Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tạp chí kinh tế đối ngoại đề tài MỘT SỐ NGHĨA VỤ TIẾP TỤC TỒN TẠI SAU KHI HỢP ĐỒNG CHẤM DỨT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.77 KB, 19 trang )

MỘT SỐ NGHĨA VỤ TIẾP TỤC TỒN TẠI SAU KHI HỢP ĐỒNG CHẤM DỨT

Ngô Quốc Chiến*
Các hợp đồng mà việc thực hiện kéo dài trong một khoảng thời gian có một
đặc điểm khác thường, đó là khi kết thúc chúng làm chấm dứt một số nghĩa
vụ, nhưng đồng thời cũng có thể làm phát sinh một số nghĩa vụ khác theo
thỏa thuận của các bên, như chẳng hạn nghĩa vụ bảo mật thông tin và nghĩa
vụ không cạnh tranh. Mặc dù các điều khoản quy định các nghĩa vụ hậu hợp
đồng đôi khi cần thiết cho doanh nghiệp để bảo vệ bí mật kinh doanh, nhưng
lại rất bất lợi cho người có nghĩa vụ. Nếu chúng có phạm vi rộng về không
gian, thời gian và công việc thì có thể dẫn tới người có nghĩa vụ không có
việc làm sau khi hợp đồng chấm dứt. Do đó, chúng ta cần sớm có các quy
định điều hòa hai lợi ích đối lập này.
Từ khóa: nghĩa vụ hậu hợp đồng, bảo mật thông tin, không cạnh tranh, giới
hạn không gian, giới hạn thời gian.
Mở đầu
Trong một hợp đồng mua bán thông thường, khi nghĩa vụ cơ bản là người
bán giao hàng cho người mua và người mua trả tiền cho người bán được
thực hiện thì các bên hoàn thành nghĩa vụ đối với nhau và được giải phóng
khỏi hợp đồng
[1]
. Nhưng kết thúc hợp đồng không phải lúc nào cũng đồng
nghĩa với chấm dứt mọi nghĩa vụ. Các mối quan hệ hợp đồng lâu dài hiếm khi
có thể chấm dứt trong ngày một ngày hai. Việc thực hiện các nghĩa vụ cơ bản
không làm chấm dứt hoàn toàn hợp đồng, bởi vì hợp đồng đã chứa trong
lòng nó các mầm mống cho sự ra đời các nghĩa vụ trong tương lai
[2]
. Chẳng
hạn, trong các hợp đồng có quy định về chuyển giao quyền sử dụng bí mật
kinh doanh, bên nhận chuyển giao vẫn giữ các thông tin bí mật và những
kinh nghiệm mà bên chuyển giao cung cấp và đào tạo cho mình, vì bí mật


kinh doanh là những thông tin một khi đã phát ra thì không thể thu hồi được.
Để ngăn chặn bên nhận chuyển giao tiếp tục sử dụng các thông mật, bên
chuyển giao thường đưa vào trong hợp đồng các nghĩa vụ tiếp tục tồn tại sau
khi hợp đồng chấm dứt. Các điều khoản quy định các nghĩa vụ tiếp tục tồn tại
sau khi hợp đồng có thể tồn tại trong rất nhiều loại hợp đồng khác nhau, từ
hợp đồng nhượng quyền thương mại, hợp đồng lao động, đến hợp đồng
chuyển giao công nghệ, hợp đồng phân phối độc quyền, hợp đồng đại lý
Các nghĩa vụ tiếp tục tồn tại sau khi hợp đồng chấm dứt, hay còn gọi là các
nghĩa vụ hậu hợp đồng, có thể được hiểu là “các nghĩa vụ phải làm hoặc
không được làm có mục đích điều chỉnh quan hệ của các bên sau khi hợp
đồng chấm dứt”
[3]
. Có thể xếp các nghĩa vụ hậu hợp đồng vào hai loại. Loại
thứ nhất là các nghĩa vụ bắt đầu có hiệu lực khi hợp đồng chấm dứt, như
chẳng hạn nghĩa vụ hoàn trả những gì đã mượn nhằm thực hiện hợp đồng,
nghĩa vụ hủy các tài liệu, nghĩa vụ mua lại hàng tồn kho, nghĩa vụ hoàn trả
tài liệu liên quan đến khách hàng… Đây chính là các nghĩa vụ phát sinh hiệu
lực khi hợp đồng chấm dứt. Thứ hai là các nghĩa vụ đã tồn tại trong quá trình
thực hiện hợp đồng và tiếp tục tồn tại khi hợp đồng này chấm dứt. Thuộc
nhóm này có nghĩa vụ bảo hành, nghĩa vụ bảo đảm hàng hóa không bị khiếm
khuyết, nghĩa vụ bảo mật thông tin, nghĩa vụ không cạnh tranh Tại Việt
Nam, Bộ luật dân sự 2005 dường như mới chỉ nhìn nhận mối quan hệ gắn kết
các bên chủ yếu dưới dạng tĩnh, vào thời điểm giao kết hợp đồng, chứ chưa
quan tâm đến mối quan hệ hậu hợp đồng của các bên
[4]
. Bộ luật chỉ có một
quy định về nghĩa vụ có thể tiếp tục tồn tại sau khi hợp đồng chấm dứt, đó là
nghĩa vụ bảo hành (điều 445). Sự thờ ơ này là rất đáng tiếc vì cùng với sự
phát triển của các hình thức hợp đồng mới, các điều khoản hậu hợp đồng
được sử dụng ngày càng nhiều. Vì vậy bài viết này sẽ tập trung nghiên cứu

