trong quá trình lịch sử ở Quảng Nam Đà Nẵng hiện nay:
Các chúa Nguyễn ngoài việc bảo vệ và mở mang Đàng Trong thì hầu hết đều là
những người phật tử mộ đạo, hộ trì cho Phật giáo phát triển ở Đàng Trong, chăm lo xây
dựng, trùng tu Chùa chiền luôn tạo điều kiện thuận lợi cho chư tăng tu học yên ổn. Từ đó
những di tích thắng cảnh của Phật giáo được phát triển và những di sản văn hóa, những
khu du lịch sinh thái từ đó mà được khai thác và phát triển cho đến ngày nay.
1.3.1. Phố Cổ Hội An: Phố cổ Hội An trước đây đã từng là thị xã và tỉnh lị của tỉnh
Quảng Nam dưới thời Pháp thuộc (1898) và cũng là thị xã và tỉnh lị của tỉnh Quảng Nam –
Đà Nẵng trong thời kỳ độc lập (1945) và sau đó là thị xã tương đương cấp huyện của tỉnh
Quảng Nam – Đà Nẵng sau khi miền nam được giải phóng (1975) và của tỉnh Quảng Nam
sau khi chia tách tỉnh (1996).
Vào đầu thế kỷ thứ XIV, vùng đất thị xã Hội An ngày nay còn thuộc đất Lâm Ấp
phố, một thương cảng nằm bên bờ sông chợ cũi (về sau được gọi là sông Thu Bồn), gần
với biển hải khẩu Đại Chiêm (cửa đại ngày nay).
Sau khi vua ChămPa Chế mân dâng tiến hai Châu Ô, Châu Lý cho nhà Trần làm lễ
vật nạp trưng để xin cưới công chúa Huyền Trân con gái thái thượng hoàng Trần Nhân
Tông vào giữa năm 1306, vùng Đại Chiêm Lâm Ấp Phố đã nằm trong lãnh thổ Đại Việt.
Năm 1037 Vua Trần Anh Tông đã đặt tên cho hai châu mới đó là Thuận châu và
Hóa châu. Hóa châu có huyện cực Nam là Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong mà ở đó có
Lâm Ấp Phố, về sau địa danh Hội An mà người phương tây gọi là Faifoo đã thay thế cho
Lâm Ấp Phố. Sau khi thuộc lãnh thổ Đại Việt, Hội An đã trở thành một đô thị thương cảng
nổi tiếng ở Đàng Trong, quan hệ với đường hàng hải quốc tế từ phương tây sang phương
đông, một trung tâm trung chuyển của con đương tơ lụa và gốm sứ xuyên đại dương trong
những thế kỷ XVI – XVIII.
“Theo các nhà nghiên cứu, Hội An có nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử như :
Hoài Phố, Hai Bô, Hổ Bi, Hai Phố, Cổ Trai, Cổ Tam”. [34,7]
Sách Kể Chuyện Đất Việt của Nguyễn Khắc Viện cũng đề cập đến những tên gọi
khác nhau như : Hội Phố, Hoài Phố, Hải Phố, Hoa Phố.
Theo Sách “Ô Châu Cận Lục” do Nguyễn Văn An nhuận sắc và được in dưới thời
Nam Bắc triều (1527 – 1592) vào năm 1553 đã cho thấy vào thời kỳ đó, huyện Điện Bàn

có 66 xã, trong đó có các xã Bàn Thạch, Hoài Phố, Cẩm Phố, Lai Nghi nhưng chưa thấy
địa danh Hội An. Có nhà nghiên cứu đã cho rằng Hoài Phố là tên gọi của Hội An xưa.
Vùng đất thị xã Hội An ngày nay từ giữa năm 1306, sau khi Công Chúa Huyền Trân trở
thành hoàng hậu nước ChămPa đã thuộc lãnh thổ của Đại Việt Việt Nam.
Vào thế kỷ thứ XVI, Nguyễn Hoàng thấy đây là nơi giàu có (vàng, yến sào, quế,
đường, mật ong, ruộng muối, cẩm thạch) nên mới lập thành trấn và cử con trai là Nguyễn
Phước Nguyên trấn giữ, mở cửa Hội An buôn bán với bên ngoài. Người Trung Quốc và
Nhật Bản đến buôn bán và thường trú ở những phố riêng. Sau đó còn có người Hòa Lan và
những người phương tây khác. [36,66]
Thị xã Hộiả An là một đô thị nằm trên cửa đại, nơi con sông Thu Bồn đổ ra biển
đông. Nơi đây vào thế kỷ XVI, XVII đã nổi tiếng với tên gọi Faifoo và rất quen thuộc với
các thương nhân Nhật Bản, Inđônêxia, Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Italia… Thời đó, thương
cảng Hội An rất sầm uất bởi nó là trung tâm buôn bán lớn của vùng Đông Nam Á. [31,445]
Như vậy, qua những dẫn chứng trên chúng ta biết được rằng trước khi phố Cổ Hội
An được mang tên là Hội An thì đã có nhiều tên khác nhau như đã nói trên.
Tên gọi Hội An đã được nhắc tới trong các thư tịch cổ vào đầu thế kỷ XVII và đã
phát hiện lần đầu tiên trên một văn bia dựng vào năm 1640 tại động Hoa Nghiêm của Ngũ
Hành Sơn ở Đà Nẵng.
Hội An nhờ chính sách mở cửa của thời các chúa Nguyễn mà cảng thị Hội An đã
phát triển cực thịnh trong các thế kỷ XVII và XVIII và bắt đầu suy thoái vào cuối thế
kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX , để lại dấu ấn vàng son rực rỡ một thời của một đô thị cổ
xưa nhất của miền trung Việt Nam. Vào thời phát đạt nhất không gian của cảng thị Hội An
dọc ven hai bờ sông Thu Bồn mà ngày xưa người ta gọi đoạn sông này chảy qua Hội An là
Sài Giang Thị, kéo dài từ ngã ba sông Câu Lâu – Chợ Củi ở phía tây cho đến tận Quận Đảo
Cù Lao Chàm ngoài biển đông, mở rộng từ các cồn cát thuộc các xã Cẩm Châu, Cẩm Hà
ở phía Bắc cho đến ngã ba sông Bà Rén – Thu Bồn và Trường Giang –Thu Bồn về
phía Nam.
Từ thế kỷ XVI Đại Việt hay Việt Nam ngày xưa chia thành hai miền : miền Bắc
hay Đàng Ngoài của triều đại Vua Lê chúa Trịnh và Miền Nam hay Đàng Trong thuộc
quyền kiểm soát của chúa Nguyễn. Các chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có ý đôà thông

qua việc quan hệ ngoại giao và buôn bán với người nước ngoài để mua sắm những vũ khí,
đạn dược v.v… nhằm chuẩn bị cho việc chiến đấu lâu dài.
Ở phía Nam, các chúa Nguyễn đã tỏ ra cởi mở hơn trong việc quan hệ chính trị và
thương mại đối với người nước ngoài nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế và xã hội, tạo
nên được một sức mạnh quân sự đương đầu với chúa Trịnh ở phía Bắc. Vì vậy các tàu
thuyền buôn bán của các nước Đông Nam Châu Á đã đến buôn bán ở Hội An.
Những gười đến buôn bán đầu tiên tại Hội An là người Nhật Bản. Có thể từ năm
1598, một số thương gia Nhật Bản đã đến Hội An và xin phép chúa Nguyễn lập phố và
dựng Chùa. Họ cũng là người lưu trú đầu tiên sống ở Hội An và đã xây dựng ở phía Đông
cảng thị này. Ở cuối phố của họ ở phía Tây, người Nhật đã xây dựng một chiếc cầu Nhật
Bản hay Viễn Lai Kiều, nhưng đối với người dân địa phương thì họ vẫn gọi bằng cái tên
thân mật, dân dã “Chùa Cầu”. Thật khó có thể tưởng tượng nếu Hội An không còn Chùa
Cầu. Nó nằm trong tiềm thức của mọi người như vị trí Hồ Gươm của Hà Nội, cầu Tràng
Tiền của Huế … ca dao địa phương có câu:
Ai xa Phố Nội, Chùa Cầu
Để thương, để nhớ, để sầu cho ai
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương, để nhớ cho ai chịu sầu. [24,103]
“Vị trí cây cầu này nối con đường cầu Nhật Bản (sau đổi tên Cường Để và nay là
Trần Phú) và Duy Tân nay đổi Nguyễn thị Minh Khai) được xây dựng vào khoảng thế kỷ
XVII và được trùng tu vào khoảng năm 1763, 1817, 1875, và 1917. Ta hãy đọc lại văn
bia ghi việc trùng tu cầu do “Đinh Tường Phủ, Bá Tước Đình Khê, Đốc hộc Trực Lê,
dinh Quảng Nam” soạn dưới đời Gia Long, năm 1817”. [24,104]
Người Nhật Bản bán ở Hội An những mặt hàng dùng để chế tạo vũ khí và đạn
dược như Đồng, Sắt, Diêm Tiêu, Lưu Huỳnh, các mặt hàng Mỹ phẩm như Nhung, Gấm
các mặt hàng tạp hóa chế tạo theo kiểu Nhật.
Bên cạnh đó, người Hoa là người thứ hai đến buôn bán tại Hội An, họ đến sau
người Nhật khoảng hai mươi năm. Có thể trước năm 1618, họ được phép của chúa
Nguyễn xây dựng phố khách ở bên kia cầu Nhật Bản. Tuy nhiên, trước khi phố Nhật thiết
lập ở Hội An cũng đã có những thương nhân người Hoa đến buôn bán. Họ bán những

