Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

luận văn quản trị nhân lực ĐÀO TẠO NHÂN TÀI CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC CHÍNH SÁCH, CHẾ ĐỘ TRỌNG DỤNG, TÔN VINH NGƯỜI TÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.37 KB, 14 trang )

ĐÀO TẠO NHÂN TÀI CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT
NƯỚC
CHÍNH SÁCH, CHẾ ĐỘ TRỌNG DỤNG, TÔN VINH NGƯỜI
TÀI
PGS.TS. Phạm Ngọc Trung
Nhân tài là một khái niệm để chỉ một con người có tài năng,
thể hiện sự kết hợp hoàn thiện nhất các năng lực nhất định đối với
một hoạt động nhất định, giúp cho con người đạt được những thành
tựu xuất sắc, mới mẻ, có ý nghĩa xã hội. Tài năng biểu thị chất
lượng cao của năng lực, có thể biểu hiện trong bất cứ lĩnh vực hoạt
động nào, thông qua đào tạo chu đáo và luyện tập công phu, hoạt
động thực tiễn phong phú, phát triển tối đa các tố chất tương ứng.
Tài năng của con người được thể hiện ở những cấp độ khác nhau và
nó cũng bao hàm những nội dung khác nhau tuỳ theo từng cách tiếp
cận và tuỳ theo quan niệm: Phương Tây thường quan niệm một cách
duy lý, đối lập giữa Tài năng với đạo đức; ngược lại, phương Đông
lại cho rằng trong Đức có Tài, trong Tài có Đức. Dự theo cách tiếp
cận nào đi nữa, chúng ta cũng phải thừa nhận tài năng là một trong
những năng lực, những phẩm chất của con người.
Theo tự điển Bách khoa Việt Nam, năng lực là đặc điểm của
cá nhân thể hiện mức độ thông thạo – Tức là có thể thực hiện một
cách thành thục và chắc chắn – một hay một số dạng hoạt động nào
đó. Năng lực gắn liền với những phẩm chất về trí nhớ, tính nhạy
cảm, trí tuệ, tính cách của cá nhân. Năng lực có thể được phát triển
trên cơ sở năng khiếu – đặc điểm sinh lý của con người, trước hết là
của hệ thần kinh của trung ương – Song, không phải là bẩm sinh,
mà là kết quả của sự phát triển xã hội và của con người thông qua
đời sống xã hội, sự giáo dục và rèn luyện, hoạt động của cá nhân.
Năng lực cao đạt được những thành tựu hoàn thiện, xuất sắc, mới
mẻ, có ý nghĩa xã hội gọi là tài năng. Tài năng đặc biệt làm nên kỳ
tích trong hoạt động sáng tạo, vượt lên trên mức bình thường được


gọi là thiên tài
1
.
Như vậy là, nhân tài không phải do bẩm sinh, cũng không phải
do thần thánh sinh ra mà đó là kết quả của một quá trình giáo dục,
đào tạo một cách có bài bản, rất kỳ công của gia đình và xã hội,
cộng với sự kiên trì học tập, rèn luyện, đam mê của mỗi cá nhân.
Nhân tài được thể hiện ở các lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống: từ
lĩnh vực khoa học tự nhiên đến lĩnh vực khoa học xã hội, từ mặt trận
kinh tế đến mặt trận quân sự, ngoại giao; từ các môn Thể dục – thể
thao đến các bộ mon của Văn học – nghệ thuật; từ nghệ thuật quản
lý, chỉ đạo đến những sáng kiến, phát minh, chế tạo ra những sản
phẩm mới, sáng tạo ra những giống cây trồng vật nuôi mới mang lại
hiệu quả kinh tế cao hơn. Khó có thể so sánh tài năng ở các lĩnh vực
khác nhau và cũng rất khó đánh giá tài năng ở lĩnh vực nào là cao
hay thấp hoặc tầm ảnh hưởng xã hội rộng hay hẹp, bởi vì mọi cống
hiến của các nhân tài đều được xuất phát từ thực tiễn, đều do lịch sử
đòi hỏi và đều nhằm giải quyết những nhiệm vụ do lịch sử đặt ra, do
nhân dân mong muốn.
1
Tự điển Bách khoa Việt Nam, NXB Tự điển Bách khoa, Hà Nội, 2003, tr. 41.
Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam đã có truyền thống “tôn sư trọng
đạo”, có truyền thống tôn trọng tri thức, tôn trọng sự học hành. Thời
vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072) việc học tập đã được mở rộng.
Cùng với những triết lý tư tưởng của Phật học, Nho học bắt đầu
được chú ý. Năm 1070, nhà vua cho xây dựng Văn miếu ở Thăng
Long và văn chỉ ở các địa phương. Đến vua Lý Nhân Tông (1072 –
1128), đào tạo giáo dục được quan tâm hơn trước, học hành thi cử
được mở rộng để tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Năm 1075, vua
mở khoa thi Tam trường cho những người tài giỏi thể hiện hết tài