hai loại điều khoản hậu hợp đồng rất hay được sử dụng, đó là điều khoản bảo
mật thông tin và điều khoản không cạnh tranh.
Như mọi loại nghĩa vụ khác, nghĩa vụ tiếp tục tồn tại sau khi hợp đồng chấm
dứt phải tuân theo các quy định của Bộ luật dân sự (BLDS). Tuy nhiên, các
quy định chung của BLDS hiện nay dường như chưa đủ để bảo vệ lợi ích của
bên có nghĩa vụ do tính chất chuyên biệt của chúng, trong khi pháp luật
chuyên ngành của chúng ta còn tương đối sơ sài. Mặc dù có cùng bản chất là
ngăn cản tự do của bên có nghĩa vụ, nhưng nghĩa vụ bảo mật thông tin và
nghĩa vụ không cạnh tranh sau khi hợp đồng chấm dứt có những đặc thù
riêng và phải tuân theo các điều kiện khác nhau. Sau khi nghiên cứu các điều
kiện có hiệu lực của điều khoản bảo mật thông tin (1) và điều khoản không
cạnh tranh (2), chúng tôi sẽ đưa ra hướng xử lý hai loại nghĩa vụ này khi hợp
đồng bị hủy bỏ (3).
1. Điều kiện có hiệu lực của điều khoản bảo mật thông tin
Dù với tên gọi nào: “nghĩa vụ im lặng”, “nghĩa vụ không tiết lộ”, “nghĩa vụ
không thông tin”, hay Non Disclosure Agreement trong tiếng Anh, thì nghĩa
vụ bảo mật cũng đều có bản chất pháp lý là một nghĩa vụ không được
làm
[5]
mà nội dung là một hoặc nhiều thông tin và phạm vi được xác định
trong không gian và thời gian. Pháp luật hợp đồng của Việt Nam hiện nay đề
cao nguyên tắc tự do thỏa thuận, nên các bên có thể tự do đặt tên cho các
điều khoản của mình, định ra các thông tin cần bảo mật và thời hạn của điều
khoản. Cá biệt, đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại, trong trường
hợp các bên không có thỏa thuận, bên nhận quyền vẫn có nghĩa vụ “giữ bí
mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng
nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt”
[6]
. Sau khi quan hệ hợp
đồng chấm dứt, việc tiếp tục sử dụng bí quyết kinh doanh

[7]
có thể bị coi là
chiếm hữu bất hợp pháp hay được lợi không có căn cứ pháp lý và bị xử lý
theo quy định của pháp luật dân sự
[8]
. Do điều luật này chỉ quy định chung
chung “sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm
dứt”, nên có thể hiểu rằng bên nhận quyền chịu sự ràng buộc của nghĩa vụ
bảo mật không giới hạn trong thời gian, trừ trường hợp bí quyết kinh doanh
bị tiết lộ cho công chúng, và như vậy không còn là bí mật kinh doanh nữa.
Thực tiễn cho thấy, trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, cũng như
trong các loại hợp đồng phân phối, hợp đồng chuyển giao công nghệ hay hợp
đồng lao động, bên chuyển giao các quyền sở hữu trí tuệ là bên chiếm ưu thế
trong hợp đồng, nên sẽ có xu hướng bao phủ tất cả các thông tin dưới tấm áo
khoác bảo mật. Tuy nhiên, theo định nghĩa, bí mật kinh doanh là “thông tin
thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả
năng sử dụng trong kinh doanh”
[9]
, hay “không phải là hiểu biết thông
thường; có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo
cho người nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với người không nắm giữ
hoặc không sử dụng thông tin đó”
[10]
. Thực tế cho thấy không phải thông tin
nào cấu thành bí quyết kinh doanh – đối tượng của nghĩa vụ bảo mật – cũng
là những thông tin quan trọng và bí mật. Chính cách kết hợp và sử dụng
chúng mới là yếu tố then chốt tạo nên lợi thế kinh doanh. Vậy liệu có hợp lý
khi chấp nhận tất cả các thông tin đều có thể nằm trong phạm vi của điều
khoản bảo mật? Hơn nữa, không phải tất cả các thông tin cấu thành bí quyết
kinh doanh đều có tầm quan trọng như nhau. Một thông tin thuần túy

thương mại có thể nhanh chóng trở nên lỗi thời, trong khi một thông tin khoa
học kỹ thuật có thể có ích trong một thời gian dài
[11]
. Hơn nữa, rất có thể bí
quyết kinh doanh vào thời điểm chấm dứt hợp đồng không nhất thiết là bí
mật kinh doanh của thời điểm ký kết hợp đồng, do nó đã được chỉnh sửa cho
phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Trên thực tế, bí quyết kinh doanh
là yếu tố vô hình có thể thay đổi theo thời gian để thích ứng với các yêu cầu
kinh doanh. Vậy mà, chính bên nhận chuyển giao bí quyết kinh doanh hằng
ngày tiếp xúc trực tiếp với khách hàng mới là người thấu hiểu nhu cầu của
người tiêu dùng để có thể chỉnh sửa hoặc làm phong phú thêm bí quyết kinh
doanh. Khi đó sẽ là bất công nếu cấm anh ta khai thác các thông tin mà anh
ta đã tự tạo ra. Hơn nữa, rất có thể một phần bí quyết kinh doanh đã được
thể hiện ra bên ngoài, thông qua cách bài trí cửa hiệu, cách phục vụ khách
hàng… mà tất cả mọi người đều có thể nhìn thấy được. Một số thông tin đã
được phơi bày hay vật chất hóa ra trước mắt công chúng, và như vậy rơi vào
hiểu biết chung mà không ai có quyền cấm người khác tiết lộ. Vậy người
nhận chuyển giao quyền sử dụng bí quyết kinh doanh có phải giữ bí mật tất
cả các thông tin cấu thành bí quyết kinh doanh được chuyển giao không?
Tại nhiều nước, điều khoản bảo mật thông tin chỉ được liên quan đến các
thông tin được một bên thông báo cho bên kia và phải tương xứng với mục
đích chính đáng cần bảo vệ. Theo nguyên tắc tự do thỏa thuận, các bên được
tự do xác định “mục đích chính đáng cần bảo vệ”. Tuy nhiên, trên thực tế, việc
xác định các thông tin cần bảo mật và mục đích của việc bảo mật thông tin là
do bên nắm giữ bí quyết kinh doanh thực hiện. Các hợp đồng gia nhập có đặc
trưng là sự bất cân xứng về quyền, do các bên giao kết ở các vị thế khác nhau.
Trên thực tế, bên mạnh thế có xu hướng lạm dụng quyền để giành được nhiều
lợi nhất cho mình, nên Tòa án tại nhiều nước châu Âu thiết lập cơ chế kiểm
soát rất chặt chẽ việc lạm quyền trong hợp đồng
[12]

