LỜI MỞ ĐẦU
Liên kết, hợp tác và mở rộng quan hệ quốc tế là xu thế tất yếu của hầu hết các
quốc gia trên thế giới hiện nay. Các mối quan hệ được xây dưng trên cơ sở những điều
ước, thoả hiệp giữa các quốc gia đó với nhau và được điều chỉnh bằng pháp luật quốc tế
do chính các quốc gia đó xây dựng lên và đảm bảo được thực hiện. Tuy nhiên, trong
tình hình hiện tại quan hệ quốc tế đang có nhiều diễn biến phức tạp. Tranh chấp, xung
đột và các hành vi vi phạm luật quốc tế xảy ra rất nhiều. Giải quyết các tranh chấp, xử
lý các hành vi vi phạm, các hành vi gây thiệt hại như thế nào là vấn đề hết sức quan
trọng. Bởi các quan hệ trong luật quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống chính trị,
kinh tế, an ninh của chủ thể tham gia quan hệ đó đồng thời cũng ảnh hưởng rất lớn đến
tình hình chung của toàn thế giới.
Hành vi vi phạm pháp luật quốc tế sẽ bị xử lý như thế nào, hành vi gây thiệt hại
cho các chủ thể của luật quốc tế thì sẽ bồi thường ra sao? Các chủ thể bị vi phạm, thiệt
hại sẽ có những quyền gì, được phép hành động như thế nào cho đúng luật quốc tế?
v.v…Chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế trong luật quốc tế đã được
đặt ra để giải quyết các vấn đề đó nhằm đảm bảo sự tuân thủ các quy phạm pháp luật
quốc tế, bảo vệ và khôi phục quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể khi bị xâm hại
và lợi ích của cộng đồng quốc tế. Trong phạm vi bài viết này nhóm sẽ tập trung làm rõ
về trách nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế trong luật quốc tế, cách phân biệt trách
nhiệm pháp lý quốc tế và cưỡng chế pháp lý quốc tế đồng thời nêu ra thực tiễn áp dụng
các quy định về trách nhiệm pháp lý và cưỡng chế pháp lý trong luật quốc tế hiện nay.
SinhViên
Luật Quốc Tế Page 2
I. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUỐC TẾ
1. KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUỐC TẾ
1.1. Trách nhiệm pháp lý là gì?
Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi ( sự trừng phạt ) đối với chủ thể vi phạm
pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật,
được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật
phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được qui định ở chế tài
các quy phạm pháp luật.
1.2. Trách nhiệm pháp lý quốc tế là gì?
Trách nhiệm pháp lý quốc tế là hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể luật quốc tế
phải gánh chịu do việc vi phạm pháp luật quốc tế hay nghĩa vụ bồi thường gây thiệt hại
gây ra do hành vi không phải là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế nếu việc bồi thường
đó được quy định trong các điều ước quốc tế chuyên biệt.
Ví dụ: Khi Iraq xâm lược Kuwait, Liên Hợp Quốc đã ra lệnh cấm vận trừng
phạt bằng kinh tế vật chất sau đó là trừng phạt vũ trang để loại bỏ mối nguy hiểm cho
hòa bình an ninh thế giới.
1.3. Chủ thể của quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế:
Chủ thể quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế là chủ thể của luật quốc tế (quốc
gia, các tổ chức quốc tế liên chính phủ, chủ thể phái sinh, các dân tộc đang đấu tranh
giành độc lập và các tổ chức đặc biệt khác).
1.3.1. Quốc gia:
Quốc gia là chủ thể chủ yếu chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế vì quốc gia là chủ
thể chủ yếu của luật quốc tế. Quốc gia phải chịu trách nhiệm về những hành vi nhất
định của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, không phụ thuộc vào việc họ ở trong hay
ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Quốc gia phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với các hành vi vi phạm sau:
Thứ nhất: Hành vi của các cơ quan nhà nước của quốc gia (bao gồm: cơ quan
lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp):
Luật Quốc Tế Page 3
Quốc gia có thể gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi vi phạm pháp
luật quốc tế của cơ quan lập pháp (quốc hội, nghị viện…) được thể hiện dưới những
biểu hiện như:
Không ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để thực hiện một nghĩa vụ quốc
tế.