năng của mình, rồi tổ chức thi Minh Kinh Bác học cho những người
uyên bác trong thiên hạ. Lê Văn Thịnh là người khai hoá đỗ đầu của
nền Khoa bảng phong kiến Việt Nam thời Độc lập. Đến năm 1075,
vua Lý Nhân Tông mở Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long cho
con em quý tộc, quan lại cao cấp vào học, đây là trường Đại học đầu
tiên ở nước ta và cũng là một trong những trường Đại học được xây
dựng vào loại sớm nhất trên thế giới, cùng thời với một số trường
Đại học nổi tiếng ở Châu Âu như: Đại học Paris, Đại học Oxford,
Đại học Camprige, Đại học Bolonhơ, Đại học Socbon,… Sau đó,
vua Lý Anh Tông (1138 – 1175) đã mở khoa thi Thái học sinh đầu
tiên để tuyển chọn nhân tài và vua Lý Cao Tông (1176 – 1210) đã
mở khoa thi Tam giáo (1195) để tuyển chọn những người tinh thông
Nho, Phật, Đạo. Từ hàng nghìn năm trước, nhà Lý đã đặt nền móng
cho việc học hành, thi cử đào tạo, tuyển dụng nhân tài cho đất nước.
Ngay ở thời kỳ này, các sĩ tử đã được học tập, rèn luyện trong một
môi trường giáo dục chuẩn mực, mọi việc liên quan đến học tập, thi
cử đều được thực hiện dưới sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của nhà
vua. Ở triều Lý, việc giáo dục, thi cử theo tinh thần Nho giáo mới
chỉ bắt đầu đi vào nề nếp, số lượng nho sĩ được đào tạo qua sáu kỳ
thi vào các năm 1075, 1086, 1152, 1165, 1185, 1195 còn rất ít,
nhưng triều đình xem việc thi cử, học hành là một bộ phận quan
trọng cấu thành của hệ thống bộ máy cai trị của nhà nước phong
kiến, là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để trí thức hoá bộ máy
cầm quyền phong kiến. Chỉ có thông qua Đào tạo, giáo dục, thi cử
một cách nghiêm túc, vai trò trị quốc của giai cấp phong kiến mới
được khẳng định.
Sang thời Trần (1225 – 1400) nền giáo dục, khoa cử tiếp tục
được củng cố và nhân rộng. Vua Trần Thái Tông (1225 – 1258) đã
tổ chức kỳ thi Đại kho để tuyển chọn Thái học sinh và cho khảo
duyệt các bá quan văn võ trong, ngoài triều theo định kỳ. Riêng

chức Tể tướng chỉ chọn trong tôn thất nhà Trần nhưng đó phải là
người tài giỏi, có đạo đức, thông thiểu thi, thư. Năm 1247, vua Trần
đặt ra danh hiệu Tam Khơi: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa
cho ba thí sinh đỗ điểm cao nhất để vinh danh người tài giỏi. Vua
Trần Minh Tông (1314 – 1329) là người nhân hậu, trọng dụng kẻ sĩ,
tôn sư trọng đạo nên đã thu phục được nhiều hiền thần tài danh như
Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung
Ngạn, Chu Văn An,… Đến vua Trần Duệ Tông (1372 – 1377) định
lệ cứ 7 năm tổ chức thi một lần và sau kỳ thi tuyển chọn Thái học
sinh, các sĩ tử phải tham gia thi lần thứ hai để tìm những người đỗ
cao nhất cho nhận học vị Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa,
Hồng Giáp. Đến thời vua Trần Thuận Tông (1388 – 1398) do số
lượng người tham gia học tập, thi cử ngày một đông, vua đã xuống
chiếu quy định lệ thi theo ba cấp: Thi Hương ở Lộ, phủ, thi Hội ở
kinh đô và thi Đình ở sân rồng trong cung điện. Nhà Trần cũng đặt
chức quan giáo thụ trông coi việc dạy học và chức quan giám thư
khố trông coi kinh sách ở các châu, phủ thuộc vùng Đồng bằng sông
Hồng và trung du Bắc Bộ, đồng thời nhà nước cũng cấp ruộng học
theo đẳng cấp: Phủ, châu lớn được cấp 15 mẫu ruộng, phủ châu nhỏ
được cấp 10 mẫu ruộng để thu hoa mầu phục vụ cho việc học hành.
Ở thời đại Lý – Trần, thông qua cuộc đấu tranh kiên cường để
bảo vệ độc lập, thông qua sự cống hiến xuất sắc của các nhân tài Lý
Thường Kiệt, Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo,… chúng ta đã bắt đầu
hình thành những giá trị văn hoá mới. Từ tâm lý tự ti của người tiểu
nông trồng lúa nước sống trong luỹ tre làng, chúng ta đã tự khẳng
định mình, tự tin hơn trong công cuộc giao lưu quốc tế, xây dựng
được tâm lý quốc gia, dân tộc.
Năm 1427, sau khi đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, ngay
từ buổi sơ khai, Lê Lợi đã chú trọng nâng đỡ hiền tài, tìm người ẩn
dật, mở các khoa thi, xây dựng nền văn học nước nhà, củng cố