. Một nghĩa vụ bảo mật
được chứng minh dựa vào một lợi ích cá nhân của người có quyền vẫn có thể
bị hủy bởi nó ảnh hưởng đến lợi ích chung. Thật vậy, Tòa án Tối cao Pháp đã
quyết định rằng một điều khoản bảo mật là vi phạm pháp luật vì có bản chất
tạo ra một “bí mật giả tạo” ngăn cản tự do cạnh tranh. Cụ thể, trong một
phán quyết ngày 27/01/1998, Tòa án Tối cao Pháp đã xét rằng “điều khoản
bảo mật thông tin trong các thỏa thuận giữa công ty Galec và các công ty bán
bột giặt đã có hậu quả phi cạnh tranh không chỉ đối với các nhà sản xuất
khác mà còn cả đối với các công ty phân phối vì bị rơi vào một hoàn cảnh bất
lợi so với các công ty phân phối khác được hưởng các chiết khấu bí mật”
[13]
.
Như đã nói ở trên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, người nhận chuyển
giao quyền sử dụng bí quyết kinh doanh có thể có những cải thiện bí quyết
kinh doanh này. Vấn đề đặt ra là liệu anh ta có thể sử dụng hoặc tiết lộ các
thông tin này không? Pháp luật thực định của Việt Nam không có câu trả lời.
Tại châu Âu, câu trả lời có vẻ như phụ thuộc vào việc các hoàn thiện, bổ sung
này có thể tách rời được hay không bí quyết kinh doanh ban đầu. Theo Ủy
ban châu Âu, nếu chúng tách rời được bí quyết kinh doanh ban đầu, thì bên
nhận quyền có thể sử dụng chúng sau khi hợp đồng chấm dứt. Còn ngược lại
nếu chúng gắn liền với bí quyết kinh doanh, thì việc sử dụng hay tiết lộ chúng
là không thể. Thật vậy, trong vụ tranh chấp giữa công ty Computerland và
các bên nhận quyền nhãn hiệu này liên quan đến điều khoản bảo mật thông
tin theo đó các bên nhận quyền không được sử dụng bất kỳ thông tin nào
trong bí quyết kinh doanh sau khi hợp đồng chấm dứt, Ủy ban châu Âu đã
quyết định rằng các bên nhận quyền “được tiếp tục sử dụng các đổi mới và
hoàn thiện mà họ mang lại cho bí quyết kinh doanh vì những thông tin bổ
sung này có thể tách rời được hệ thống Computerland”
[14]
.

Giải pháp này vừa mang tính hợp lý vừa mang tính khuyến khích. Nó hợp lý
bởi vì sẽ là không công bằng nếu cấm bên nhận chuyển giao bí quyết kinh
doanh sử dụng những gì do anh ta tạo ra bằng công sức của chính mình. Để
cho bên chuyển giao bí quyết kinh doanh hưởng thành tựu từ những nỗ lực
của bên nhận chuyển giao cũng chính là thừa nhận quyền được hưởng lợi
không có căn cứ pháp luật. Giải pháp này mang tính khuyến khích ở chỗ các
bên nhận chuyển giao bí quyết kinh doanh sẽ cố gắng nhiều hơn nữa để cải
thiện bí quyết kinh doanh nếu họ có thể được sử dụng các cải thiện này sau
khi hợp đồng chấm dứt. Kết quả là điều này làm cho việc thực hiện hợp đồng
trở nên hiệu quả hơn, năng động hơn và doanh nghiệp của các bên trong hợp
đồng có khả năng cạnh tranh cao hơn.
Trong xu thế tự do thông tin và minh bạch hóa, chúng tôi cho rằng chỉ nên coi
nghĩa vụ bảo mật thông tin là một ngoại lệ của nguyên tắc tự do thông tin.
Một điều khoản quy định tất cả các thông tin đều phải được giữ bí mật có thể
bị coi là nhằm tước đoạt quyền tự do thông tin của bên có nghĩa vụ - một
quyền Hiến định
[15]
, và như vậy sẽ bị vô hiệu. Điều khoản bảo mật thông tin
chỉ hợp pháp nếu đồng thời có nội dung và mục đích rõ ràng. Hiệu lực của nó
phải được giới hạn trong không gian và thời gian.
2. Điều khoản không cạnh tranh
Điều khoản không cạnh tranh (non-competition clause) có thể được định
nghĩa là một “thỏa thuận hợp đồng theo đó một bên bị tước quyền thực hiện
trong một khoảng thời gian và không gian nhất định một hoạt động nghề
nghiệp có khả năng cạnh tranh với hoạt động của công ty cũ”
[16]
. Cũng giống
như điều khoản bảo mật thông tin, điều khoản không cạnh tranh cũng tạo ra
một nghĩa vụ không được làm một công việc nhất định. Nó cấm bên có nghĩa
vụ thực hiện một hoạt động cạnh tranh với công ty có quyền sau khi hợp

đồng chấm dứt.
Điều khoản không cạnh tranh có thể gây ra những bất lợi lớn cho người có
nghĩa vụ do nó cản trở tự do lao động, vốn là một nguyên tắc Hiến định
[17]
. Nó
không chỉ là một trở lực đối với tự do sản xuất, kinh doanh, mà còn đi ngược
lại nguyên tắc tự do cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế. Cũng giống như đối
với nghĩa vụ bảo mật thông tin, hiệu lực của điều khoản không cạnh tranh
được xác định dựa trên các quy định của BLDS, như tự nguyện cam kết, nội
dung và mục đích hợp pháp và không trái với thuần phong mỹ tục. Tuy nhiên,
những quy định chung này không giúp bảo vệ được lợi ích của bên có nghĩa
vụ không cạnh tranh.
Thật vậy, trong lĩnh vực lao động, một Tòa án của Việt Nam đã chấp nhận
một điều khoản cấm người lao động làm việc trực tiếp hoặc gián tiếp cho một
công ty cạnh tranh sau khi hợp đồng chấm dứt. Cụ thể, ông Ram và Công ty
Saitex ký một hợp đồng làm việc trong đó có một điều khoản buộc ông Ram
trong thời hạn 1 năm kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động không được
làm việc trực tiếp hay gián tiếp cho bất kỳ công ty hay cá nhân nào là đối thủ
cạnh tranh của công ty Saitex. Ngay sau khi đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động với công ty Saitex, ông Ram đã làm việc cho một đối thủ cạnh tranh
với công ty này. Vụ việc đựa đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Đức
Hòa, tỉnh Đồng Nai
[18]
. Tòa án đã nhận định rằng thỏa thuận giữ Công ty
Saitex và ông Ram là một dạng của giao dịch dân sự không thuộc phạm vi
điều chỉnh của điều 26 và 29 Bộ luật lao động. Căn cứ vào điều 122 BLDS, Tòa
cho rằng đây là “một thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện giữa ông Ram đối với
Công ty Saitex, nếu ông Ram không ký cam kết này thì Công ty Saitex cũng
không thể bắt buộc ông Ram được”. Theo Tòa án, “nếu người lao động làm
việc cho một Công ty đối thủ thì đương nhiên Công ty sẽ bị thiệt hại khi bí mật