Ví dụ: Thành viện WTO phải có lộ trình giảm thuế mà Việt Nam không ban hành
các văn bản cần thiết quy định việc giảm thuế.
Ban hành các văn bản pháp luật trái với nghĩa vụ pháp lý quốc tế của quốc gia.
Ví dụ: Thành viên công ước quốc tế về chống phân biệt với phụ nữ mà lại ra văn
bản không cho phụ nữ tham gia vào công việc quản lý nhà nước.
Không hủy bỏ các văn bản trái với nghĩa vụ quốc tế.
Ví dụ: Nam Phi là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng pháp luật vẫn còn ghi
nhận việc phân biệt chủng tộc Apacthei vi phạm điều 55, khoản c, Hiến Chương Liên
Hợp Quốc. Việc Nam Phi không bải bỏ các quy định này là vi phạm pháp luật quốc tế.
Quốc gia có thể gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi vi phạm pháp
luật của cơ quan hành pháp (trung ương lẫn địa phương).
Quốc gia có thể gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi vi phạm pháp
luật quốc tế của cơ quan tư pháp như các hành vi sau:
- Ra một bản án sai trái với nghĩa vụ quốc tế.
- Ra một bản án sai trái xâm phạm bôi nhọ quyền và lợi ích của quốc gia hay tổ
chức công dân của quốc gia khác
- Từ chối xét xử
Thứ hai: Quốc gia có thể gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi vi
phạm pháp luật quốc tế của viên chức nhà nước khi họ thực hiện nhiệm vụ nhân danh
nhà nước hay trường hợp thực hiện vượt quá phạm vi thẩm quyền của mình.
Thứ ba: Quốc gia có thể gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi vi
phạm pháp luật quốc tế của công dân
Quốc gia phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với hành vi cá nhân là công
dân của quốc gia trong những trường hợp sau:
Việc ngăn chặn những hành vi đó là nghĩa vụ của quốc gia nhưng có cơ sở
khẳng định quốc gia đã không thực hiện.
Luật Quốc Tế Page 4
Ví dụ: Các phần tử quá kích ở Việt Nam biểu tình ném đá vào tòa đại sứ Hàn Quốc
thì Việt Nam có nghĩa vụ ngăn chặn hành vi này, bảo vệ an ninh khu vực trụ sở ngoại
giao và nhà của viên chức ngoại giao. Nếu Việt Nam không thực hiện nghĩa vụ trên thì
phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế.
Quốc gia đã không áp dụng các biện pháp cần thiết để trừng trị những kẻ
phạm tội.
Ví dụ: Việt Nam không xử phạt người xâm nhập Tòa đại sứ Hoa Kỳ.
Quốc gia đã không áp dụng các biện cần thiết để điều tra truy tố tội phạm.
Ví dụ: Việt Nam không tiến hành điều tra việc mất tài sản tại nhà ở của viên chức
ngoại giao.
Thứ tư: Quốc gia gánh chịu trách nhiệm pháp lý do hành vi vi phạm của tổ chức
quốc tế gây ra thiệt hại mà quốc gia là thành viên.
1.3.2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ:
Là một chủ thể của luật quốc tế, các tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng phải chịu
trách nhiệm về các hành vi vi phạm luật quốc tế cũng như có thể yêu cầu các quốc gia
khác bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh từ việc các tổ chức
quốc tế này vi phạm các nghĩa vụ quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế và
các nguồn luật khác. Bên cạnh đó, tổ chức quốc tế cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý
trong trường hợp do hành vi vi phạm của quốc gia là thành viên của tổ chức hay do
hành vi vi phạm của cơ quan thuộc tổ chức đó.