chính sự quốc gia. Tiếp tục sự nghiệp của vua cha, vua Lê Thái
Tông (1434 – 1442) đã không ngừng củng cố nhà nước phong kiến
mới được hình thành bằng cách tăng cường đào tạo nhân tài cho đất
nước thông qua con đường thi cử. Năm 1442, vua mở khoa thi Đình
tại kinh đô Thăng Long, đề thi do nhà vua đích thân ra, ai đỗ kỳ thi
này được gọi là tiến sỹ và chia ra thành ba bậc: Đệ nhất giáp tiến sỹ
cập đệ gồm 3 người xuất sắc nhất được vinh danh Tam khơi: Trạng
Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa; Đệ nhị giáp tiến sỹ xuất thân được
gọi là Hồng giáp và cuối cùng là Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất
thân được gọi là Tiến sỹ. Nhằm củng cố lòng trung thành của quan
lại với nhà nước phong kiến và kiểm soát chặt chẽ đạo đức của nho
sinh, năm 1462, vua Lê Thánh Tông đặt ra lệ “Bảo kết hương thí”
và “Cung khai tam đại”. Quy định này bắt các sỹ tử muốn được
tham dự các kỳ thi phải có sự đảm bảo và cam kết của quan lại địa
phương về đạo đức tư cách của thí sinh, đồng thời mỗi thí sinh phải
có một bản khai lý lịch ba đời. Nếu thí sinh và gia đình vi phạm luật
pháp và xuất thân kiếp cầm ca, hát xướng thì không được dự thi.
Thời Lê tổ chức thi Hương, thi Hội, thi Đình vào nề nếp chặt
chẽ và trong các kỳ thi đó, vua cử các quan Thượng Thư, các quan
Đề Điệu tham gia tổ chức, còn nhà vua trực tiếp ra đề thi văn sách
cho các sỹ tử. Trong buổi thi Đình hỏi về Đạo trị nước của các Đế
vương và cách trọng dụng Hiền tài: Các kỳ thi Hội, thi Đình ở triều
Lê sơ, sỹ tử mỗi năm đến 4000 – 5000 người, nhưng đỗ đạt rất thấp,
chỉ khoảng độ 30 – 50 người (tỷ lệ đỗ từ 0,7 đến 1%) vì nhà Lê đề
cao chất lượng thực sự, không có chế độ ưu tiên, vị nể cho bất kỳ ai,
kể cả con em quan lại quý tộc. Những người đỗ trong các kỳ thi
Đình rất ít, nên họ được trọng dụng, bổ nhiệm vào các chức vụ
trong triều đình, ngoài lộ phủ, thường là các chức vụ quan tri huyện,
tri phủ, Tổng đối, Thượng Thư… tuỳ theo năng lực từng người.
Năm 1466, vua Lê Thánh Tông định lệ truyền lô xướng danh người

