Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tạp chí kinh tế đối ngoại đề tài CÁC KÊNH TRUYỀN DẪN TỪ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ĐẾN SỤP ĐỔ THƯƠNG MẠI TOÀN CẦU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.91 KB, 14 trang )

CÁC KÊNH TRUYỀN DẪN TỪ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ ĐẾN SỤP ĐỔ
THƯƠNG MẠI TOÀN CẦU
Các kênh truyền dẫn từ khủng hoảng kinh tế đến sụp đổ
thương mại toàn cầu
ThS. Vũ Huyền Phương và Đỗ Ngọc Kiên
Tạp chí KTĐN số 50, 2012
Năm 2008, thế giới chứng kiến cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu chưa từng có trong lịch sử. Bắt nguồn từ lĩnh vực tài
chính, cuộc khủng hoảng lan sang lĩnh vực kinh tế và ảnh hưởng
đến thương mại quốc tế. Cho đến nay, cuộc khủng hoảng dường
như đã chạm đáy nhưng con đường phục hồi cho kinh tế thế giới
nói chung và thương mại toàn cầu nói riêng vẫn chưa rõ ràng. Bài
viết bày nhằm nhìn lại các kênh truyền dẫn để cung cấp cơ sở để
đánh giá khả năng phục hồi trong những năm tới.
1. Sự sụp đổ thương mại toàn cầu
Về bản chất, cuộc khủng hoảng trên phạm vi toàn cầu vừa qua là
một cuộc khủng hoảng tài chính được truyền dẫn ra toàn thế giới
thông qua các kênh tài chính chứ không phải các kênh thương mại.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng đã ảnh hưởng sâu sắc đến thương
mại thế giới và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sụp đổ Thương
mại Toàn cầu (Great Trade Collapse) (Lee, 2010).
Thương mại quốc tế đã sụt giảm ở mức kỷ lục trong vòng hơn 70
năm qua thể hiện ở cả tính đột ngột về thời gian, dữ dội về mức độ
và đồng bộ về không gian. Theo Eaton Jonathan (2011), tỷ lệ
thương mại quốc tế trên GDP đã giảm tới 30%. Theo cơ sở dữ liệu
Thống kê Thương mại quốc tế của WTO (xem hình 1), giai đoạn
2008 – 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, thương mại
quốc tế về hàng hóa đã giảm 22,6% về giá trị và 12,2% theo khối
lượng trong khi sản lượng GDP thế giới chỉ giảm 2.3%.
Hình 1: Tỷ lệ thay đổi khối lượng hàng hóa xuất khẩu toàn
cầu, 1949-2010


Đơn vị: %
Nguồn: WTO
Hình 1 cho thấy độ co giãn của thương mại toàn cầu theo thu
nhập
[1]
ở vào mức 5.3, cao hơn rất nhiều so vớimức tiêu chuẩn
trong phạm vi từ 2 đến 3 trong suốt nhiều năm qua. Amiti và
Weinstein (2009)chỉ ra rằng con số này lớn hơn rất nhiều so với kết
quả ước tính của tất cả các mô hình kinh tế vĩ mô trong thương mại
quốc tế đang được sử dụng hiện nay. Con số này cũng lớn hơn nhiều
so với mức kỷ lục 4.5 trong cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam
Á 1997-1998. (Freund, 2009).
Hình 2 cho thấy sự sụp đổ thương mại toàn cầu diễn ra ở tất cả các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu à hầu hết đều đi kèm với sự giảm
sút trong GDP thực tế.
Hình 2: Khối lượng thương mại & GDP thực tế 2008:Q2-2009:Q2
(Tỷ lệ % thay đổi)
% thayđổi GDP thựctế

Ghi chú: AUS- Úc, AUT- Áo, BRA-Brasil, BEL-Bỉ, CAN-Canada, CZE:
Séc, DEN: Đan Mạch, ESP-Tây Ban Nha, FIN-Phần Lan, FRA-Pháp,
GBR-Anh, GER-Đức, GRE-Hy Lạp, HUN-Hungari, IND-Ấn Độ, ISL-
Iceland, ITA-Ý, JPN-Nhật, KOR-Hàn Quốc, MEX-Mexico, NED-Hà Lan,
NZL- New Zealand, NOR-Nauy, POL-Ba Lan, POR-Bồ Đào Nha, SVK-
Slovakia, SUI-Thụy Sĩ, TUR-Thổ Nhĩ Kỳ, USA-Mỹ
Nguồn: Crowley và Xi 2011
Mặc dù từ cuối năm 2009 thương mại quốc tế đã phục hồi nhanh
hơn kỳ vọng, khối lượng thương mại hàng hóa tính theo thị giá
đồng USD, bao gồm cả hiệu ứng từ việc giá cả hàng hóa cơ bản
giảm sút do cuộc khủng hoảng tài chính, vẫn thấp hơn mức trước