kinh doanh của Công ty bị tiết lộ nên yêu cầu của Công ty Saitex buộc ông
Ram tuân thủ điều khoản cạnh tranh tại khoản 2 điều 3 của hợp đồng lao
động đã ký với Công ty Saitex là phù hợp và có cơ sở”. Từ các nhận định trên,
Tòa đã buộc ông Ram “không được làm việc trực tiếp hay gián tiếp cho bất kỳ
Công ty hoặc cá nhân nào là đối thủ cạnh tranh của Công ty Saitex cho đến
hết ngày 13/5/2011”.
Rất tiếc, để thừa nhận giá trị pháp lý của điều khoản không cạnh tranh,
Tòa án mới chỉ xem xét khía cạnh tự nguyện của các bên giao kết, tức là chỉ
một trong các điều kiện quy định tại điều 122 BLDS 2005, chứ chưa đi sâu tìm
hiểu xem liệu nghĩa vụ này có “vi phạm điều cấm của pháp luật” hay không.
Lẽ ra Tòa nên đặt câu hỏi tại sao một bên lại có quyền cấm bên kia thực hiện
một công việc sau khi hợp đồng chấm dứt, trong khi quyền tự do lao động đã
được quy định trong Hiến pháp và Bộ luật Lao động? Một điều khoản như thế
liệu có vi phạm điều 16, Bộ luật Lao động 1994? Khoản 4 của điều này quy
định rằng “người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao
động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm”
[19]
. Thỏa thuận không
cạnh tranh liệu có trái với khoản 2, điều 30, Bộ luật lao động 1994 cho phép
người lao động “giao kết một hoặc nhiều hợp đồng lao động, với một hoặc
nhiều người sử dụng lao động”, miễn là người lao động “bảo đảm thực hiện
đầy đủ các hợp đồng đã giao kết”?
Hơn nữa, nhận định rằng đây là “một thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện giữa
ông Ram đối với Công ty Saitex, nếu ông Ram không ký cam kết này thì Công
ty Saitex cũng không thể bắt buộc ông Ram được” cũng không hoàn toàn
thuyết phục và không phản ánh hết được thực tiễn. Trong lĩnh vực lao động
cũng như phân phối hàng hóa, người sử dụng lao động và nhà cung cấp
thường là bên soạn thảo và đề xuất hợp đồng. Người lao động và nhà phân
phối bán lẻ chỉ có quyền gia nhập hoặc không gia nhập hợp đồng, chứ khó có
thể đàm phán điều chỉnh các điều khoản trong hợp đồng đó. Thực tế cho thấy,

bên đề xuất hợp đồng có xu hướng đưa vào hợp đồng các điều khoản bảo mật
thông tin và không cạnh tranh gây phương hại đến tự do lao động của người
có nghĩa vụ. Mặc dù loại thỏa thuận này đôi khi cần thiết cho doanh nghiệp
để bảo vệ bí mật kinh doanh, nhưng lại rất bất lợi cho người lao động. Nếu
thỏa thuận này có phạm vi rộng về không gian, thời gian và công việc thì có
thể dẫn tới người lao động không có việc làm sau khi hợp đồng lao động
chấm dứt
[20]
.
Thông thường, một nghĩa vụ chỉ được coi là hợp pháp nếu nó có một đối
trọng, hay vật đánh đổi
[21]
. Trong hợp đồng lao động, đối trọng của nghĩa vụ
của người lao động phải thực hiện các công việc mà người sử dụng lao động
giao là một khoản tiền lương. Đối trọng của điều khoản không cạnh tranh
sau khi hợp đồng chấm dứt có lẽ cũng phải là một khoản tiền bù đắp cho việc
không thực hiện một công việc cạnh tranh-đồng nghĩa với thất nghiệp. Ngoài
ra, nghĩa vụ đó phải có căn cứ rõ ràng. Trong vụ việc vừa trích ở trên trên,
căn cứ của nghĩa vụ không cạnh tranh, theo Tòa án, là để bảo vệ “bí mật kinh
doanh”. Lập luận của Tòa án theo đó “nếu người lao động làm việc cho một
Công ty đối thủ thì đương nhiên Công ty sẽ bị thiệt hại khi bí mật kinh doanh
của Công ty bị tiết lộ” chưa thực sự thỏa đáng. Mối liên hệ giữa “làm việc cho
một công ty đối thủ” và “bí mật kinh doanh của Công ty bị tiết lộ” chưa đủ rõ
ràng để dẫn tới hậu quả “đương nhiên Công ty sẽ bị thiệt hại”. Chúng tôi cho
rằng nếu để bảo vệ bí mật kinh doanh thì một điều khoản bảo mật thông tin
là đủ. Chấp nhận một điều khoản không cạnh tranh buộc người lao động
không được tiếp tục làm việc đồng nghĩa với việc tước quyền tự do lao động
của anh ta. Một kỹ sư không được làm việc trong lĩnh vực chuyên môn của
mình thì còn có thể làm được công việc gì khác?
Trong lĩnh vực phân phối, điều khoản không cạnh tranh còn tỏ ra bất lợi hơn

đối với bên nhận chuyển giao quyền sử dụng bí mật kinh doanh, bởi vì anh ta
cũng là một thương nhân khai thác quyền thương mại của nhà cung cấp
dưới hình thức công ty. Khi hợp đồng chấm dứt, bên nhận chuyển giao quyền
sử dụng bí quyết kinh doanh rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Một mặt,
nếu muốn tiếp tục hoạt động, anh ta sẽ phải chờ điều khoản không cạnh
tranh hết hạn và như vậy sẽ phải sa thải công nhân và bản thân mình trở
thành người thất nghiệp. Mặt khác, trong quá trình khai thác mô hình kinh
doanh, anh ta đã có một lượng khách hàng quen, nhưng khi hợp đồng chấm
dứt thì không thể khai thác lượng khách hàng này, từ đó mất cơ hội kinh
doanh. Tình thế này rất có lợi cho nhà cung cấp để tạo sức ép đối với nhà
phân phối bán lẻ gia hạn hợp đồng với các điều kiện bất lợi hơn, hoặc “phải”
bán lại hệ thống kinh doanh cho mình, vì không còn cách nào khác khả dĩ
hơn. Chúng tôi đã thấy trong thực tế có nhiều hợp đồng phân phối giữa công
ty nước ngoài và thương nhân Việt Nam có chứa điều khoản không cạnh
tranh. Đây có thể là một cách để thương nhân nước ngoài chiếm lĩnh thị
trường Việt Nam bằng công sức của các bên nhận quyền địa phương.
Do những bất lợi trên mà Tòa án tại nhiều nước đặt ra các điều kiện hết sức
khắt khe để dung hòa các lợi ích đối lập, giữa một bên là sự cần thiết bảo vệ
bí quyết kinh doanh và một bên là quyền tự do lao động. Điều khoản không
cạnh tranh không những phải giới hạn trong không gian, trong thời gian, mà
còn phải được chứng minh bằng một lợi ích chính đáng cần bảo vệ. Trong
lĩnh vực lao động, ngoài các điều kiện trên, điều khoản không cạnh tranh còn
phải có đối trọng là một khoản tiền trả cho người lao động sau khi hợp đồng
chấm dứt.
Thật vậy, tại Pháp, ngay từ năm 1900, Tòa Tối cao Pháp đã đặt ra nguyên tắc
rằng “tự do kinh doanh và sản xuất chỉ có thể bị hạn chế bởi các thỏa thuận
hợp đồng nếu các thỏa thuận này không bao hàm một sự cấm tuyệt đối,
nghĩa là chúng phải giới hạn cả trong không gian và thời gian”
[22]
. Phạm vi