mặt hàng như: dược liệu, tơ lụa, nhung gấm, nhũ sắc, dầu thơm, đồ thủy tinh, đồ pha
lê, bạc, đồ sứ, lồng đèn, trái cây khô vv… Người Hà Lan buôn bán những mặt hàng:
đồng, chì, kẽm, bạc nén, các loại vải quý như len dạ, nỉ đỏ, nỉ đen vv… Còn các mặt
hàng xuất khẩu của Đàng Trong tại cảng thị Hội An gồm có các Lâm Sản, Trầm Hương,
Tinh Dầu, Xạ Hương, Gỗ v.v… các dược liệu quế, hồi, mật ong, mật gấu, sa nhân, thảo
quả v.v… các hải sản như: ngọc trai, vây cá, hải sâm, đồi mồi, cá, mực, tôm khô v.v…các
nông sản như gạo, các loại đường, tiêu, thuốc lá vv…Các loại tơ tằm có thể cạnh tranh với
tơ tăm Trung Hoa, các sản phẩm thủ công nghiệp đồ gốm (với men đẹp hơn của Nhật
Bản) ấm trà, độc bình vv…Người ta có thể nói rằng cảnh thị Hội An là điểm trung chuyển
của con đường tơ lụa và gốm sứ xuyên đại dương trong các thế kỷ XVII –XVIII giữa
các nước phương Tây và phương Đông.
Theo lịch sử Trung Hoa, hoàng đế Minh Thái Tổ sáng lập nhà Minh đã thực hiện
từ năm 1371 đường lối lục địa đóng cửa cấm các tàu thuyền buôn bán ở nước mình
không được đi ra nước ngoài. Cho đến giữa thế kỷ thứ XVI vào năm 1567, hoàng đế
Trung Hoa Minh Mục Tông đã dỡ bỏ lệnh cấm, và các thương nhân người Hoa lại ồ ạt đến
Hội An”. [34,27]
Đến một thời gian sau đó, có những nguyên nhân khiến phố Nhật đã biến mất trên
bản đồ cảng thị Hội An. Để chốùng lại bọn hải tặc người Tây Ban Nha và Hà Lan nên
(tướng quân Tôkưgawa Ieyasu) Mạc phủ ban chiếu chỉ cấm việc xuất dương của các
thương thuyền Nhật Bản nhằm tránh mọi vụ hải tặc. Đến năm 1635, Mạc phủ đã cấm các
công dân Nhật Bản đi ra nước ngoài và buộc những người Nhật đang lưu trú ở hải ngoại
phải hồi hương nếu không họ sẽ bị xử tội. Do đó, những người Nhật đang sống và buôn
bán ở cảng thị Hội An phải trở về tổ quốc và đó là nguyên nhân của sự suy thoái Phố Nhật
ở Hội An, chỉ có bốn năm gia đình người Nhật xin phép nhà đương cục Việt Nam cư trú
vĩnh viễn.
Trong cuộc nội chiến vào thế kỷ XVII giữa lực lượng quân Trịnh và quân Nguyễn,
cảng thị Hội An đã bị tàn phá nặng nề, vào năm 1775 sau khi chiếm được Hội An quân
Trịnh đã triệt phá nhà cửa của khu vực thương mại và chỉ để lại các công trình tín ngưỡng.
Tuy nhiên may mắn thay Cầu Nhật Bản, Miếu Quan Công, Chùa Phật Quan Âm, Chùa
Kim Sơn, Hội Quán Thương Dương không bị tàn phá.

Khoảng năm năm sau, cảng thị Hội An dần dần hồi sinh, hoạt động thương mại
được phục hồi nhưng không đạt được như mức độ trước đây. Người Việt, người Minh
Hương và người Hoa đã xây dựng lại Hội An từ những đổ nát của khu phố cũ, họ xây dựng
những nhà cửa mới theo kiểu kiến trúc của họ và điều đó vô tình lại xóa đi mãi mãi các dấu
vết của phố Nhật trên cảng thị Hội An.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng sau khi thống nhất nước Việt Nam, hoàng đế Gia
Long đã cảm thấy ý đồ bành trướng và xâm lược của các nước phương tây đối với các
nước Đông Nam Châu Á. Ấn Độ đã bị Anh chinh phục năm 1819, Philippin bị Tây Ban
Nha cai trị từ năm 1565, người Anh xâm chiếm Mianma năm 1826, người Hà Lan đã tiến
hành công cuộc thực dân ở Inđônêxia vào năm 1799, người Pháp đã có âm mưu toan xâm
chiếm Việt Nam. Vì vậy mà Vua Gia Long và những Vua kế vị Minh Mạng, Thiệu Trị, và
Tự Đức của Việt Nam đã thực hiện một chính sách đóng cửa không quan hệ với các nước
ngoài, nhất là các nước phương tây trừ Trung Hoa. Do đó, các thương thuyền nước ngoài
không đến hội An nữa, đó là lý do tiên quyết của sự suy thoái của cảng thị Hội An mà nó
đã bắt đầu từ cuối thế kỷũ XVIII trước khi các con đường giao thông, đường thủy dẫn tới
Hội An bị trở ngại. [34,33]
Về nghệ thuật kiến trúc của các di tích lịch sử ở đô thị cổ Hội An là sự hòa điệu của
các nghệ thuật Việt Nam, Trung Hoa và Nhật Bản. Đây là kết quả của một sự hỗn dung
văn hóa của các nước Đông Nam Châu Á và Viễn Đông.
“Kiến trúc hệ mái truyền thống Việt Nam của các di tích lịch sử ở đô thị Hội An
đều có độ dốc mái khá thống nhất với tỷ lệ 5/10 tức là 50%. Trong khi đó Chùa Cầu hay
Lai Viễn Kiều do người Nhật thiết kế trước đây và được các nghệ nhân Việt Nam thi công
lại có hệ mái với độ dốc khá nhỏ, gần như nằm ngang. Đó là một đặc điểm kiến trúc ít gặp
thấy ở các nước Đông Nam Châu Á nhưng phổ biến ở vùng Viễn Đông, điều đó làm cho di
tích cổ mang sắc thái kiến trúc Nhật Bản. Điều này đã làm cho không một ai có thể phủ
nhận được sự có mặt của nền văn hóa Nhật Bản đã cấy trồng ở Hội An trong quá khứ.
Song mái cầu Hội An đã kết hợp một cách hài hòa với những bộ phận khác còn lại của
công trình làm cho chiếc cầu mang một vẻ đẹp riêng nhưng gần gũi. Cấu trúc của bộ khung
và độ cong thoải mái của nền cầu bằng gỗ là điểm gặp gỡ giao duyên của hai nền nghệ
thuật, kiến trúc Việt Nam, Nhật Bản”. [34,41]