khủng hoảng 8%(World Bank, 2011). World Bank cũng nhấn mạnh
rằng dù có nhiều tín hiệu lạc quan nhưng mức tăng trưởng của
thương mại quốc tế vẫn thấp hơn đáng kể so với xu hướng cân
bằng dài hạn và chưa thực sự ổn định ở cân bằng mới. Kết quả là
tại hội nghị G20 ở London tháng 4/2009, để đối phó với khủng
hoảng tài chính toàn cầu, các nước G20 đã đưa ra hai gói cam kết
trực tiếp liên quan đến thương mại quốc tế: một là đảm bảo ít nhất
250 tỷ USD cho tài trợ thương mại trong hai năm tiếp theo và hai là
tái khẳng định việc cần thiết phải tránh dựng lên các hàng rào bảo
hộ thương mại.
2. Các kênhtruyền dẫn
Thứ nhất, con đường truyền dẫn chính để cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu ảnh hưởng tới thương mại quốc tế là thông qua sự
giảm sút của cầu hàng hóa quốc tế, đặc biệt là ở các nước phát
triển. Khi khủng hoảng tài chính xảy ra, nhu cầu đối với các hàng
hóa tiêu thụ lâu bền, trang thiết bị đầu tư sẽ bị ảnh hưởng lớn. Chi
tiêu cho các loại hàng hóa này sẽ bị trì hoãn do các khó khăn về
thanh khoản cũng như do việc người tiêu dùng chuyển sang chiến
lược “quan sát và chờ đợi” khi bối cảnh tương lai trở nên không
chắc chắn. Baldwin và Tagioni (2009) lập luận rằng phản ứng
“quan sát và chờ đợi” là nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút mạnh mẽ
và đồng bộ trên phạm vi thế giới đối với cầu về hàng hóa và dịch vụ
không thiết yếu. Theo World Bank (2011), trong khi xuất khẩu hàng
hóa phi lâu bền giảm 20% trong suốt cuộc khủng hoảng thì xuất
khẩu những hàng hóa tiêu thụ lâu bền và máy móc thiết bị giảm tới
30%. Để chứng thực nhận định này, Eaton và đồng sự (2011)
đã xây dựng một mô hình lý thuyết thương mại quốc tế có cấu trúc
trong điều kiện cân bằng tổng quát và chỉ ra rằng về mặt thực
nghiệm sự giảm sút mạnh mẽ trong nhu cầu của các hàng hóa
thương mại có thể giải thích tới 80% sự sụp đổ của thương mại

quốc tế. Một ước lượng khác của World Bank cũng cho thấy từ 85%
đến 90% sự sụt giảm trong thương mại quốc tế là do sự sụp giảm
trong nhu cầu quốc tế.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng tài chính có thể truyền dẫn đến thương
mại quốc tế thông qua tài trợ thương mại. Lập luận này bắt đầu từ
một thực tế là thương mại quốc tế hiện đại phụ thuộc chặt chẽ vào
tài trợ thương mại để trang trải cho các chi tiêu liên quan tới
thương mại cũng như để bảo hiểm trước các rủi ro liên quan tới
thương mại (WTO, 2009). Theo nghĩa hẹp, tài trợ thương mại bao
gồm việc sử dụng tín dụng thương mại như tài sản thế chấp
và/hoặc mua bảo hiểm đối với rủi ro không thu hồi được. Chẳng
hạn, bằng việc sử dụng tín dụng thư, ngân hàng nội địa của người
nhập khẩu sẵn sàng chi trả cho người xuất khẩu, thông qua ngân
hàng nước ngoài của người xuất khẩu, khi hàng hóa được vận
chuyển hoặc được giao cho người nhập khẩu. Về nguyên tắc, ngân
hàng của người nhập khẩu bảo đảm việc trả tiền cho người xuất
khẩu và cả các rủi ro đối với việc người nhập khẩu không trả tiền.
Sử dụng tín dụng thư như phương tiện thế chấp, người xuất khẩu
thông thường sẽ thu được một khoản vay dưới dạng vốn lưu động
từ ngân hàng của mình để trang trải chi phí sản xuất. Nếu ngân
hàng của người nhập khẩu gặp khó khăn, ngân hàng của người
xuất khẩu sẽ không chấp nhận tín dụng thư do ngân hàng của
người nhập khẩu phát hành. Nói cách khác, ngân hàng của người
xuất khẩu sẽ không sẵn lòng cung cấp cả vốn lưu động lẫn cam kết
trả tiền cho người xuất khẩu. Việc các thị trường cho vay liên ngân
hàng gặp khốn đốn trong cuộc khủng hoảng tài chính có lẽ đã làm
giảm đáng kể khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng, và do
đó ảnh hưởng mạnh mẽ tới người xuất khẩu và tới hoạt động xuất
khẩu. Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, các khoản tài trợ
thương mại của ngân hàng trở lên khan hiếm và chi phí của hoạt