1.3.3 Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và các chủ thể đặc biệt khác
Cũng như các chủ thể trên, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và chủ thể
đặc biệt phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với những hành vi của các cơ quan,
cá nhân nhân danh dân tộc đó, chủ thể đó.
Ví dụ: Cơ quan của Vatican có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế thì Vatican
phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế.
2. PHÂN LOẠI TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUỐC TẾ:
2.1. Căn cứ vào thiệt hại xảy ra: Trách nhiệm pháp lý quốc tế bao gồm:
2.1.1. Trách nhiệm phi vật chất:
Thể loại phi vật chất là một dạng trách nhiệm pháp lý quốc tế, theo đó chủ thể vi
phạm luật quốc tế phải có nghĩa vụ đền bù thiệt hại về mặt tinh thần cho chủ thể luật
Luật Quốc Tế Page 5
quốc tế khác (chủ thể bị hại), và một số trường hợp, phải gánh chịu thiệt hại vật chất do
các biện pháp trả đũa hoặc trừng phạt mà một chủ thể áp dụng trên cơ sở quy định của
luật quốc tế. Trách nhiệm phi vật chất có thể áp dụng một trong ba hình thức truy cứu
trách nhiệm pháp lý quốc tế: Hình thức đáp ứng đòi hỏi của bên bị hại; hình thức trả
đũa và hình thức trừng phạt.
Làm thỏa mãn yêu cầu của bên bị hại:
Là một hình thức thực hiện trách nhiệm phi vật chất như xin chia buồn, thông
cảm chính thức hay xin lỗi, cam kết không tái phạm, long trọng tuyên bố chính thức
thừa nhận việc vi phạm, ban hành văn bản pháp luật ngăn ngừa vi phạm và xét xử
nghiêm minh các cá nhân vi phạm hoặc có thể bồi thường một phần nhỏ thiệt hại về
danh nghĩa.
Trả đũa :
Là hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế do bên bị hại tiến hành nhằm
mục đích trừng phạt những vi phạm pháp luật quốc tế, thực hiện thông qua hành vi đáp
trả một cách tương xứng đối với các hành vi vi phạm trên cơ sở luật quốc tế.
Trừng phạt quốc tế ( chế tài quốc tế )
Là hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế mang tính ngiêm khắc nhất,
được áp dụng với các vi phạm luật quốc tế nghiêm trọng và chỉ được tiến hành mang
tính chất tập thể. Hình thức trừng phạt thường được thực hiện trong khuôn khổ của Liên
Hợp Quốc trên cơ sở của Hội đồng bảo an nhằm áp dụng biện pháp trừng phạt đối với
quốc gia vi phạm hòa bình hoặc đe dọa hòa bình. Được thực hiện qua ba phương thức:
+ Trừng phạt phi vũ trang có thể là : cắt đứt một phần hoặc toàn bộ quan hệ
ngoại giao; cắt đứt giao thông, liên lạc như cấm vận hàng hải, hàng không, khai trừ khỏi
các tổ chức quốc tế , bao vây, phong tỏa, cấm vận kinh tế…
+ Trừng phạt bằng vũ trang là việc hội đồng bảo an quyết định sử dụng lực
lượng hải, lục, không quân nhằm khôi phục lại hòa bình và an ninh quốc tế.
+ Trừng phạt bằng cách hạn chế chủ quyền như chiếm đóng một phần lãnh thổ,
hạn chế quyền có lực lượng vũ trang; áp đặt chế độ kiểm soát quốc tế.
Ví dụ: Sau thế chiến thứ hai, phe Đồng minh đã phân chia lãnh thổ Đức, không
cho Đức, Ý, Nhật thành lập lực lượng vũ trang đưa quân ra nước ngoài.
2.1.2. Trách nhiệm vật chất :
Luật Quốc Tế Page 6
Thể loại vật chất của trách nhiệm pháp lý quốc tế là một dạng trách nhiệm pháp
lý quốc tế, theo đó chủ thể vi phạm pháp luật quốc tế phải có nghĩa vụ đền bù về mặt
vật chất cho chủ thể bị hại.