đỗ đạt, bộ lễ theo bảng vàng ghi tên các tân tiến sỹ ở cửa Đông Hoa
và tiến sỹ được nhà vua trực tiếp đãi yến tiệc ở vườn Thượng Uyển,
ban phát áo mũ, xiêm đai, ngựa xe để vinh quy bái tổ. Năm 1472,
vua cũng ban bố chế độ định thẩm hàm, chức tước cao và ban cấp
bổng lộc lớn cho những người đỗ đạt đã có tác dụng khuyến khích
việc học tập và sự hết lòng tận tuỵ giúp đỡ triều đình chấn hưng đất
nước. Đặc biệt, vào năm 1484, vua Lê Thánh Tông đã cho khắc tân
tiến sỹ các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1481 lên bia đá, đặt trên
lưng Rùa đá trong Văn Miếu Quốc Tử Giám nhằm ca ngợi công
đức, sự nghiệp nhà Lê, đề cao việc học hành, thi cử, răn dạy các tiến
sỹ đỗ đạt: Làm quan phải phục mệnh vua làm việc thiện, điều hay
có ích cho dân, cho nước, không được gây bố kết đảng tham nhũng
làm khổ muôn dân. Từ thế kỷ XV, Thân Nhân Trung – một hiền tài
thời Lê sơ đã cho khắc trên bia đá ở Văn Miếu Quốc Tử Giám dòng
chữ: Hiền tài là Nguyên khí quốc gia. Nguyên khí vững thì thế nước
mạnh và thịnh, Nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy. Thời Lê sơ
(1427 – 1526), các vua đã đề cao giáo dục, trọng dụng hiền tài nên
nước Đại Việt trở nên một quốc gia hùng mạnh, ngoại bang không
dám nhòm ngó, xâm lược.
Tinh thần đề cao khoa bảng đó tiếp tục được thể hiện ở các
triều Mạc, Lê – Trịnh và Nguyễn, nhưng cái tinh tuý của nền giáo
dục đã bị giảm sút đi nhiều. Cho đến thời Hoàng đế Quang Trung,
cái tinh tuý của một nền giáo dục tiến bộ lại được hồi sinh. Quang
Trung hết lòng đề cao, trọng dụng hiền tài, từ năm 1786 đến năm
1788, ông đã ba lần cho mang vàng, bạc, vải lụa lên Nơi Thiên
Nhẫn – nơi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ẩn dật – để mời Nguyễn
Thiếp ra làm quan giúp dân, giúp nước. Thái độ cầu hiền và đề cao
kẻ sỹ đã là nguồn lực quan trọng tăng thêm sức mạnh cho triều đại
Quang Trung có thể giữ yên bờ cõi, chấn hưng văn hoá dân tộc sau
bao nhiêu năm nội chiến.

Năm 1946, sau khi cách mạng tháng 8 thành công, Bác Hồ của
chúng ta đã viết thư gửi quốc dân đồng bào đề nghị tiến cử hiền tài
để Đảng và Nhà nước trọng dụng, đồng thời khi qua Pháp làm việc,
Bác Hồ đã kêu gọi nhân sỹ, trí thức yêu nước hãy trở về Tổ quốc
làm việc góp phần xây dựng đất nước. Một số nhà khoa học Việt
Nam ở Pháp lúc đó như Trần Đại Nghĩa, Trần Đình Thảo, Phạm
Ngọc Thạch, Tôn Thất Tăng, Phạm Huy Thông, Nguỵ như Kon
Tum,… đã tự nguyện từ bỏ mọi vinh hoa phú quý trở về nước phục
vụ cách mạng vì tinh thần yêu nước thiết tha và sự tin tưởng, yêu
quý Đảng và Bác Hồ vĩ đại.
Trong thời đại toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay,
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm đến việc đào tạo nhân tài cho
sự phát triển của đất nước. Đảng đã có nghị quyết 27/NQ/TƯ của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khó X và Nghị quyết 20 - NQ/TƯ
của Ban chấp hành Trung ương khó XI về xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước.
Đảng bộ các thành phố Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh cũng ban hành
chương trình hành động để tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, giáo
dục, nâng cao chất lượng giáo dục lên một bước nhằm đáp ứng nhu
cầu phát triển ở địa phương.
Trong nhiều năm qua, Bộ GD – ĐT đã có gần 300 văn bản
hướng dẫn các địa phương, các trường học thực hiện 8 đạo luật của
Nhà nước về vấn đề giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ. Nếu
so với thời bao cấp, công việc đào tạo nói chung và mục tiêu đào tạo
nhân tài cho đất nước của chúng ta đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Thứ
nhất, quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng và phát triển, từ
hệ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên,
giáo dục dạy nghề đến giáo dục Đại học và giáo dục trên Đại học.
Trong mỗi hệ giáo dục nói trên đã xây dựng được những trường
điểm đạt chuẩn quốc gia và tổ chức được những lớp đào tạo học