động này tăng lên mạnh mẽ bởi vì chi phí vay mượn cao hơn trên
thị trường ngân hàng đã tự động chuyển thành mức chi phí cao
hơn cho các hợp đồng tài trợ thương mại.
Shelburne (2010) đã kiểm định kênh truyền dẫn này bằng cách chỉ
ra rằng các ngành kinh tế liên quan nhiều đến thương mại cũng là
các ngành kinh tế liên quan nhiều đến nhiều tín dụng, chẳng hạn
như các ngành sản xuất hàng hóa tiêu dùng lâu bền và vật tư trang
thiết bị. Chor và Madova (2011) đã chỉ ra sự giảm sút trong xuất
khẩu sang Mỹ của các nước có thị trường tín dụng chặt chẽ. Điều
này khẳng định điều kiện tín dụng là một yếu tố quan trọng đối với
nhập khẩu. Ahn và đồng sự (2011) nhận thấy rằng những hàng hóa
nhạy cảm nhất với tài trợ thương mại cũng là những hàng hóa
tăng giá mạnh nhất. Crowley và Luo (2011) cũng nhận xét rằng
trong giai đoạn khủng hoảng, nhu cầu đối với các phương thức
thanh toán an toàn hơn đã tăng lên. Tất cả những điều này đều
hàm ý rằng chi phí cho hàng hóa thương mại đã tăng lên trên phạm
vi toàn thế giới.
Kênh truyền dẫn thứ ba mà cuộc khủng hoảng tài chính ảnh hưởng
tới thương mại quốc tế là thông qua sự sụp đổ của chuỗi liên kết
dọc. Về cơ bản, lập luận này cho rằng, các hàng hóa đều được sản
xuất trong một chuỗi cung ứng toàn cầu, vì thế, trong quá trình sản
xuất, hàng hóa có thể đi qua biên giới vài lần trước khi được tiêu
dùng. Khi nhu cầu đối với một bộ phận trong chuỗi suy giảm, toàn
bộ chuỗi sẽ bị phá vỡ và toàn bộ dòng thương mại liên quan bị ảnh
hưởng. Lepchenko và đồng sự (2009) đã đo lường các liên kết đầu
vào trung gian ở các phân ngành của Hoa Kỳ và tìm thấy một số
bằng chứng ủng hộ giả thuyết này. Họ kết luận rằng, thương mại
giảm mạnh hơn ở những ngành sử dụng nhiều đầu vào trung gian
hơn. Ngược lại, Lee (2010) nhận thấy rằng giả thuyết này không
đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích sự suy giảm của xuất