Thể loại vật chất xuất hiện khi có các yếu tố cấu thành vi phạm là có hành vi vi
phạm pháp luật quốc tế; có thiệt hại vật chất trên thực tế; có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi vi phạm với thiệt hại vật chất xảy ra. Thể loại vật chất có hai hình thức: Khôi
phục nguyên trạng ( Restitusia ) và đền bù thiệt hại (Reparasia ).
Khôi phục nguyên trạng:
Là hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế về mặt vật chất, theo đó, bên
gây hại có nghĩa vụ khôi phục lại các thiệt hại vật chất cho bên bị hại gần với hiện trạng
vật chất ban đầu. Hình thức khôi phục nguyên trạng chỉ thực hiện trong trường hợp có
điều kiện (ví dụ: xây lại cây cầu bị phá, trả lại đồ vật bị tịch thu…).
Ví dụ : Khi giải quyết tranh chấp năm 1962 về ngôi đền giữa Thái Lan và
Campuchia, tòa quốc tế đã yêu cầu Thái Lan phải trả lại đồ vật trong đền.
Bồi thường vật chất :
So với hình thức phục hồi nguyên trạng thì hình thức này được áp dụng nhiều
hơn. Đền bù thiệt hại phải dựa trên nguyên tắc “sự bồi thường phải tương xứng với
thiệt hại xảy ra” được áp dụng để xác định mức độ bồi thường có nghĩa là mức độ bồi
thường không hơn, không kém thiệt hại đã xảy ra trên thực tế. Với những hành vi vi
phạm thông thường , nhiều khi cách giải quyết, tính toán mức bồi thường có phần giống
với cách giải quyết của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng của luật dân sự trong
nước( mối lợi đã mất, khoản tiền bồi thường thiệt hại tinh thần, khoản tiền lời trong
trường hợp bồi thường quá muộn).
Riêng đối với việc đền bù bằng tiền có thể thực hiện cả đối với trách nhiệm vật
chất và trách nhiệm phi vật chất , mặc dù trên thực tế những mất mát về tinh thần không
thể được thay thế bằng các lợi ích vật chất khác nhưng phần nào cũng giúp các chủ thể
bị thiệt hại khắc phục các hậu quả đáng tiếc xảy ra và nó còn có ý nghĩa là các hình phạt
tượng trưng đối với các chủ thể đã có hành vi vi phạm.
2.2. Căn cứ vào hành vi gây hại:
2.2.1. Trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan:
Luật Quốc Tế Page 7
Các hành vi luật quốc tế không cấm nhưng luật quốc tế lại ràng buộc nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại với các chủ thể khi tiến hành các hoạt động được luật quốc tế cho phép
nhưng lại gây thiệt hại cho các chủ thể khác của luật quốc tế (thường là vật chất).
Nguồn luật điều chỉnh:
Các quy phạm về bồi thường thiệt hại gây ra do thực hiện hành vi mà luật quốc
tế không cấm được ghi nhận trong:
Các ngành luật chuyên biệt: Luật hàng không dân dụng quốc tế, luật vũ trụ quốc
tế, luật nguyên tử quốc tế, luật biển quốc tế, …
Một số công ước quốc tế : Công ước về trách nhiệm quốc tế đối với thiệt hại do
phương tiện bay vũ trụ gây ra; công ước về trách nhiệm trước bên thứ ba trong lĩnh vực
năng lượng hạt nhân 1960 (công ước bổ sung cho công ước này năm 1963); công ước
về trách nhiệm của người tác nghiệp các tàu hạt nhân năm 1962; công ước về trách
nhiệm dân sự đối với thiệt hại hat nhân năm 1963; công ước về bồi thường thiệt hại
phát sinh do phương tiện bay nước ngoài gây cho người thứ ba trên mặt đất năm 1952.
Căn cứ xác định trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại gây ra bởi hành vi luật
quốc tế không cấm ( trách nhiệm khách quan ).