Hội họa dân gian ở đô thị cổ Hội An thể hiện phổ biến dưới hình thức tranh vẽ
trang trí nội thất với những bức tứ bình, tứ quý, các tranh phong cảnh, sơn thủy, chim thú
bằng chất màu tươi sáng và các bức chân dung thờ bằng mực Tàu trên giấy đỏ mang dáng
dấp Trung Hoa, có sức thấm đọng sâu sắc vào lòng người. Các bức tượng Phật lớn nhỏ,
các vị thần trong các công trình tín ngưỡng, dù đứng riêng lẻ hay trong một tập thể đều là
những công trình nghệ thuật tạc tượng độc đáo, gây được những ấn tượng thẩm mỹ mạnh
mẽ.
Nói tóm lại, đô thị Hội An trải qua nhiều thế kỷ, qua nhiều chuyển biến vẫn mang
trong lòng mình những kiến trúc, những cách trang trí và vẻ đẹp cổ xưa trong mọi di tích
lịch sử được thể hiện hài hòa của nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau, từ đó tạo ra một
phong cách riêng của Hội An. Đây là sự tổng hòa của quá trình hội nhập, thẩm thấu, dung
hóa một cách chọn lọc các yếu tố văn hóa ngoại lai, một sự giao lưu và kết hợp giữa nền
văn hóa dân tộc với nền văn hóa của thế giới ở khu vực Đông Nam Châu Á và Viễn Đông.
Những di tích kiến trúc đã hội tụ, tổng hòa được các yếu tố của nền nghệ thuật truyền
thống được làm phong phú thêm nhờ những yếu tố nghệ thuật nước ngoài, đa dạng về
chủng loại, phong phú về đồ án, điêu luyện về đường nét. Tuy nhiên trong quá trình dung
hóa văn hóa bên ngoài đó, phong cách Hội An vẫn truyền thống và bảo tồn được vững
chắc các nền tảng truyền thống bản sắc độc đáo và sâu sắc của dân tộc. Vì vậy mà tạo
nên được sự hài hòa và tính chất riêng của Hội An.
Ngày qua ngày, những người dân Hội An cảm nhận thêm rằng quê hương mình là
một bộ phận sáng ngời của di sản văn hóa Châu Á và có thể là toàn thể nhân loại, đã được
các nhà khảo cổ học trên thế giới hết sức trân trọng. Chính vì vậy mà giáo sư người Pháp
Denys Lombas đã phát biểu: “Kiểu mẫu tiêu biểu của thành phố thương mại ở Việt Nam,
ở Đông Nam Châu Á có thể chỉ ra là Hội An” [34,46]
Đô thị cổ Hội An, thành phố quê hương muôn vàn yêu dấu, đã ra đời trong thời
gian và không gian lịch sử của thời kỳ của Trung Đại Việt Nam, tồn tại qua các thế kỷ và
các thế hệ, rực rỡ trong phát triển, huy hoàng trong chín muồi, vàng son trong phồn thịnh,
chìm đắm trong suy thoái, quằn quại trong chiến tranh để rồi lại hồi sinh mãnh liệt hơn bao
giờ hết trong hòa bình với sự cuốn hút mới, không phải bằng một nền ngoại thương
phong phú hàng hóa như xưa mà bằng một nền du lịch đầy sức hấp dẫn nhờ một quần

thể kiến trúc cổ kính tuyệt vời của nền văn hóa với phong cách một không hai và đô thị cổ
Hội An vẫn sống, vẫn duy trì sự tồn tại hiếm thấy của mình như một bảo tàng sống, vẫn
giữ gìn được bản sắc văn hóa độc đáo của mình, vẫn bảo tồn được các phong tục, tập quán
riêng biệt của mình qua bao thế hệ. Những ngôi nhà cổ sẽ giảm đi giá trị nếu như vắng
bóng các chủ nhân đang sống hằng ngày ở đó để giữ gìn chúng. Cuộc sống ở đây thiêng về
nội tâm, phảng phất nét trầm lắng. Sự ngưng đọng trong các đình chùa, các nhà thờ tộc, các
hội quán, các nhà hình ống, các đường phố nhỏ hẹp như gợi nhớ những quá khứ vàng son,
như lắng nghe tiếng nói của tiền nhân thầm thì trong các di tích, như ôm ấp bước chân
thăng trầm qua các thời đại. Đô thị của họ vẫn giữ được tính cách riêng biệt, lối sinh hoạt
lịch lãm, cách ứng xử ân tình của mình. Môi trường ở đây không bị chèn ép bởi các hoạt
động công nghiệp náo nhiệt, bởi các phương tiện giao thông ồn ào, bụi bặm mà được trả
về cái yên tĩnh, vỗ về cái êm đềm ấp ủ, cái lắng động trong chiều sâu tâm hồn để mà hoài
niệm, để mà suy ngẫm, để mà chiêm ngưỡng, để mà nhớ thương.
Hội An Phố Cổ êm đềm
Xa người ta nhớ ngày đêm hỡi người
Phố xưa ai nhớ nụ cười
Cho lòng rạo rực bóng người không nguôi
(thơ Nguyễn Phước Tương)
Ngay từ ngày xưa, giáo sĩ Cristoforo Borri đã từng đến Hội An nhiều lần từ 1618
cũng đã nhận thấy được bản chất tốt đẹp của người dân Hội An, người dân Đàng Trong
của Đại Việt, ông đã viết trong nhật ký của mình: “Bản năng tự nhiên của họ là tử tế, ưa
làm việc thiện, nhất là đối với người nghèo khi kêu gọi giúp đỡ, nếu từ chối họ sẽ bị coi là
thiếu bổn phận như pháp lệnh buộc họ phải làm như vậy. Người Hội An có sự hòa hợp
hoàn hảo, họ cư xử thân tình như anh em một nhà cả trước khi họ quen biết nhau” [34,50]
Một thương gia khó tính người Pháp Pierre Poivre đã từng đến Hội An và Huế từ
cuối năm 1794 đầu năm 1750 cũng đã từng nhận xét tương tự về người Hội An: “Người
Hội An dũng cảm, cần cù, bản tính giản dị, thẳng thắn, tôn trọng sự thật, họ nghèo, ít học
nhưng lịch thiệp, đặc biệt đối với người nước ngoài”. [34,50]
Ngày nay, khu phố cổ Hội An từng ngày đón một lượng khách du lịch đáng kể bởi
do giá trị văn hóa nghệ thuật của các di tích lịch sử, kết hợp với các hoạt động văn hóa độc

đáo và sự hiếu khách của nhân dân Hội An mà đô thị cổ đón khách càng ngày càng đông
hơn, đặc biệt là khách nước ngoài. Hơn nữa nhờ sự quyết tâm của chính quyền và sự đồng
tình chấp hành của nhân dân dưới sự lãnh đạo đúng đắn của thị ủy Hội An mà các công tác
quản lý, bảo tồn, trùng tu các di tích cũng như các hoạt động nghiên cứu khảo cổ, điều tra
đã được tiến hành và khai triển có hiệu quả. Bởi vậy mà Ủy Ban Di Sản Thế Giới của tổ
chức giáo dục khoa học văn hóa của Liên Hiệp Quốc UNESCO trong phiên họp toàn thể
lần thứ 23 từ ngày 29.11 đến ngày 5.11.1999 tại thành phố Marrakech vương quốc Marốc,
vào ngày 4.12.1999 đã công nhận đô thị cổ Hội An là di sản thế giới.
1.3.2. Khái quát cảnh quan sinh thái về Thành phố Đà Nẵng:
Thành phố Đà Nẵng được thành lập từ năm 1888. từ xa xưa đã là hải cảng quan
trọng của Việt Nam, nay là một trung tâm kinh tế văn hóa, lịch sử một thành phố lớn nhất
miền Trung. Đà Nẵng không những gắn bó mật thiết với Quảng Nam mà còn với cả miền
Trung, Tây Nguyên, Nam Lào và đông bắc Campuchia.
Ngày 1.1.1997 Thành phố Đà Nẵng chính thức trực thuộc trung ương cùng với Hà
Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng là một trong bốn thành phố lớn nhất Việt Nam. Với diện
tích 942,45km2, dân số tính đến năm 2002 là 741.413 người, hiện nay Đà Nẵng có bảy đơn
vị hành chánh là; Quận Hải Châu, Quận Thanh Khê, Quận Liên Chiểu, Quận Sơn Trà,
Quận Ngũ hành Sơn, Huyện Hòa Vang, Huyện Đảo Hoàng Sa. [22,122]
Theo Cẩm Nang Du Lịch của Phạm Côn Sơn, Thành Phố Đà Nẵng về hành chính
trực thuộc trung ương, diện tích 1.256,2 km2, có địa hình khá đa dạng. Phía Bắc giáp Thừa
Thiên Huế, Nam và Tây giáp Quảng Nam, phía đông là biển, một bên là đèo Hải Vân cùng
những dãy núi cao, một bên là Bán đảo Sơn Trà hoang sơ nhưng có những bãi biển tắm
tuyệt đẹp. Ngoài xa khơi là quần đảo Hoàng Sa với ngư trường rộng lớn.
Vào thế kỷ thứ XVI, chúa Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ vùng Thuận Hóa để
tránh việc bị Trịnh Kiểm giết hại. Khi vượt đèo Hải Vân tiến xuống Đà Nẵng – Quảng
Nam, các chúa Nguyễn đã thấy được Hội An là chỗ thuận tiện cho việc buôn bán, trao đổi
với thuyền buôn nước ngoài. Từ đây, thuyền buôn nước ngoài ồ ạt đến Hội An và quân đội
nhà Nguyễn cũng ngày càng hùng mạnh nhờ mua được vũ khí dễ dàng. Trong khi Hội An
đang nhộn nhịp tưng bừng, trong cảnh náo nhiệt ấy, Đà Nẵng đã lần đầu tiên xuất hiện trên
bản đồ như một địa danh có vị thế. Để vào cảng thị Hội An, các tàu buôn thường đi thẳng