của khu vực địa lý này được thẩm phán xác định theo từng vụ việc. Cụ thể, nó
có thể là một thành phố, một tỉnh, một khu vực. Chẳng hạn, trong lĩnh vực lao
động, Tòa Tối cao Pháp đã công nhận một điều khoản không cạnh tranh cấm
một người đại diện thực hiện mọi hoạt động nghề nghiệp sau khi hợp đồng
chấm dứt trong một khoảng không gian bán kính 500 km của một thành
phố
[23]
. Trong một số vụ việc khác, Tòa Tối cao Pháp đã cho là hợp pháp các
điều khoản không cạnh tranh giới hạn trong một thành phố và ngoại ô
[24]
,
trong một quốc gia
[25]
, thậm chí trong lãnh thổ của Cộng đồng châu Âu
[26]
.
Như vậy, phạm vi không gian không tuyệt đối, mà nó tùy thuộc vào từng hoàn
cảnh cụ thể. Bản chất của loại hoạt động có liên quan và tuổi tác của người
có nghĩa vụ cũng là những nhân tố ảnh hưởng đến việc quyết định này
[27]
.
Bên cạnh việc giới hạn trong không gian, Tòa án Pháp còn tìm cách thu hẹp
giới hạn trong thời gian của các điều khoản không cạnh. Nếu như trước kia
các điều khoản không cạnh tranh có thời hạn vượt quá 2 năm
[28]
, 3 năm
[29]
,
thậm chí 30 năm
[30]

vẫn được coi là hợp pháp, thì hiện nay thời hạn của một
điều khoản như thế không thể vượt quá 1 năm khi hợp đồng chứa nó có ảnh
hưởng đến thương mại giữa các quốc gia thành viên của EU và có nội dung
hoặc hậu quả ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch tự do cạnh tranh nội khối.
Thật vậy, trong phán quyết Eras liên quan đến các hợp đồng chứa một điều
khoản không cạnh tranh cấm bên nhận quyền làm đại diện cho một đối thủ
cạnh tranh với bên nhượng quyền trong vòng ba năm kể từ khi chấm dứt hợp
đồng, Hội đồng cạnh tranh của Pháp đã cho rằng “bên nhượng quyền đã
không cung cấp được bất kỳ giấy tờ nào cho phép chứng minh rằng hoạt
động gây tranh chấp đòi hỏi một kỹ thuật đặc thù để bên nhận quyền bị ràng
buộc bởi một điều khoản không cạnh tranh có thời hạn 3 năm”
[31]
. Tương tự,
Tòa phúc thẩm Paris đã rút thời hạn của một điều khoản không cạnh tranh
từ 3 năm xuống 1 năm
[32]
.
Ngoài các điều kiện giới hạn trong không gian và thời gian, Tòa án Pháp còn
đặt thêm điều kiện theo đó điều khoản không cạnh tranh phải tương xứng
với lợi ích chính đáng cần bảo vệ có liên quan đến nội dung của hợp đồng
[33]
.
Nói cách khác, điều khoản không cạnh tranh phải được coi như một giải pháp
không thể thiếu để chống lại nguy cơ tiết lộ bí quyết kinh doanh. Điều kiện
này bao hàm hai nội dung: để được coi là hợp pháp, điều khoản không cạnh
tranh phải, một mặt hướng tới việc bảo vệ các “lợi ích chính đáng” và, mặt
khác, “tương xứng” với nội dung của hợp đồng chứa nó. Trong lĩnh vực lao
động, lợi ích chính đáng là bảo vệ bí mật kinh doanh khỏi việc sử dụng nó bởi
người lao động. Còn trong lĩnh vực phân phối hàng hóa, lợi ích mà bên
nhượng quyền tìm cách bảo vệ có thể là bí mật kinh doanh và/hoặc quyền

khai thác quan hệ khách hàng. Trong một bản án tuyên ngày 12/03/2002,
Tòa Tối cao Pháp đã tuyên bố vô hiệu một điều khoản không cạnh tranh cấm
bên nhận quyền hợp tác trực tiếp hoặc gián tiếp với một công ty kinh doanh
cùng mặt hàng trên toàn lãnh thổ của Cộng đồng châu Âu trong vòng 2 năm
với lý do điều khoản này “không tương xứng với nội dung của hợp đồng”
[34]
.
Tương tự, Tòa phúc thẩmMontpellier đã xử rằng do ngay từ khi chấm dứt
các quan hệ hợp đồng, công ty liên kết không còn được sử dụng các dấu hiệu
gắn kết khách hàng, nên phạm vi không gian của điều khoản không cạnh
tranh “bất tương xứng với nội dung của hợp đồng”
[35]
. Mới đây, trong một
phán quyết mang tính nguyên tắc, Tòa Tối cao pháp đã xét rằng “khi có hậu
quả cản trở tự do hành nghề của một người lao động, một cổ đông hoặc một
thành viên của công ty đã tuyển dụng anh ta, điều khoản không cạnh tranh
chỉ hợp pháp nếu nó không thể thiếu để bảo vệ các lợi ích chính đáng của
doanh nghiệp, được giới hạn trong không gian và trong thời gian, có tính đến
các đặc thù của công việc của người lao động, và công ty phải trả cho anh ta
một khoản tiền đối trọng với nghĩa vụ không cạnh tranh này”
[36]
. Phần lớn các
nước châu Âu cũng đặt ra điều kiện tương tự
[37]
. Đòi hỏi về đối trọng của
nghĩa vụ không cạnh tranh là một khoản tiền này một biện pháp bù trừ cho
tự do lao động bị xâm phạm của người có nghĩa vụ. Nó hợp lý về mặt xã hội
(bên có nghĩa vụ vẫn có tiền để sống), hà khắc về luật pháp (phải tuân theo
đồng thời nhiều điều kiện), và hiệu quả về thực tiễn (chỉ đưa vào hợp đồng
điều khoản không cạnh tranh khi thực sự cần thiết).