Có ba điều kiện được xem là cơ sở xác định trách nhiệm khách quan:
Có sự kiện làm phát sinh hiệu lực áp dụng của các quy phạm pháp lý nêu trên
+ Đây là điều kiện cần để xác định trách nhiệm pháp lý khách quan, là cơ sở thực
tiễn để xác định trách nhiệm pháp lý khách quan.
+ Là hành vi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ làm xuất hiện các tình thế, hoàn
cảnh không kiểm soát được với các trang thiết bị, biện pháp khắc phục hiện có mặc dù
các chủ thể đó không mong muốn.
Có quy phạm pháp lý quy định nghĩa vụ và quyền tương ứng trong trách nhiệm
khách quan
+ Căn cứ về sự kiện pháp lý chỉ là cơ sở thực tiễn để xác định trách nhiệm pháp lý
khách quan, còn căn cứ này là cơ sở pháp lý, là điều kiện đủ để xác định trách nhiệm
pháp lý khách quan.
+ Một hành vi không bị Luật quốc tế cấm và làm phát sinh thiệt hại đối với các chủ
thể khác chỉ phải chịu trách nhiệm pháp lý khi có các quy phạm pháp lý quy định về
nghĩa vụ này, hay nói cách khác phải có các thỏa thuận quốc tế về việc xác định trách
Luật Quốc Tế Page 8
nhiệm trong những trường hợp cụ thể này. Có nghĩa là, nếu không có các quy phạm kể
trên , các chủ thể luật quốc tế sẽ không có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do các hành vi
hợp pháp của họ gây ra.
* Các quy phạm pháp lý kể trên có thể được ghi nhận trong các điều ước quốc tế
trong các lĩnh vực khác nhau: Luật hàng không, luật vũ trụ, luật biển…
Có mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện pháp lý và thiệt hại vật chất phát sinh.
Là cơ sở để xác đinh đúng chủ thể có nghĩa vụ thực hiện trách nhiệm pháp lý khách
quan, đảm bảo tính quy luật, tính khách quan, tránh suy diễn chủ quan trong xác định
trách nhiệm pháp lý quốc tế. Chú ý rằng thiệt hại xảy ra ở đây chỉ bao gồm thiệt hại vật
chất mà thôi.
Thực hiện trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại gây ra do hành vi mà luật
quốc tế không cấm :
Đối với trách nhiệm từ thực hiện hành vi hợp pháp của quốc gia, có thể áp dụng
các hình thức sau:
Đền bù bằng tiền hoặc hiện vật. Nguyên tắc chung của việc bồi thường là sự bồi
thường phải tương xứng với thiệt hại xảy ra và phải bồi thường toàn bộ.
Có thể áp dụng hạn hữu hình thức thực hiện trách nhiệm khác như hình thức
thay thế thiệt hại bằng việc chuyển giao cho chủ thể bị hại những đối tượng tương ứng
về ý nghĩa và giá trị, thay thế đối tượng bị mất đi.
Các loại vi phạm pháp luật quốc tế:
Vi phạm pháp luật quốc tế là hành vi của chủ thể luật quốc tế trái với quy định của
pháp luật quốc tế, được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động, gây ra
thiệt hại cho một hoặc một số chủ thể của luật quốc tế khác.
Tội ác quốc tế:
Hành vi vi phạm pháp luật quốc tế cực kì nguy hiểm của một chủ thể luật quốc tế,
làm tổn hại hòa bình, an ninh thế giới, làm tổn hại quyền lợi quan trọng và sự sống còn
của một dân tộc, một quốc gia hay một tổ chức quốc tế. Bao gồm:
Tội ác chống hòa bình. Ví dụ: Lập kế hoạch, tiến hành chiến tranh xâm lược.
Tội ác chống lại quyền dân tộc tự quyết. Ví dụ: Hành vi dùng vũ lực duy trì
quyền đô hộ của các nước đế quốc trước đây.