vào sông Thu Bồn. Nhưng sau này do quá đông đúc, nhiều tàu lớn tìm đường đi vòng vào
vịnh Đà Nẵng và từ đây Đà Nẵng đã trở thành một tiền cảng vào những thời kỳ sầm uất
nhất của Hội An.
Những năm cuối thế kỷ XVIII, khi nhà Tây Sơn đã toàn thắng và bình định đất
nước thì Đà Nẵng đã nổi lên như một đô thị quan trọng và náo nhiệt. Những người Anh khi
đến đây đã thấy trong các công quán có nhiều vải lụa, hàng hóa Châu Âu. Một nhân viên
trong sứ đoàn Anh Quốc trên đường đi Trung Hoa có ghé Đà Nẵng năm 1793 đã mô tả
vịnh Đà Nẵng là nơi mà người ta có thể cho thuyền chạy khắp bờ biển mà không gặp tai
nạn, đáy biển sâu từ 17-20 sải, vịnh Đà Nẵng xứng đáng mang danh là cảng lớn mà vững
chắc nhất được thấy (trong khu vực mà xứ đoàn đi qua). Nó rất sâu cho nên khi cần thiết
phải di chuyển các tàu bè vẫn yên ổn dù gió to bão lớn. Đáy biển đầy bùn nên neo rất bám.
[15,23]
Theo đà phát triển của xã hội, dưới sự chỉ đạo của Đảng và Nhà Nước, cùng với sự
lãnh đạo của các cấp Chính Quyền, với sự nhiệt tâm và đồng lòng của người dân Đà Nẵng
mà hôm nay Thành Phố Đà Nẵng đã thay da đổi thịt, đã vươn lên để bắt kịp với những
thành phố khác. Những con đường được mở rộng và khang trang, với hệ thống thắp sáng
thuận tiện, với sự mở rộng của thành phố đã làm thêm những chiếc cầu để thuận tiện cho
việc sinh hoạt của dân. Cầu Sông Hàn, một chiếc cầu đẹp nổi tiếng, có hệ thống trục quay,
đây là hệ thống trục quay đầu tiên tại Việt Nam. Chiếc cầu được bắt từ đường Trần Phú
qua đến đường Ngô Quyền, nối hai quận Hải Châu và Sơn Trà rất thuận lợi cho việc đi lại
buôn bán, sinh hoạt của người dân. Cầu Tuyên Sơn mới được thành lập nối quận Ngũ
Hành Sơn với quận Hải Châu làm cho sự đi lại và sinh hoạt của hai quận này càng gần
nhau hơn. Thêm nữa, một dự án đang được thi công đó là cầu Thuận Phước, được bắt từ
Quận Hải Châu qua đến cảng Tiên Sa, chiếc cầu này rất dài, quy mô lớn, hiện nay đang
được tiến hành đã được mấy trụ.
Nhà ở của dân được nhà nước di dời và đưa về thành những khu phố văn hóa rất
khang trang, ngay ngắn làm cho thành phố thêm đẹp hơn. Hiện nay thành phố Đà Nẵng
đang được công nhận là đô thị loại một. Nói chung người dân thành phố Đà Nẵng đang
trên đà hoàn thiện và thực hiện một nếp sống văn minh hơn.
Đà Nẵnghôm nay được sáng lên với những khu du lịch sinh thái, những bãi tắm

đẹp, những khu nghỉ mát lý tưởng như khu du lịch Bà Nà, bán đảo Sơn Trà… Bây giờ
người viết muốn trình bày sơ qua và giới thiệu những điểm du lịch này.
Khu du lịch sinh thái Bà Nà Núi Chúa:
Câu nói nổi tiếng rằng “Đà Nẵng là một Việt Nam thu nhỏ” sẽ có thể bị coi là
không chính xác nếu như ở Đà Nẵng không có Bà Nà, một dãy núi nhấp nhô cao vút với
những cánh rừng nguyên sinh, suối thác và những huyền thoại xa xưa. Bà Nà uy nghi kề
vai với các ngọn núi của Trường Sơn, thanh thản nhìn xuống thành phố cảng nhộn nhịp
ngay dưới chân mình.
Núi Bà Nà cách trung tâm thành phố Đà Năng 48 km về phía tây, đỉnh nằm trên độ
cao 1487m so với mặt nước biển, khí hậu dịu mát quanh năm (nhiệt độ trung bình năm 17
0c - 20 0c. Vào năm 1894 tức là chỉ với có mười năm sau khi thiết lập bộ máy đô hộ trên
đất Việt Nam, viên toàn quyền Pháp Doumer đã nghĩ đến việc xây dựng những khu nghỉ
mát dưỡng sức cho các nhân viên dân sự và sĩ quan Pháp. Ở phía Bắc người ta tìm thấy
Sapa và Tam Đảo, phía Nam người ta tìm ra Đà Lạt những nơi lý tưởng để nghỉ mát. Còn
ở miền Trung, dưới sự phụ trách của viên đại úy pháo binh tên là Debay trong nhiều năm
liền trèo đèo vượt suối, từ Thừa Thiên Huế cho đến Quảng Nam, Quảng Ngãi. Mãi cho đến
đầu năm 1901 họ mới tìm thấy Bà Nà là địa điểm tốt nhất trong mấy chục ngọn núi ở sườn
đông dãy Trường Sơn.
Năm 1919, con đường lên đỉnh Bà Nà được khởi công và từ đây những ngôi biệt
thự tư nhân, khách sạn liên tục mọc lên.
Năm 1922, Ty Lục lộ Đà Nẵng bắt đầu được lệnh thiết kế và sửa sang đường xe
hơi từ chân núi lên đỉnh và các đường lưu thông khác giữa các đỉnh núi với nhau.
Năm 1923 – 1945 Bà Nà đã thực sự trở thành một khu nghỉ mát của các viên chức
cai trị cao cấp. Sau năm 1945 cách mạng tháng tám thành công, Pháp rút khỏi Đông
Dương, Bà Nà vắng bóng người. Lúc Pháp lâm le tái chiếm Việt Nam, để ngăn chặn ý đồ
và không cho chúng lợi dụng vị trí Bà Nà nằm sâu trong lòng hậu phương của ta, nhân dân
đã quyết tâm triệt hạ Bà Nà theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến. Từ đây khu nghỉ mát này
trở thành một bình địa hoang tàn, tiêu điều chìm mất dần trong rừng cây phủ kín.
Năm 1992 công ty dịch vụ Đà Nãng dự án khôi phục lại khu nghỉ mát Bà Nà nhưng
bất thành vì không có kinh phí đầu tư.

Tháng 4 -1997 sở du lịch Đà Nẵng trình dự án khác với số vốn đầu tư dự kiến gần
60 triệu USD .
Tháng 10 – 1997 Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố chính thức ký quyết định
số 3754 phê duyệt dự án đầu tư tuyến đường lên khu nghỉ mát Bà Nà. Như vậy sau gần
100 năm được phát hiện, Bà Nà mới chính thức có chủ trương hoàn thiện từng bước cơ sở
hạ tầng tiến đến khai thái tiềm năng du lịch trọn vẹn nhất.
Tháng 9 -1998 chính thức khai trương khu du lịch này. Từ đây, đỉnh núi Bà Nà trở
thành khu du lịch thu hút một số lượng du khách khổng lồ từ mọi miền đất nước. Với một
địa hình bằng phẳng như một cao nguyên nhỏ, Bà Nà có những cánh rừng nguyên sinh đại
ngàn, hệ động thực vật phong phú đa dạng, là nơi nghỉ mát lý tưởng. Vào những lúc trời
quang mây tạnh, từ trên đỉnh núi du khách có thể phóng tầm nhìn bao quát cả một vùng
không gian rộng lớn. Thành phố Đà Nẵng, thấy từ chân đèo Hải Vân đến Bán Đảo Sơn
Trà, sông Thu Bồn uốn quanh ôm lấy những cánh đồng trù phú, những bãi biển Mỹ Khê,
Bắc MỹAn, Non Nước Ngũ Hành, tất cả cảnh thiên nhiên như một bức tranh sống động
hiếm nơi nào có được.
Trên đỉnh núi, được sự cho phép của Chủ Tịch Thành Phố, được sự ủng hộ của các
cấp chính quyền mà Thượng Toạ Thích Thiện Nguyện đã khai sơn một ngôi chùa tại khu
du lịch này, với tên gọi là Chùa Linh Ứng Bà Nà, thu hút rất nhiều khách thập phương vào
lễ Phật, viếng chùa, tạo điều kiện cho tôn giáo được truyền bá rộng rãi, ấy là nhờ sự quan
tâm giúp đỡ của nhà nước.
Ngũ Hành Sơn Non Nước:
Cách thành phố Đà Nẵng khoảng 8km về phía Đông Nam, bên bờ biển Đông và
dòng sông Trường Giang. Năm ngọn núi cao ngạo nghễ đứng giữa trời mây, mỗi ngọn
một dáng vẻ rất ấn tượng. Núi gần biển và sông nên người dân thường gọi là Hòn Non
Nước (sẽ được trình bày ở phần sau)
Bán đảo Sơn Trà:
Tại Thành phố Đà Nẵng có một miền đất vừa rất gần và vừa rất xa, vừa thân quen
và vừa cách trở, đó là Bán Đảo Sơn Trà, một vùng đất thấp phủ kín vùng nguyên sinh nhô
hẳn ra ngoài biển. Đây là tấm lá chắn khổng lồ, là luồng phổi xanh của khu đô thị trung
tâm, đối diện bên kia là Hải Vân, hai vùng núi này quay vùng cửa Sông Hàn thành một