Trong lĩnh vực phân phối, nhà cung cấp có thể sử dụng các điều khoản bớt hà
khắc hơn, như chẳng hạn điều khoản “không gia nhập hệ thống cạnh tranh”.
Điều khoản này chỉ cấm bên nhận chuyển giao bí quyết kinh doanh tham gia
vào hệ thống của đối thủ cạnh tranh trong một khoảng thời gian (thường là
một năm) và trong một không gian nhất định (thường là một thành phố).
Anh ta vẫn có thể tiếp tục thực hiện công việc kinh doanh của mình sau khi
hợp đồng chấm dứt. Như vậy, điều khoản không gia nhập có nội dung hẹp
hơn và gây ra ít bất lợi hơn điều khoản không cạnh tranh mà vẫn ngăn chặn
được nguy cơ bí quyết kinh doanh rơi vào tay đối thủ cạnh tranh.
Như vậy, điều khoản bảo mật thông tin và điều khoản không cạnh tranh,
ngoài việc phải tuân thủ các quy định của BLDS, còn phải có nội dung, mục
đích rõ ràng và phải được giới hạn trong không gian và thời gian. Khi thỏa
mãn tất cả các điều kiện đó, các nghĩa vụ này sẽ phát huy tác dụng bảo
vệ bên có quyền khi hợp đồng chấm dứt. Trong thực tế chúng ta thấy hợp
đồng có thể chấm dứt theo cách thông thường, nghĩa là khi hợp đồng hết
hạn, hoặc khi các bên thống nhất thỏa thuận chấm dứt hợp đồng trước thời
hạn. Tuy nhiên, cũng có khi hợp đồng bị chấm dứt không theo cách thông
thường, chẳng hạn hợp đồng bị hủy bỏ khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng.
Lúc này câu hỏi đặt ra là liệu các nghĩa vụ hậu hợp đồng này có giá trị, hay
nói các khác bên có nghĩa vụ có tiếp tục phải tuân thủ nghĩa vụ bảo mật
thông tin và nghĩa vụ không cạnh tranh khi hợp đồng bị hủy bỏ hay không?
3. Hướng xử lý nghĩa vụ bảo mật thông tin và nghĩa vụ không cạnh
tranh khi hợp đồng bị hủy bỏ
Pháp luật thực định của Việt Nam cho phép các bên tự do thỏa thuận giao kết
cũng như phá bỏ giao kết. Thật vậy, khoản 1, điều 412 BLDS 2005 quy định:
“Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi
bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc
pháp luật có quy định”. Tương tự, theo điều 312 Luật thương mại 2005, hợp
đồng có thể bị hủy bỏ nếu “xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận
là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng”

[38]
. Ngoài ra, hợp đồng cũng có thể bị hủy bỏ,
mặc dù các bên không có quy định về điều kiện hủy bỏ hợp đồng, nếu một bên
“vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”
[39]
.
Về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng, khoản 3, điều 412 BLDS quy định rằng
khi bị huỷ bỏ thìhợp đồng “không có hiệu lực từ thời điểm giao kết ”. Theo
tinh thần của điều luật này, một hợp đồng bị hủy bỏ thì coi như chưa tồn tại
và các bên phải “hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận”. Nói cách khác, chế tài
hủy bỏ hợp đồng có giá trị hồi tố. Như vậy, các nghĩa vụ bảo mật thông tin và
không cạnh tranh không phát huy tác dụng vì chính bản thân hợp đồng chứa
chúng đã bị triệt tiêu như thể chưa bao giờ tồn tại. Điều này rõ ràng
rất bất lợi cho bên chuyển giao quyền sử dụng bí quyết kinh doanh.
Tuy nhiên, khảo sát một số văn bản luật chuyên ngành, chúng tôi thấy có một
số quy định cho phép một số nghĩa vụ tiếp tục tồn tại khi hợp đồng chứa
chúng bị hủy bỏ hoặc bị vô hiệu. Thật vậy, khoản 1, điều 312 và khoản 1, Luật
thương mại 2005, cho phép các bên quy định trong hợp đồng việc hủy bỏ một
phần hoặc toàn bộ hợp đồng và khoản 1, điều 314, cho phép các bên quy định
các quyền và nghĩa vụ có thể tiếp tục tồn tại sau khi hợp đồng bị hủy bỏ. Từ
các quy định này có thể suy ra rằng bên nhận chuyển giao bí quyết kinh
doanh vẫn phải tiếp tục chịu sự ràng buộc của điều khoản bảo mật và điều
khoản không cạnh tranh bất chấp việc hợp đồng bị hủy bỏ vì bất kỳ lý do nào,
nếu các bên đã quy định sự tiếp tục tồn tại của chúng khi hợp đồng bị hủy bỏ.
Tương tự, điểm b, khoản 1, điều 52 Bộ luật lao động 2012 buộc các bên “tiến
hành sửa đổi, bổ sung phần của hợp đồng lao động bị tuyên bố vô hiệu để phù
hợp với thỏa ước lao động tập thể hoặc pháp luật về lao động”. Như vậy, Bộ
luật lao động đã loại bỏ hiệu lực hồi tố của chế tài hợp đồng bị tuyên vô hiệu.
Nói cách khác, hợp đồng lao động vô hiệu không triệt tiêu các quyền và nghĩa
vụ mà các bên đã thực hiện đối với nhau và có thể không làm chấm dứt các