khẩu Hàn Quốc.
Cuối cùng, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã dẫn đến sự trở
lại của chủ nghĩa bảo hộ với hàng loạt các biện pháp hạn chế
thương mại dưới nhiều hình thức khác nhau. Theo thống kê của
nhóm Cảnh báo thương mại toàn cầu (Global Trade Alert), trong
khoảng thời gian từ tháng 11/2008 đến 11/2010 đã có 692 biện
pháp hạn chế thương mại được áp dụng trên phạm vi toàn cầu. Kể
từ năm 2009, mỗi quý lại có từ 100 đến 134 rào cản thương mại
được dựng lên. Hầu hết các rào cản thương mại này được các quốc
gia trong nhóm G20 áp dụng. Gregory và đồng sự (2010) đã chứng
mình rằng các biện pháp hạn chế thương mại đã có ảnh hưởng
nghiêm trọng đến thương mại quốc tế trong thời gian khủng
hoảng. Tuy nhiên những biện pháp này chỉ hướng tới một bộ phận
nhỏ của thương mại. Các kết quả ước lượng của họ cho thấy các
biện pháp hạn chế thương mại chỉ bóp méo thương mại quốc tế từ
0.2 đến 0.7 %.
Kết luận
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã dẫn đến sự sụt giảm
mang tính đồng bộ của thương mại quốc tế. Các kênh truyền dẫn từ
khủng hoảng tài chính tới sụt giảm thương mại bao gồm sự giảm
sút của nhu cầu quốc tế, việc thắt chặt tài trợ thương mại, sự đổ vỡ
của chuỗi liên kết dọc và xu hướng gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ.
Điều này buộc chúng ta phải nhận thức rõ ràng rằng giải quyết các
hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu không chỉ giới
hạn trong các tổ chức tài chính quốc tế, các bộ tài chính và các
ngân hàng trung ương mà bao gồm cả các tổ chức thương mại như
WTO, và các cơ quan thương mại. Ngược lại, giải quyết các vấn đề
liên quan tới thương mại quốc tế cần sự chia sẻ trách nhiệm với các
tổ chức và cơ quan tài chính.
Bối cảnh thương mại quốc tế sau cuộc khủng hoảng cũng đặt các

nhà hoạch định chính sách trong mối quan hệ chặt chẽ như vậy
giữa tài chính quốc tế và thương mại quốc tế: đối phó với mất cân
bằng thương mại toàn cầu cần được đặt trong mối quan hệ tới việc
giải quyết vấn đề dòng vốn từ các quốc gia nới lỏng tiền tệ đang
ngày càng tràn sang các quốc gia đang phát triển. Nếu như vấn đề
nợ công ở châu Âu khiến chúng ta phải nhìn lại sự đồng bộ cần
thiết của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ thì có lẽ Sự sụp
đổ Thương mại Toàn cầu nên được xem là một lời nhắc nhở trong
sự nhất quán hoạch định chính sách đối với tài chính và thương
mại quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahn Jaebin, Amiti Mary and Weinstein E. David 2011. “Trade
Finance and Great Trade Collapse.”American Economic
Review: Papers & Proceedings 2011, 101:3, 208-302
2. Baldwin Richard and Taglioni Daria 2009. “The Great Trade
Collapse and trade imbalances”. VoxEU. Available
at />3. Baldwin Richard (editor) 2009. The Great Trade Collapse:
Causes, Consequences and Prospects. VoxEU.org
4. Chor Davin and Manova Kalina 2011. “Off the Cliff and Back?
Credit conditions and International Trade during the Global
Financial Crisis.” NBER Working Paper 16174
5. Eaton Jonathan, Kortum Samuel, Neiman Brent and Romalis
John 2011. “Trade and the global recession.” NBER working
paper 16666
6. Freund Caroline 2009. “Demystifying the collapse in trade.”
VoxEU available at />q=node/3731
7. Gregory Rob, Christian Henn, Brad McDonald and Mika Saito
2010. “Trade and the Crisis: Protect or Recover”. IMF Staff
Position Note No. 2010/07
8. Levchenko A. Andrei, Lewis T. Logan and Tesar L. Linda 2010.

“The collapse of international trade during 2008-2009: In
search of the smoking gun”. NBER Working Paper 16006
9. Lee Hangyu 2010. “The great Trade Collapse and Contraction
of Exports in Korea during the Global Crisis”. Working paper
on Conference on Global Economic Crisis: Impacts,
Transmission and Recovery. Aug. 2010
10.Shelburne Robert 2010. “The Global Financial Crisis and Its
impact on Trade: The World and the European Emerging
Economies.” Available
at />11.World Bank 2011. Global economic prospects, navigating
strong currents, January 2011
12.WTO 2009. World Trade Report: Trade Policy Commitments
and Contingency Measures
Độ co giãn của thương mại toàn cầu theo thu nhập là phần trăm
thay đổi của thương mại khi GDP thay đổi 1%

×