vùng biển vừa rộng vừa kín đáo. Đứng ở bất kỳ chổ nào trên đất Đà Nẵng cũng nhìn thấy
được những mái rừng xanh thẳm nhấp nhô của bán đảo Sơn Trà. Tuy gần gũi và thân quen
như thế, nhưng cũng có rất nhiều người chưa từng biết và đặt chân dù một lần trên mõm
núi này.
Thực ra hàng chục ngàn năm trước, đây là một hòn đảo bốn bề nước biển vây
quanh, nhưng rồi phù sa từ các cửa sông đổ ra đã tạo thành dải đất nối Sơn Trà với đất
liền. Là các ngọn núi vươn ra biển, lại nằm ở khúc lồi nhất của vòng cung bờ biển Tổ
Quốc; cũng từ trên đỉnh Sơn Trà ta có thể nhìn thẳng ra tới Trường Sa bao quát toàn
bộVịnh biển Đà Nẵng Thành Phố, Sông Hàn, Hải Vân, Ngũ Hành Sơn… cũng chính vì
thế, ngay từ đầu thế kỷ thứ XIX các ông Vua nhà Nguyễn đã cho lập các đồn phòng thủ,
đồn quan sát tiền tiêu ở đây. Năm 1858, chính Sơn Trà là nơi hạm đội liên quân Pháp - Tây
Ban Nha đã tấn công mở màn cho kế hoạch xâm lược Việt Nam.
Thực dân Pháp sau khi chiếm đóng Đà Nẵng đã xây dựng trên Sơn Trà những lô
cốt, đồn an trú án ngữ con đường biển đi vào vịnh cảng, xây những đài quan trắc Rađa
từng giờ từng phút quét đôi mắt thần kiểm soát mặt nước biển đông, kiểm soát vùng trời
miền Trung, dẫn đường bay cho các hành lang hàng không quốc tế bay qua không phận Đà
Nẵng. Nhìn lên đỉnh Sơn Trà, chúng ta sẽ thấy ba quả cầu trám màu trắng đục trong như
các quả bóng Golf, đó chính là các trạm Rađa quan trắc.
Với dáng vẻ trữ tình, bán đảo Sơn Trà luôn gây ấn tượng hiền hòa phóng khoáng và
thoải mái cho khách nhàn du. Người ta luôn có cảm giác an lành, thư thái trước cảnh trời
nước mênh mong, cảnh sắc hài hòa hữu tình cùng với những luồng gió lộng từ ngàn khơi
làm cho khách du lịch được sảng khoái hơn. Bán đảo Sơn Trà có hình dáng như một bức
bình phong vươn ra biển khơi che chắn gió cho thành phố Đà Nẵng, giữ cho thành phố Đà
Nẵng được yên ổn luôn với thời gian.
Ngày nay, cùng hòa nhịp với nhịp phát triển của thành phố, bán Đảo Sơn Trà cũng
đang chuyển mình với những bãi du lịch sinh thái hấp dẫn như phía bắc có bãi Tiên Sa, Bãi
Bắc; phía nam có Bãi Bụt, Bãi Xếp, Bãi Rạng, Bãi Nam…thu hút một lượng đồ sộ khách
du lịch không ngớt đổ sô về đây. Điểm nổi bật ở đây người viết muốn nói đến là dù thành
phố phát triển đến đâu thì luôn tạo điều kiện cho tôn giáo (Phật Giáo) cũng phát triển đến
đó. Bãi Bụt hiện nay cũng đang được sự cho phép của các cấp chính quyền, luôn tạo điều

kiện cho Thượng tọa Thích Thiện Nguyện được khai sơn và đang thi công ngôi chùa mang
tên Linh Ứng Bãi Bụt tại khu du lịch này. Ngôi chùa Linh Ứng này là tên gọi thứ ba trong
thành phố Đà Nẵng đó là: Linh Ứng Non Nước, Linh Ứng Bà Nà và đây là Linh Ứng Bãi
Bụt. Như vậy Phật giáo tại thành phố Đà Nẵng cũng đang trên đà đi lên theo nhịp bước của
thành phố.
Đèo Hải Vân:
Cho đến ngày nay, tất cả các thành phố trên đất Việt Nam, chưa đâu có Khải Hoàn
Môn. Thế nhưng thành phố Đà Nẵng non trẻ từ mấy thế kỷ nay đã có cho mình một Khải
Hoàn Môn hùng vĩ trấn ngự ngay cửa ngõ đầu tiên bước vào thành phố Khải Hoàn Môn
bằng đá gạch cổ kính uy nghi này chính là Hải Vân Quan trên đỉnh đèo Hải Vân, nơi đã
được Vua Lê Thánh Tông đặt cho tuyệt danh là “ Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. [15,61]
Đèo nằm sát cạnh thành phố Đà Nẵng, giúp cho thành phố biển giữa hai miền đất
nước này thêm vẽ kỳ quan ngoạn mục, đỉnh đèo xưa kia là một quan ải có đồn canh gác
giữ ranh giới hai nước Việt Nam và Chiêm Thành, nay còn di tích Hải Vân Quan và là ranh
giới giữa tỉnh Thừa Thiên Huế và Thành Phố Đà Nẵng.
Đèo Hải Vân có chiều dài khoảng 20 km, kéo dài từ địa phận Thừa Thiên Huế đến
Thành Phố Đà Nẵng. Đây là một bức tường thành thiên nhiên quan trọng ngăn các đợt gió
mạnh từ phương bắc tràn về. Vì vậy, các tỉnh từ Đà Nẵng, Quảng Nam trở vào hầu như
quanh năm ấm áp và không có mùa đông như các miền ở phía Bắc. Dãy núi này không chỉ
là ranh giới phân chia hành chánh mà nó còn là ranh giới phân chia hai vùng khí hậu khác
hẳn nhau ở Việt Nam. Vì vậy Tản Đà có viết:
“Hải Vân đèo lớn vừa qua
Mưa xuân ai bỗng đổi ra nắng hè”
Như vậy, Hải Vân là một bức bình phong thiên nhiên khổng lồ che chở cho Tthành
phố Đà Nẵng nằm ngay dưới chân mình. Ngăn che những luồng gió mùa đông bắc mang
cái rét thổi vào đồng ruộng và những đợt gió lào thổi sang. Vì vậy, đèo Hải Vân đã giữ
cho Đà Nẵng được yên lành, một cuộc sống êm đềm ít bị bão lụt.
Trong thời kháng chiến chống pháp của nhân dân ta, quân Pháp rất lo ngại đường
đèo này vì thường bị tấn công bất ngờ mà lần nào cũng bị tiêu hao lớn, thiệt hại nặng nề.
Người dân Quảng Đà có câu:

Hải Vân cao ngất tầng mây
Giặc đi đến đó bỏ thây không về.
Vào thế kỷ thứ XVIII, danh sĩ Ngô Thì Chí đã ghi nhận vẽ hùng vĩ của Hải Vân:
“Ngọn núi này khí át sông ngăn, thế nuốt biển, tầng đá chập chùng khó vịn, cây cối sum sê
rợp bóng, sóng vỗ ầm ầm như vang lên tiếng sóng vang trời, suối chảy rào rào như mưa
tuôn nước từ lưng chừng trời đi xuống.”
Đèo Hải Vân ngày nay và mai sau càng thêm khởi sắc, đường hầm xuyên sơn đã
thông nhau hai phía Bắc Nam. Khi đường này thông xe vào khoảng 2005, thành phố Đà
Nẵng sẽ thêm phần sinh động. Các hoạt động du lịch sẽ thuận lợi, hào hứng thêm do những
điều kiện đi lại dễ dàng, nhanh chóng hơn.
1.3.3. Non nước Ngũ Hành một phong cảnh kỳ ảo và độc đáo:
Cách thành phố Đà Nẵng 8km về hướng Đông Nam và vượt qua con sông Trường
Giang, người ta thấy mọc lên trên bãi cát trắng mênh mông gần bờ biển Tiên Chà những
hòn núi tuy không cao nhưng có vẽ đặc sắc kỳ lạ đó là Ngũ Hành Sơn.
Cảnh trí nào hơn cảnh trí này
Bồng lai âu cũng hẳn là đây
Đá chen với núi màu năm sắc
Chùa nực hơi hương khói lượn mây
Ngư phủ gác cần ngơ mặt nước
Tiều phu chóng búa dựa lưng cây
Nhìn xem phong cảnh ưa lòng khách
Khen bấy thợ trời khéo đắp xây. [27,17]
Tọa lạc của quần thể Ngũ Hành Sơn nay thuộc phường Hòa Hải, Quận Ngũ Hành
Sơn thành phố Đà Nẵng. Giữa cảnh trời mênh mông, giữa bãi cát trắng, bên dòng sông
xanh uốn khúc, Ngũ Hành Sơn hiện lên gây thú vị cho những du khách đi tìm cảnh đẹp.
Người Quảng Nam thường nói đất quê mình giàu linh khí, rõ ràng ở đây thiên nhiên đã tạo
nên những cảnh đẹp tự nhiên thơ mộng
“Quê em có dãy Sông Hàn
Có hòn Non Nước có hang Sơn Trà”
“Sự tích của núi Ngũ Hành Sơn theo kho tàng truyện cổ Việt Nam của Nguyễn