quyền và nghĩa vụ trong tương lai của các bên đối với nhau. Thiết nghĩ,
khi hợp đồng lao động bị vô hiệu không có hiệu lực hồi tố thì hợp đồng lao
động bị hủy bỏ cũng không thể có giá trị hồi tố, nghĩa là các quyền và nghĩa
vụ của các bên bị triệt tiêu như thể chưa bao giờ tồn tại. Nói cách khác, khi
hợp đồng lao động chứa điều khoản không cạnh tranh bị hủy bỏ, thì điều
khoản này vẫn có thể tiếp tục tồn tại độc lập với hợp đồng chứa nó.
Những quy định này là cần thiết cho việc bảo vệ bí mật kinh doanh vốn là
thông tin không thể thu hồi được. Khi việc thực hiện hợp đồng, dù không
đúng theo các quy định mà các bên đã thỏa thuận, đã làm phát sinh việc
chuyển giao thông tin, thì việc áp dụng các quy định về bảo mật theo thỏa
thuận của các bên cho giai đoạn hậu hợp đồng là phương thức bảo vệ bí mật
kinh doanh tốt nhất. Theo chúng tôi, sẽ là hợp lý nếu bên nhận chuyển giao bí
quyết kinh doanh phải tiếp tục tôn trọng cam kết giữ bí mật đối với các thông
tin được chuyển giao, ngay cả khi hợp đồng bị hủy bỏ. Hơn nữa, điều khoản
bảo mật thông tin không nhằm mục đích cấm người có nghĩa vụ thực hiện
một hành vi cạnh tranh, mà chỉ buộc anh ta phải giữ im lặng. Vì vậy nó không
ảnh hưởng đến lợi ích của người có nghĩa vụ.
Tuy nhiên, đối với nghĩa vụ không cạnh tranh, chúng tôi cho rằng sự tiếp tục
tồn tại của nghĩa vụ này có thể sẽ có hậu quả phi lý trong trường hợp hợp
đồng bị hủy do lỗi của bên chuyển giao bí mật kinh doanh. Chẳng hạn, nếu
hợp đồng bị hủy vì bên chuyển giao không chuyển giao đầy đủ bí mật kinh
doanh của mình cho bên nhận chuyển giao, hoặc bản thân bí mật kinh doanh
được chuyển giao không còn bí mật hoặc không có khả năng tạo lợi thế cạnh
tranh cho bên nhận chuyển giao, thì khi đó điều khoản không cạnh tranh sẽ
mất đi các căn cứ tồn tại của nó. Bên nhận chuyển giao có thể yêu cầu hủy
hợp đồng để thu hồi lại các khoản tiền đã trả cho bên chuyển giao. Trong giả
thiết này, mặc dù điều khoản không cạnh tranh đã được thành lập hợp pháp
và có chức năng điều chỉnh quan hệ của các bên trong giai đoạn hậu hợp
đồng, nhưng sẽ là phi lý nếu cho phép nó tồn tại độc lập với hợp đồng bị hủy
bỏ. Chúng tôi cho rằng cần phải xem hợp đồng bị hủy do lỗi của bên nào

trong hợp đồng để quyết định giữ hay hủy điều khoản không cạnh tranh. Nếu
hợp đồng bị hủy do lỗi của người có quyền, thì không có lý do gì để duy trì
điều khoản không cạnh tranh. Nguyên tắc hồi tố cần phải được áp dụng và
điều khoản không cạnh tranh sẽ bị hủy cùng với hợp đồng.
Kết luận
Điều khoản bảo mật thông tin mặc dù không gây nhiều bất lợi cho người có
nghĩa vụ nhưng có thể có hậu quả bưng bít thông tin, và như vậy cản trở tự
do cạnh tranh. Trên thực tế, bên có quyền thường quy định buộc bên có nghĩa
vụ giữ bí mật tất cả các thông tin được cung cấp, mặc dù không phải thông
tin nào cũng cấu thành bí quyết kinh doanh-đối tượng của nghĩa vụ bảo mật.
Khi đó, điều khoản bảo mật thông tin có thể được sử dụng như là một cái “cớ”
để trừng phạt bên có nghĩa vụ. Chúng tôi cho rằng một điều khoản bảo mật
thông tin cấm tuyệt đối người có nghĩa vụ tiết lộ bất kỳ thông tin nào phải bị
coi là trái với các nguyên tắc Hiến định, và như vậy vô hiệu.
Tương tự, điều khoản không cạnh tranh sau khi hợp đồng chấm dứt có bản
chất xâm hại tự do lao động, cũng là một nguyên tắc Hiến định. Nó cần thiết
để bảo vệ bí mật kinh doanh của người có quyền nhưng có thể có hậu quả rất
bất lợi cho người có nghĩa vụ. Mặc dù các bên trong hợp đồng có quyền tự do
giao kết, nhưng việc giao kết không được trái với pháp luật. Chúng ta không
nên chấp nhận các điều khoản không cạnh tranh có phạm vi địa lý quá rộng
và thời hạn quá dài. Chúng tôi cho rằng chỉ nên cho phép quy định nghĩa vụ
không cạnh tranh sau khi hợp đồng chấm dứt trong những lĩnh vực mà bí
quyết kinh doanh đóng vai trò sống còn đối với doanh nghiệp. Nhưng cần đặt
ra các điều kiện nghiêm ngặt cho hiệu lực của điều khoản không cạnh tranh
vì nó đi ngược với các giá trị Hiến định. Việc giới hạn hiệu lực của điều khoản
không cạnh tranh một năm sau khi hợp đồng chấm dứt ở châu Âu là một
kinh nghiệm đáng để chúng ta tham khảo. Trong lĩnh vực lao động, bên có
quyền cấm bên có nghĩa vụ thực hiện các công việc cạnh tranh với mình sau
khi hợp đồng chấm dứt phải có nghĩa vụ đền bù cho người có nghĩa vụ một
khoản tiền. Việc xác định phạm vi địa lý và thời hạn hợp lý thuộc thẩm quyền

của Tòa án. Cơ quan giải quyết tranh chấp cũng cần phải có cơ chế chống lạm
quyền để bảo vệ người có nghĩa vụ, thường là bên yếu thế trong hợp đồng.
Khi xem xét bên có quyền có lạm quyền của mình hay không, thẩm phán có
thể dựa vào một loạt các tiêu chí như giới hạn trong không gian, trong thời
gian và mục đích của nghĩa vụ không cạnh tranh.
Khi điều khoản bảo mật thông tin và không cạnh tranh đã thỏa mãn các điều
kiện khắt khe ở trên thì chúng ta nên thừa nhận giá trị độc lập tương đối của
chúng so với hợp đồng. Chúng vẫn có giá trị ràng buộc ngay cả khi hợp đồng
bị hủy bỏ nếu việc hủy bỏ này bắt nguồn từ lỗi của bên có nghĩa vụ.
Danh mục tài liệu tham khảo
Tài liệu bằng tiếng Việt:
1. Đỗ Văn Đại, Luật Nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Bản án và bình luận bản án, Nxb Chính trị Quốc gia, 2012, tập 1.
2. Nguyễn Ngọc Điện, Hoàn thiện chế độ pháp lý về xác lập hợp đồng, tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 156/2009.
3. Hoàng Thị Thanh Thuý, Điều khoản bảo mật thông tin và điều khoản cấm
cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, tạp chí Luật học, số
2/2011.
Tài liệu bằng tiếng nước ngoài:
4. C. CASEAU-ROCHE, Les obligations postcontractuelles, Paris I, 2001.
5. F. DE LY, Les clauses de non-concurrence dans les contrats internationaux,
tạp chí Droit des affaires internationales, số 4, 2006.
6. G. CORNU, Vocabulaire juridique, Nxb PUF, 1992.
7. M. BÜHLER, Les clauses de confidentialité dans les contrats internationaux,
tạp chí Droit des affaires internationales, 2002.
8. M E. ANDRÉ, M P. DUMONT và P. GRIGNON, L’après contrat, Nxb Francis
Lefèbre, 2005.
9. M. FONTAINE, Les contrats internationaux à long terme, Mél. R. HOUIN,
Nxb Dalloz, 1985.
10. Ngô Quốc Chiến, Le contrat de franchise. Le droit français et le droit