Tội ác chống lại loài người. Ví dụ: Ngược đãi tù nhân, tội ác diệt chủng.
Luật Quốc Tế Page 9
Tội ác hủy hoại môi trường môi sinh: vi phạm các điều ước quốc tế về bảo vệ
môi trường. Ví dụ: Tàng trữ, sử dụng vũ khí hạt nhân, vi trùng, chất hóa học gây ô
nhiễm nghiêm trọng nguồn nước, biển cả.
Ngoài quốc gia thì các cá nhân cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi của
mình.
Ví dụ: Tòa án quốc tế Nuremberg và Tokyo xét xử tội phạm chiến tranh thế giới thứ
hai.
Những vi phạm pháp luật quốc tế thông thường.
Theo như đã nói ở trên thì các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế khác không phải
là tội ác quốc tế thì được coi là vi phạm pháp luật quốc tế thông thường. Cụ thể đó là
hành vi của chủ thể luật quốc tế trái với pháp luật quốc tế với mức độ không nghiêm
trọng như tội ác quốc tế nhưng đã gây thiêt hại cho 1 hoặc 1 số chủ thể luật quốc tế
khác. Ví dụ như việc không hành động cần thiết để dẫn tới hành động chống lại đại
diện ngoại giao nước ngoài, vi phạm các nghĩa vụ thương mại… Trong các trường hợp
đó, trách nhiệm pháp lý đặt ra trong quan hệ giữa chủ thể vi phạm pháp luật quốc tế với
chủ thể bị thiệt hại.
Ghi chú
Phân biệt hành vi thiếu thân thiện của các quốc gia với vi phạm pháp luật quốc
tế.
Hành vi thiếu thân thiện được hiểu là một hành vi của quốc gia làm thiệt hại cho
quốc gia khác nhưng không vi phạm tới cam kết quốc tế. Các hành vi thiếu thân thiện
đó làm thiệt hại tới lợi ích không được luật quốc tế bảo vệ của quốc gia khác.
Ví dụ, hành vi hạn chế một số quyền của cá nhân và pháp nhân nước ngoài ở nước
sở tại, tăng thuế hải quan ở một số mặt hàng nhập khẩu, quốc hữu hóa đối với sở hữu
nước ngoài.
Trong các trường hợp như vây, quốc gia bị đối xử thiếu thân thiện có quyền tự
hành động để đối phó lại nhưng không được vi phạm các quy định và cam kết quốc tế.
Hiện tại luật quốc tế chưa có quy định cấm áp dụng các hành vi thiếu thân thiện kiểu
nêu trên trong quan hệ quốc tế. Do vậy vai tró quan trọng trong vấn đề điều chỉnh các
quan hệ loại này thuộc về các quy phạm đạo đức và chính trị quốc tế. Chẳng hạn, vụ
kiện bán phá giá cá ba sa của Mỹ đối với Việt Nam là 1 trường hợp như thế. Vì ưu thế
Luật Quốc Tế Page 10
cá ba sa nước ta khi xuất sang Mỹ với giá rẻ mà chất lượng tốt làm ảnh hưởng lớn đến
các hiệp hội kinh doanh cá của Mỹ, nên Mỹ đã dùng cách này để hạn chế hàng Việt
Nam.
Phân biệt giữa hành vi vi phạm pháp luật quốc tế của chủ thể luật quốc tế với
hành vi vi phạm được xác định là loại tội phạm có tính chất quốc tế.
Tội phạm mang tính chất quốc tế là các tội phạm hình sự, do các ca nhân thực
hiện, xâm phạm tới trật tự pháp lý quốc tế hoặc quốc gia và mang tính chất nguy hiểm
trên phạm vi quốc tế.
Cơ sở pháp luật của sự truy cứu trách nhiệm đối với các loại tội phạm này là các
công ước quốc tế về đấu tranh chống một số loại tội phạm đặc biệt( tội không tặc, tội
khủng bố, tội buôn bán ma túy, chất phóng xạ…) và các quy phạm pháp luật hình sự
của các quốc gia được ban hành trên cơ sở các công ước đó.