Đổng Chi thì đây là năm ngón tay của Đức Phật đè lên mình Tề thiên đại thánh tương tự
như trong truyện Tây Du Ký của nhà văn Ngô Thừa Ân. Năm ngón tay ấy là năm ngọn là:
Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn. Còn tại Quảng Nam thì người ta lại cho
rằng: ngày xưa Thần Kim Quy rẽ sóng biển đông vào đây đẻ một quả trứng rồng. Về sau,
có năm mảnh trứng rồng nứt ra, lớn mãi thành năm ngọn như ta đã biết”. [24,70]
Quần thể này còn có nhiều tên khác là: Ngũ Uẩn Sơn, Ngũ Chỉ Sơn. Khoảng đầu
thế kỷ XIX là Ngũ Hành Sơn và tồn tại cho đến ngày nay. Năm 1837 lần thứ ba vua Minh
Mạng ngự du và nhận ra thế đứng của năm ngọn núi ở đây theo phương vị Ngũ Hành của
học thuyết Kinh Dịch Đông Phương nên đã đặt tên năm ngọn núi là: Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ Sơn và cho khắc tên vào núi. Trong số đó ngọn Thủy Sơn là đẹp nhất. Nhà vua
rất thích cảnh non nước hữu tình của Ngũ Hành Sơn nên đã cho xây hành cung tại núi
Thủy Sơn.
Khi nói đến núi non thì đâu đâu cũng có non núi cả, nhưng Ngũ Hành Sơn có một
đặc tính cho lịch sử đất nước Việt Nam nói chung và Quảng Nam Đà Nẵng nói riêng, là
lịch sử hùng vĩ của đất Việt và người Việt. Tạo hóa đã giảng bày đâu đâu cũng có núi đá,
các hiện tượng khắp trong trời đất, núi non muôn hình vạn trạng, nhưng Ngũ Hành Sơn là
nơi có nhiều hiện tượng kỳ quan tự nhiên, nó tiêu biểu cho sự huy hoàng của xứ sở và nhân
vật lỗi lạc oai hùng.
Vị trí của năm ngọn núi này được hình thành như sau:
Mộc Sơn: Nằm ở phía đông trên đường từ Đà Nẵng đi Hội An, sườn núi dựng
đứng, trong núi có hang động nhỏ, xưa kia là nơi trụ trì của bà sư ni, tục danh “Bà Trung”;
ngoài ra còn có một tảng cẩm thạch trắng tượng hình ấy có người gọi Phật Quan Thế Âm
tọa sơn, có người gọi là Cô Mụ. [24,73]
Kim Sơn: Nằm hướng tây bắc, nằm giữa Thổ Sơn và Hỏa Sơn, gần Sông Trường
Giang. Tại đây thời nhà Nguyễn có bến đò gọi là “Bến Ngự” vì trước đây nhà Vua Minh
Mạng thường neo thuyền tại đây lúc viếng Ngũ Hành Sơn. Vào khoảng năm 1950, dân địa
phương đã phát hiện ra một hang động dưới chân núi, đặt tên là động Quan Âm. Năm 1956
nhà sư Thích Pháp Nhãn đã mở rộng lối vào hang động và cho xây chùa Quan Âm bên
trong.
Thổ Sơn: Là ngọn núi thấp hơn so với những ngọn núi khác, cây cối thưa thớt có

nhiều dấu tích của kiến trúc Chăm thuở xưa còn sót lại.
Hỏa Sơn: Hai ngọn âm dương đối diện nhau, ngăn cách bởi một cánh đồng lúa
xanh rờn. Trong Âm Hỏa Sơn có một thạch động, trên cửa vào có khắc “Chư Tiên Khách
Hội Động” tương truyền là nơi tu tiên của một cao nhân ẩn sĩ; trong dương hỏa sơn cũng
có một động, trên khắc “Quan Âm Động” và “Phổ Đà Sơn”. Các bậc cao niên cho biết nơi
đây vua Lê Thánh Tông cho dựng tấm bia nói rõ: “một ngàn năm trước là đường bể, một
ngàn năm sau là một ngọn núi nổi danh”. Chẳng rõ thực hư ra sao vì ngày nay giới khảo cổ
chưa tìm ra được tấm bia này. Cũng tương truyền nơi đây về thời vua Minh Mạng có một
vị công chúa vứt bỏ cám dỗ trần tục đến tu tại ngọn núi này.
Thủy Sơn: Là nhọn núi cao hơn cả trong năm ngọn núi, nằm song song với Mộc
Sơn, đây là ngọn núi có nhiều kỳ quan thắng cảnh nhất. Ngay từ dưới chân núi, có hai
đường lên đỉnh: đường tam cấp bằng đá, phía Tây Nam dẫn lên chùa Tam Thai với 156
bậc; đường tam cấp bằng đá phía Đông dẫn lên chùa Linh Ứng với 108 bậc. Ở ngọn núi
này có rất nhiều chùa và Hang động. Chính những hang động này đã là các hình thế thiên
nhiên thuận lợi cho các tu sĩ Phật giáo tìm đến trú ngụ, hành trì tu tập và xây đắp bàn thờ
chùa Miếu. Đó là vào thế kỷ XVI, lúc nhà Mạc tích cực đưa dân binh các vùng phía Bắc
Hải Vân vào định cư ở Quảng Nam Đà Nẵng. Đây cũng là thời kỳ Phật giáo đang phát
triển mạnh mẽ, khi ấy cây rừng còn bao phủ khắp nơi trên núi và cả vùng đồng bằng xung
quanh, các nhà sư đầu tiên đã sống ngay trong các hang động kín đáo, dần dần các đời tăng
ni tiếp tục sau đã lập thêm các bàn thờ, dựng chùa mới, quyên góp tiền của mở mang
đường lên núi, lập am miếu, đến khi dân cư trong vùng càng ngày càng đông đúc, các Phật
tử tín đồ quanh vùng thường xuyên tìm lên đây cúng bái, thờ tự, nơi đây trở thành một
trung tâm Phật giáo độc đáo của miền đất phía Nam kinh thành Huế. Dưới đây, người viết
muốn nói đến những hang động ở Thủy Sơn, còn những chùa tại đây sẽ được nói ở phần
sau như chùa Tam Thai, chùa Linh Ứng.
Động Huyền Không: nằm phía sau bên phải chùa Tam Thai, đi qua cổng vòm có ba
chữ Huyền Không Quan, tức là Động Huyền Không, cửa động rất tối, những bậc cấp dẫn
sâu xuống lòng núi. Phải nói rằng tại Ngũ hành sơn có gần 30 thạch động mà chỉ có Động
Huyền Không là đẹp nhất. Cái đẹp ở đây không phải lộng lẫy như ta tưởng mà cái đẹp có
vẽ thiêng liêng huyền bí, cổ kính mầu nhiệm, khó mà tưởng tượng và mô tả cho hết. Động