vietnamien, Tours, 2012.
11. P. STOF
TS, Khoa Luật, Đại học Ngoại thương.
Ngoại trừ một số nghĩa vụ luật định, như nghĩa vụ bảo hành, bảo trì, bảo
hiểm…
Về các nghĩa vụ tiếp tục tồn tại sau khi hợp đồng chấm dứt, xem chẳng
hạn: M. FONTAINE, Les contrats internationaux à long terme (Hợp đồng quốc
tế dài hạn), Mél. R. HOUIN, Nxb Dalloz, 1985, tr. 273.
C. CASEAU-ROCHE, Les obligations postcontractuelles (Các nghĩa vụ hậu hợp
đồng), Luận án tiến sỹ, Paris I, 2001.
Ngô Quốc Chiến, Le contrat de franchise. Le droit français et le droit
vietnamien (Hợp đồng nhượng quyền thương mại, so sánh pháp luật Việt
Nam và pháp luật Pháp), luận án tiến sỹ, Tours, 2012, tr. 322 và tiếp theo.
Hay còn gọi là nghĩa vụ không thực hiện công việc. Xem: Đỗ Văn Đại, Luật
Nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Bản án và bình luận
bản án, Nxb Chính trị Quốc gia, 2012, tập 1, tr. 295 và tiếp theo.
Khoản 4, điều 289, Luật Thương mại năm 2005.
Pháp luật thực định của Việt Nam sử dụng hai khái niệm là “bí mật kinh
doanh” (Luật sở hữu trí tuệ 2005 và Luật cạnh tranh 2004) và “bí quyết kinh
doanh” (Luật thương mại 2005). Mặc dù khác nhau về tên gọi, nhưng hai
khái niệm này dường như là một vì chúng đều là các thông tin bí mật có khả
năng tạo lợi thế kinh doanh cho người sử dụng chúng. Khảo sát pháp luật
của Pháp và Liên minh châu Âu chúng tôi cũng thấy hai khái niệm này được
sử dụng thay thế cho nhau. Tuy nhiên, khái niệm “bí mật kinh doanh” ít được
sử dụng hơn so với khái niệm “bí quyết kinh doanh” (know-how). Trong bài
viết này, tác giả sử dụng cả hai khái niệm để đảm bảo tính thống nhất với các
văn bản luật được trích dẫn.
Hoàng Thị Thanh Thuý, Điều khoản bảo mật thông tin và điều khoản cấm
cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền thương mại, Tạp chí Luật học, số
2/2011, tr. 43 – 50.

Khoản 23, điều 4, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
Khoản 10, điều 3, Luật cạnh tranh năm 2004.
Về vấn đề này, xem: M. BÜHLER, Les clauses de confidentialité dans les
contrats internationaux (Điều khoản bảo mật trong các hợp đồng thương
mại quốc tế”, tạp chí Luật kinh doanh quốc tế, RDAI, 2002, tr. 359 và tiếp
theo.
Về vấn đề này, xem: P. STOFFEL-MUNK, L’abus dans le contrat. Essai d’une
théorie (Lý thuyết về lạm quyền trong hợp đồng), luận án tiến sỹ Aix-
Marseille III, 1999, Nxb LGDJ, 2000.
Cass. com., 27/01/1998, pourvoi n° 96-10694, D. aff. 1998, tr. 836.
Quyết định ngày 13/07/1987, Computerland, Công báo Châu Âu 10/08/1987,
n° L. 222, point 23 ii).
Điều 69, Hiến pháp 1992.
G. CORNU, Vocabulaire juridique (Từ điển thuật ngữ pháp lý), Nxb PUF, 1992,
tr. 446.
Điều 55, Hiến pháp năm 1992.
Bản án số 09/2010/LĐ-ST ngày 10/12/2010.
Quyền tự do lao động này cũng được nhắc lại tại điều 10 của Bộ luật lao động
2012.
Đỗ Văn Đại, sđd, tr. 307.
Xem chẳng hạn: Nguyễn Ngọc Điện, Hoàn thiện chế độ pháp lý về xác lập hợp
đồng, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 156, 2009. Theo tác giả, vật đánh đổi sẽ
được là một lời hứa về một việc sẽ được thực hiện trong tương lai, ví dụ, sẽ
trả một số tiền để đổi lấy một tài sản sẽ được giao. Vật đánh đổi được là vật
được giao, việc được thực hiện để đổi lấy một vật, một việc khác.
Cass. req. 2/07/1900, DP 1901, 1, tr. 294.
Cass. com., 20/031973, pourvoi n° 72-10760, Bull. civ. n° 127,
Cass. com., 18/12/1979, pourvoi n° 78-11393, JCP 1980, tr. 88.
Cass. com., 7/11/1984, pourvoi n° 82-16882, Bull. 1984 IV n° 302 ;D. 1985, tr.
204.

Cass. com., 27/10/1981, pourvoi n° 79-15261, Bull. civ. n° 371 ; D. 1982, IR, tr.
204.
M E. ANDRÉ, M P. DUMONT et P. GRIGNON, L’après contrat (Hậu hợp đồng),
Nxb Francis Lefèbre 2005, tr. 161.
Cass. com, 12/1/1988, pourvoi n° 86-12838,Bull. 1988 IV n° 31, tr. 21.
CA Paris, 29/2/1996, Juris-Data n° 020858.
Cass. com., 20 févr. 1979, D. 1979, tr. 248.
Cons., conc., 18/6/1997, arrêt Eras, D. 1998, Som. Com. tr. 223, obs. Y. SERRA.
CA Paris, 26/6/1997, D. affaires 1997, tr. 1185.
Cass. com., 14/11/1995, pourvoi n° 93-16299,D. 1997. Somm. 59, obs. D.
FERRIER.
Cass. com., 12/3/2002, pourvoi n°99-14762, ; D. 2003, tr. 902, obs. Y. AUGUET.
CA Montpellier, 21/1/2003, Cah. dr. entr. n° 5, tr. 43.
Cass. com., 15/32011, pourvoi n° 10-13824.
Như chẳng hạn tại Bỉ, Hà Lan, Phần Lan, Đức, Italy và Thụy Sỹ. Xem: F. DE LY,
Les clauses de non-concurrence dans les contrats internationaux (Điều khoản
không cạnh tranh trong hợp đồng thương mại quốc tế), tạp chí Luật Kinh
doanh quốc tế, RDAI, số 4, 2006, tr. 441.
Điểm a, khoản 4, điều 312 Luật thương mại 2005.
Điểm b, khoản 4, điều 312 Luật thương mại 2005.

×