Đặc điểm khác biệt của tội phạm mang tính chất quốc tế là ở chỗ, những tội phạm
này được thực hiện bởi các cá nhân, không có liên quan tới các chính sách của quốc gia.
Nói cách khác, các cá nhân khi phạm tội phạm có tính chất quốc tế không phải là các
nhà chức trách hoặc công chức thay mặt quốc gia khi thi hành công vụ. Về nguyên tắc,
quốc gia không chịu trách nhiệm về hoạt động của các cá nhân, do vậy, các loại tội
phạm trên không là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế của chủ thể luật quốc
tế.
Chủ thể luật quốc tế là quốc gia không phải chịu trách nhiệm hình sự mà chỉ chịu
trách nhiệm về vật chất, tinh thần. Các cá nhân khi vi phạm thì phải chịu trách nhiệm về
hình sự.
2.2.2 Trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ quan:
Khái niệm
Là hậu quả pháp lý phát sinh do chủ thể vi phạm pháp luật quốc tế gây hại cho chủ
thể khác.
Căn cứ để xác định:
Có hành vi trái pháp luật quốc tế: gồm 4 dấu hiệu:
Hành vi vi phạm thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.
+ Thực hiện các hành vi mà pháp luật quốc tế cấm.
Luật Quốc Tế Page 11
+ Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ xuất phát từ các
nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế hoặc các văn bản pháp luật quốc gia quốc gia
đơn phương ban hành.
+ Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ pháp sinh trong tố tụng
quốc tế như không tuân thủ và thực hiện các phán quyết, quyết định giải quyết tranh
chấp của Tòa án quốc tế hoặc trọng tài quốc tế mà các bên đã tự nguyện thừa nhận thẩm
quyền của các cơ quan này.
+ Diễn ra do cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước, công dân quốc gia thực hiện
như xâm lược, tấn công biên giới, chỉ đạo xâm nhập tòa đại sứ…Không ngăn cản các
hành vi vi phạm pháp luật quốc tế mà công dân đang thực hiện, không trừng trị các
công dân gây hại cho công dân nước khác, không ra văn bản thực hiện các cam kết
quốc tế.
Hành vi trái pháp luật quốc tế phải là hành vi vi phạm nghĩa vụ quốc tế, không
phù hợp với các nghĩa vụ ghi nhận trong các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế mà
quốc gia đã kí kết, không phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế.
Các nghĩa vụ này đang có hiệu lực đối với quốc gia vào thời điểm hành vi vi
phạm được thực hiện.
Hành vi được xem xét trên cơ sở luật quốc tế. Và vì vậy, cho dù phù hợp với luật
quốc gia nhưng lại không phù hợp với luật quốc tế thì vẫn là hành vi vi phạm.
Ý nghĩa của yếu tố này: là điều kiện cơ bản để xác định có hay không có trách
nhiệm pháp lý, vì thiếu điều kiện này sẽ không đặt ra trách nhiệm pháp lý quốc tế.
Có thiệt hại xảy ra: thiệt hại xảy ra là cơ sở để giải quyết vấn đề bồi thường, sự
xâm hại đến các lợi ích luật quốc tế bảo vệ có thể là:
Để xác định trác nhiệm pháp lý quốc tế đối với một chủ thể luật quốc tế, đặc biệt là
việc xác định trách nhiệm đền bù thiệt hài thì hành vi trái pháp luật dù ở mức độ hay
hình thức nào cũng phải đã gây ra thiệt hại cho chủ thể khác hoặc cho các quan hệ được
luật quốc tế bảo vệ.
Thiệt hại về vật chất hay phi vật chất, hay vừa là vật chất vừa là phi vật chất. Thiệt
hại có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, gây ra với một quốc gia hay nhiều quốc gia. Thiệt
hại có thể gây ra cho một chủ thể nhất định, có thể nhiều chủ thể hay cộng đồng.
Luật Quốc Tế Page 12