có dạng hình tròn, trong động không có các cột thạch nhũ, vách động tạo nên những hình
tượng kỳ lạ thú vị, nơi thì trông giống như con hạc, con voi, nơi giống con kim quy, hình
người thượng cổ hoặc hình con công bay, hay hình chim đại bàng, màu sắc và hình ảnh
trong rất khó nhận định thật là huyền ảo giống như cái tên gọi của nó là “Huyền Không”.
Trong động này có một nơi kỳ dị là động thạch nhũ, người ta tương truyền ở đây có hai
mỏm đá thòng xuống tròn vo, từ khi có núi Ngũ Hành thì hai thạch nhũ này đã thường nhỏ
nuớc, khi khai thiên lập địa có non nước là có thạch nhũ. Thạch nhũ này mùa nắng cũng
như mùa mưa, nước thường xuyên nhỏ xuống, tương truyền trước đây ai đến cầu tự đều
lấy nước đó để uống thì sẽ được như mong muốn. Nhưng từ khi Vua Thành Thái sờ tay
vào thì một trong hai thạch nhũ không nhỏ nước nữa. Tóm lại, đây là hang động đẹp nhất
mà thiên nhiên đã tạo ra. Ngài Thích Đại Sán (Ngài Thạch Liêm) người Trung Hoa đến
đây năm ất hợi (1695) viếng thăm và ca ngợi rằng: Đây là động đẹp và sạch sẽ nhất trong
tất cả các động, giữa động có hai pho tượng người ta thường gọi là ông Thiện và ông Ác
đứng chóng kiếm uy nghi như để nhắc nhở con người về cái thiện cái ác, như để khuyên
con người sống một đời sống hoàn thiện, đem lại cho đời cuộc sống an lành hạnh phúc
hơn.
Động Tàng Chơn: Nằm sau chùa Linh Ứng, một cửa đá trên thềm lởm chởm
khoảng hai bước, mở ra một hành lang ngắn, những cây cối nho nhỏ mọc tựỉ do trong đất
được các tượng đá lồi lõm giữ lại đó là cửa bên phải; trong khi trên tường đá bên trái thấy
ghi tích từ xa xưa thời Minh Mạng “Tàng Chơn Động” (động của sự tỉnh tâm đích thực).
Nghe tên Tàng Chơn Động, người ta cũng nghĩ ngay ý nghĩa mà người xưa đã đặt cho nó
cái tên ngụ ý chứa đựng tất cả thiên nhiên chơn thật của vũ trụ, con nguời như là chứa tàng
trữ kho tàng chơn lý, chơn thật nên gọi là Tàng Chơn. Động này khó diễn tả vì tình thế
không phải là một, vào đến động người ta thấy một thung lũng chiều dài 10 thước, chiều
ngang bảy thước hình chữ nhật, hoàn toàn có ánh sáng mặt trời đầy đủ, thoáng đãng nhờ
thông lên trời qua cửa hang “Thiên Long Cốc”, giữa động có thờ Thái Thượng Lão Quân,
bên trái thờ Bát Bộ Kim Cang, bên phải thờ Thần Chiêm Thành. Ánh sáng trời xuyên qua
động càng làm tăng vẽ đẹp trong động. Khi nói Tàng Chơn Động là tên của một đông
chính, ngoài ra còn có năm động nhỏ là: Động Tam Thanh, Động Hang Gió, Động Chiêm
Thành (Hời), Động Bàn Cờ và Động Hang Ráy. Trong Động Tam Thanh trước đây người

ta thờ thần gió là thượng Thanh, trung Thanh, hạ Thanh (bây giờ không còn nữa), vì thế
nên gọi là Động Tam Thanh. Động có hình thế dài dài, tròn tròn, có thể đi vào sâu và tối
om. Kế đến là Động Hang Gió, đến đây bước thêm khoảng mười tầng cấp và quẹo lại,
trong khi đang mệt mỏi thì nghe những luồng gió vi vu thổi đến để đón chào và tiếp đãi
mọi người bằng một buổi tiệc mát dịu, đứng lại và thưởng thức sự khỏe khoắn của luồng
gió thổi. Nơi đây, quanh năm suốt tháng gió thổi lòng lộng. Sau khi rời khỏi Hang Gió, ta
phải trở về Động Tam Thanh, xuống cấp để tiến về Động Hang Hời. Người ta trang trí
trước cửa động những hình tượng bằng đá theo phong tục Chiêm Thành, hình tượng này
như các vị thần đứng gác cửa. Động có hình bán nguyệt, vùng đất này ngày xưa là của
người Chiêm Thành ở, bây giờ người ta kỷ niệm gọi là Động Hang Hời (Động Chiêm
Thành). Rời khỏi động Chiêm Thành và tiến bước qua Động Hang Ráy, hình thế của cổ
tích cẩm thạch bao phủ, màu đá cũng hiện đủ ngũ sắc rất là cổ kính, động này thông ra
ngoài trời, ở phía ngoài động có loài cây ráy xanh xanh mọc lên rất nhiều nên người ta gọi
là Động Hang Ráy. Sau khi rời khỏi Động Hang Ráy đến động cuối cùng là Động Bàn Cờ.
Theo sự tương truyền trên đỉnh núi các vị tiên hay xuống đây đánh cờ (bây giờ không còn
nữa), trải qua với tuế nguyệt lâu đời, lại theo vết thăng trầm của thế sự, của thời gian vận
hội nước nhà, sự tương truyền huyền thoại này không còn nữa. Người ta lập tại đây một
tảng đá vuông vức giống như bàn đánh cờ tướng, ngoài ra, người ta còn đặt những tảng đá
tròn chung quanh bàn làm đòn ngồi. Đây là biểu hiện cho bàn cờ tại Ngũ Hành Sơn. Trải
qua hàng nghìn năm, Động Tàng Chơn được coi là động lưu giữ mọi chân lý của vũ trụ, vẻ
đẹp nguyên thủy của nó dường như không thay đổi.
Động Huyền Vi: Động nằm sau chùa Linh Sơn, thuộc ngọn Dương Hỏa Sơn ở Ngũ
Hành sơn, hội Phật giáo xã Hòa Hải đã phát hiện ra động vào năm 1953. Động Huyền Vi
trông như một bức tranh thiên nhiên sống động, qua cửa hang dài 3m là vào động, chiều
dài khoảng 10m, chiều ngang 2m, có nhiều ngách hang nhỏ. Trên các ngách hang do nước
và gió xâm thực đã tạo nên những hình ảnh cỏ cây, hoa lá, muôn thú, trước cửa hang có
một con cá sấu thiên tạo rất đẹp. Động còn có tên là động Di Đà, động này có dấu đặc
biệt là trong cổ tích có hiện ra hình tượng Phật và Thánh Giống như một nơi thờ tự.
Tượng Đức Phật Di Đà, cùng Đức Hộ Pháp và Tứ Thiên Vuơng coi rất oai vệ, uy nghi.
Tượng Đức Hộ Pháp và Tứ Thiên Vương phải nhờ ánh đèn mới thấy rõ, vì thế sau khi

khánh thành động có đặt bàn thờ. Từ đó mới có danh từ là động Di Đà hay Huyền Vi
Động. Ngoài ra tại Ngũ Hành Sơn còn có rất nhiều động như Động Hoa Nghiêm, Động
Quan Âm Động Âm Phủ, Động Vân Thông…
Tại Ngũ Hành Sơn, ngoài những thắng cảnh thiên nhiên hữu tình, những chùa
chiền, hang động thì chúng ta không thể không nói đến làng nghề chạm khắc đá. Tại đây,
đa số người dân sống quanh vùng này đều làm nghề khắc đá. Khi đến Ngũ Hành Sơn, hai
bên đường các cửa hàng nằm sát nhau. Với vô vàn các bức tượng khác nhau, các đồ vật,
phù điêu, mỹ nghệ bằng đá muôn màu muôn vẻ. Lùi sâu vào trong một chút là các khu nhà
xưởng ngổn ngang đá, ngổn ngang tượng đang làm dở với những người thợ đang lúi húi
đục khắc xung quanh. Rẽ lên một chút, bám vào chân núi là những khu vườn tượng khổng
lồ, tượng đứng, tượng nằm, tượng cổ, tượng hiện đại, điêu khắc Châu Âu, mang nét điêu
khắc mỹ thuật Ấn Độ và Trung Hoa muôn màu muôn vẽ chen vai thích cách, tượng la liệt
trên mặt đất, trên các hang động nhỏ ẩn vào vách đá với đủ loại đá trắng, đá đen, đá vân
đá hồng khiến cho người xem phải bối rối không biết nên bắt đầu ngắm nhìn từ đâu và sẽ
nhìn những gì. Đây là một làng nghề, là cả một dãy phố nghề luôn tưng bừng đón khách
tham quan du lịch và mua sắm quà lưu niệm.
Mặt hàng này không những thịnh hành khắp cả nước và mỗi ngày có hàng chục
container chở những kiệt tác này vượt đại dương đi đến khắp nơi trên thế giới. Không chịu
thỏa mãn với việc chỉ làm tượng theo mẫu, nhiều nghệ nhân trẻ đã say sưa sáng tác ra
những tác phẩm hiện đại thi thố với bạn bè năm châu. Đã và đang có những ý tưởng táo
bạo về các vườn tượng sáng tác có quy mô hoành tráng, đã có những dự định làm thay đổi
bộ mặt làng nghề nơi chân núi chờ đón du khách và các nhà điêu khắc Quốc Tế.
Những người dân sống dưới chân núi đã được hưởng nhiều phúc lộc của Ngũ
Hành Sơn. Thuở xưa núi cho cho đá để làm nghề, rồisau núi gọi du khách bốn phương đến
cho họ sống, cho họ phát triển. Bây giờ làng nghề có thể trả ơn Ngũ Hành Sơn khi họ làm
cho núi đẹp hơn, họ gọi khách du lịch đến với núi nhiều hơn. Tất cả là nhờ vào đất nước
ổn định hòa bình, nhờ vào du lịch quảng giao. Nói văn hoa ra thì ở Ngũ Hành Sơn lúc này
có cả thiên trời, địa lợi, nhân hòa. Bây giờ làng nghề tượng đá Ngũ Hành Sơn đã là một
phần tất yếu không thể thiếu được của Đà Nằng cả về kinh tế du lịch, cả về nghệ thuật và
văn hóa. Tương lai của làng còn rộng mở và đầy hứa hẹn, tên tuổi của làng này đã nghiểm

nhiên nằm trong danh mục của mạng lưới du lịch và của giới điêu khắc trên khắp thế giới.
Tóm lại Ngũ Hành Sơn là một nơi danh lam thắng cảnh, một kỳ quan của thành
phố Đà Nẵng, càng lúc thành phố Đà Nẵng càng đông khách du lịch. Với Đà Nẵng, Ngũ
Hành Sơn chẳng những là một trung tâm Phật giáo, một miền đất hành hương mà còn là
một quần thể du lịch đầu tiên trong biên niên sử du lịch của thành phố. Người dân địa
phương tin rằng đây là một vùng đất thiên của Đà Nẵng, tự hào với Ngũ Hành Sơn, năm
ngọn núi Cẩm Thạch kề sát bên nhau tạo nên một kỳ quan hùng vĩ và thơ mộng.
1.3.4. Những di tích còn lại của Chăm Pa tại Mỹ Sơn:
Khu di tích văn hóa Mỹ Sơn thuộc địa bàn xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, cách
thành phố Đà Nẵng khoảng 70km về phía Tây Nam, khu đền tháp Mỹ Sơn nằm trong một
thung lũng kín đáo, có đường kính chừng 2km, xung quanh là đồi núi.
Cho đến thời kỳ du khách thế giới đang có phong trào đi tìm đến các địa chỉ du
lịch tiên phong vào Việt Nam, cái tên Mỹ Sơn đã nổi lên như một phát hiện độc đáo. Nằm
trong một thung lũng hoang vắng phủ kín cây rừng, mấy chục ngôi đền tháp nằm san sát
nhau đổ nát vì bom đạn chiến tranh tàn phá, câm lặng và bí ẩn nhưng người ta có thể hình
dung ra sự bề thế uy nghi và không khí tâm linh huyền bí của một rừng các ngọn tháp
lớn nhỏ vào thời huy hoàng xa xưa kia.
“Qua những bia ký, người ta biết được vào những thế kỷ V –VII , người Chăm đã
bắt đầu xây dựng nhiều đền tháp thờ cao đẹp, bia ký cho biết ôngVua Bhadravaman đã xây
dựng đền tháp thờ vào thế kỷ thứ V tại thánh địa Mỹ Sơn. Nhưng đến thế kỷ sau điện thờ
này bị cháy trong một cơn hỏa hoạn. Đến các thế kỷ thứ VII –VIII người Chàm đã khôi
phục lại đền thờ này và đặt cho nó một cái tên mới Sambubhadresvara (sambu – tên
vua, Bhadervara – một tên gọi thần siva ), sau đấy đến thời vua Vikratavarman (657
-689 ) đã tô điểm thêm cho Mỹ Sơn và chỉ vào thời kỳ này, chúng ta mới có những chứng
cứ đầu tiên về nghệ thuật Chămpa, rủi thay kiến trúc thời vua Vikrantavaram không còn,
nhưng những mãng trang trí kiến trúc còn lại như cột, mi cửa, của phế tích tại Mỹ Sơn
chứng tỏ nơi đây đã từng có một ngôi tháp thật sự”. [7,31]
Nhờ bia ký mà ngày nay chúng ta biết được người đầu tiên lập nên thánh địa Mỹ
Sơn là Bhadravarman I này, các nhà khoa học mới tìm ra tên được viết bằng chữ phạn của
ông, theo các nhà nghiên cứu đó chính là Phạm Phật nói trong các thư tịch cổ Trung Quốc

(43), tên Vua được ghi bằng chữ phạn đã chứng tỏ những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
đã để lại dấu ấn sâu đậm ở nước Chămpa vào thế kỷ thứ IV. Tôn giáo chính thống của vua
chúa Chămpa chủ yếu là thờ thần Siva và các thần Ấn Độ khác. Bhadravarman đã dựng
đền thờ Bhadresvara ở Mỹ Sơn và dâng cúng vùng đất này trở thành thánh địa của cả
vương quốc Chămpa cho vị thần tối thượng này.
“Dưới thời vua IndravarmanII (854 -893), đức Vua lập kinh đô lấy tên là Indrapura
(tỉnh Quảng Nam) khôi phục quan hệ tốt với Trung Quốc và trong triều đại này các nhà
sử học Trung Quốc bắt đầu gọi nó bằng cái tên thứ ba là Chang Cheng, có nghĩa là
thành phố của Chan, theo tiếng phạn là Champapuro. Đây là một triều đại thanh bình
nổi tiếng về cơ sở Phật giáo to lớn, một tu viện mà những dấu ấn đã được xác định ở Đông
Dương Đông Nam của Mỹ Sơn. Đây là bằng chứng đầu tiên về sự tồn tại của Phật giáo
đại thừa ở Chămpa”. [16-294]
Năm 972 Chămpa xuất hiện một vị Vua mới, theo các nhà khoa học vị Vua này có
tên là Paramesvaravarman, còn các sử liệu Việt Nam gọi là Phi Mê Thuế. Vị Vua này một
mặt thì duy trì quan hệ với triều đình Trung Quốc, mặt khác thì luôn có ý đồ lấn chiếm
Việt Nam. Khi vua Lê Đại Hành lên ngôi (982) sai sứ sang giao hiếu với Chiêm Thành và
đã bị người Chiêm Thành bắt giữ và chính Paramesvaravarman là vua Chămpa đầu tiên
gây sự bất hòa với Việt Nam.
Năm 988 một vị vua khác là Harivarman II lên ngôi (sử Việt Nam gọi là Cu Thi Lị
Ha Thân Bài – Ma – La) luôn giữ mối quan hệ tốt với nhà tiền Lê. Từ sau Harivarman II
tình hình triều chính Chămpa không yên nên không có tài liệu nào đề cập đến các vị vua
nối tiếp nhau. Cho đến năm 1050, chỉ có tài liệu Việt Nam cho biết ít nhiều về cuộc đụng
độ giữa hai nước vào thời nhà Lý. Để trừng phạt cho những lần vào cướp phá Đại Việt,
năm 1044 vua Lý Thái Tôn cầm quân chinh phạt Chiêm Thành và cứ như thế, trải qua
nhiều cuộc chiến tranh, trải qua nhiều thế kỷ, Mỹ Sơn cũng bị chi phối theo những bước
thăng trầm và hầu như đã bị bỏ quên suốt nhiều thế kỷ và chỉ biết trở lại vào cuối thế kỷ
thứ XIX .
Các di tích tại Mỹ Sơn lần đầu tiên được phát hiện cuối năm 1897 đầu năm 1898
do một nhà khoa học người Pháp tên là M.C Paris. Trước năm 1898 ông đã phát hiện và
công bố những phế tích Chămpa ở Trà Kiệu (tỉnh Quảng Nam). Trong khi nghiên cứu

những di tích ấy, theo chân những người dân địa phương M.c Paris đã đến thung lũng hình
lòng chảo thuộc thôn Mỹ Sơn, xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Tại đây
ông đã phát hiện ra cả một quần thể di tích kiến trúc cổ Chămpa nằm thành từng cụm dọc
hai bên bờ suối bị che phủ bởi cây cối và rừng rậm. Thế là ngay lập tức, Mỹ Sơn đã thu hút
sự chú ý của các nhà khoa học thuộc những chuyên môn khác nhau. Ngay năm sau, hai nhà
khoa học thuộc viện nghiên cứu Viễn Đông Pháp là L.Finot và L.Lajonquiere đã đến Mỹ
Sơn nghiên cứu các văn bia và các di tích.
Sau một số những công cuộc nghiên cứu, phát quang và tu bổ vào đầu thế kỷ thứ
XX và giữa thế kỳ thứ XX, khu di tích Mỹ Sơn một lần nữa bị bỏ quên và bị chiến tranh
tàn phá nặng nề, thung lũng Mỹ Sơn còn bị đặt trong khu vực “tự do oanh kích” chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
“Năm 1977 mười bảy chiến sĩ công binh thuộc tỉnh đội Quảng Nam – Đà Nẵng đã
hy sinh và bị thương trong đợt gỡ mìn khai quang để phục vụ cho công tác điều tra nghiên
cứu. Theo con số điều tra hiện trạng ở Mỹ Sơn chỉ còn lại 30 đền tháp có tường cao từ 1m
trở lên”. [7,160]
Sau năm 1975 ở Mỹ Sơn còn khoảng 20 tháp còn giữ được hình dáng nhưng hầu
như không còn nguyên vẹn. Năm 1980 trong chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam – Ba
Lan, tiểu ban phục hồi các di tích Chămpa đã làm việc tại Mỹ Sơn, kiến trúc sư Ba Lan
Kazimierz trực tiếp tham gia và chỉ đạo về mặt kỹ thuật, sau mười năm gia cố tu sửa, trung
tâm kiến trúc bậc nhất của nghệ thuật Chămpa đã được hồi sinh, Mỹ Sơn đã được phần nào

×