sinh, sinh viên ở những lớp chuyên, lớp chọn, lớp năng khiếu.
Nhiều em học sinh sinh viên đã tham gia một số kỳ thi quốc gia,
quốc tế giành được giải cao cho cá nhân và tập thể ở một số môn:
Vật lý, Hoá học, Sinh vật, Toán học,…
Thứ hai, hình thức đào tạo đa dạng, bước đầu đáp ứng được
nhu cầu học tập suốt đời của các thành viên trong xã hội: hình thức
đào tạo chính quy tập trung, hình thức đào tạo vừa làm vừa học (tại
chức), hình thức đào tạo từ xa theo tín chỉ, hình thức đào tạo liên
thông từ Cao đẳng lên Đại học, thậm chí từ hệ Trung cấp lên Cao
đẳng rồi liên thông lên Đại học… Nhìn chung, những hình thức đó
đã tạo ra nhiều cơ hội cho tất cả mọi người đều có thể tham gia học
tập một cách dễ dàng, liên tục tuỳ theo hoàn cảnh của mình.
Thứ ba, hình thức liên kết đào tạo giữa một số trường Đại học,
Cao đẳng trong nước với các trường đại học nước ngoài (Anh,
Pháp, Mỹ, Úc, Trung Quốc, Nhật Bản,…) được khuyến khích, phát
triển đã tạo điều kiện cho cán bộ, giảng viên và học sinh, sinh viên
được tiếp cận với một nền giáo dục tiên tiến trên thế giới bằng cách
du học tại chỗ. Cách thức liên kết “mở” đã giúp cho nhiều gia đình
mặc dù kinh tế không cao, nhưng con em họ vẫn có thể theo học
được từ đầu khó đến cuối khó. Khi tốt nghiệp được trang bị một
kiến thức sâu rộng, một ngoại ngữ khá vững vàng và một tấm bằng
mang tính quốc tế.
Thứ tư, năm 2000, Bộ GD – ĐT đã xây dựng Đề án 322 để
tuyển chọn học sinh, sinh viên có năng lực đưa ra nước ngoài học
tập từ hệ Đại học đến hệ Cao học và Tiến sỹ. Đề án đó đã góp phần
bổ sung cán bộ cho một số ngành, một số lĩnh vực còn thiếu và yếu
ở nước ta, đồng thời cũng tiếp thu kiến thức, trình độ của các nhà
khoa học quốc tế nhằm tạo ra những cách tiếp cận mới thúc đẩy
khoa học trong nước phát triển nhanh hơn, mau chóng hồ đồng với
trình độ thế giới.

Thứ năm, một số Bộ, ngành, địa phương đã thực hiện chính
sách “trải thảm đỏ” trọng dụng những cán bộ có bằng cấp cao, học
vị Thạc sỹ, Tiến sỹ, học hàm Phó giáo sư, giáo sư. Nếu những
người có bằng cấp đó về làm việc ở ngành mình, địa phương mình,
thì lãnh đạo Bộ, ngành, địa phương sẽ có một số ưu tiên, ưu đãi về
hình thức xét tuyển, về sắp xếp bậc lương, thậm chí có một số địa
phương còn tài trợ một số tiền từ vài chục triệu đến vài trăm triệu
đồng, hoặc có thể còn được cấp nhà ở, cấp đất làm nhà tuỳ theo tình
hình cụ thể.
Thứ sáu, Trung ương Đoàn TNCSHCM kết hợp với Bộ nội vụ
và một số ban ngành ở Trung ương thực hiện Đề án đưa 600 Đoàn
viên thanh niên ưu tú đã tốt nghiệp trình độ Đại học về làm việc ở
600 xã nghèo ở vùng sâu, vùng xa với chức danh là Phó Chủ tịch
xã. Đây chính là chính sách tích cực giúp cho các địa phương, thôn
bản ở vùng sâu, vùng xa được tăng cường thêm cán bộ trẻ, có năng
lực, có trình độ và nhiệt huyết, đồng thời cũng tạo ra một môi
trường công tác cụ thể ở cơ sở cho các cử nhân vừa tốt nghiệp có
thể trải nghiệm, suy nghĩ, cống hiến trực tiếp cho nhân dân bằng
những trí thức, hiểu biết vừa tiếp tiếp thu được ở trên ghế nhà
trường.
Thứ bảy, ở một số ngành khoa học, giáo dục, văn học nghệ
thuật, y tế… được Đảng và Nhà nước quan tâm trao cho các danh
hiệu như: Phó giáo sư, giáo sư; Nghệ sỹ ưu tú, nghệ sỹ nhân dân,
Nhà giáo ưu tú; Thầy thuốc ưu tú, thầy thuốc nhân dân, Nghệ nhân
dân gian,… Đó là những danh hiệu cao quý mà mỗi người trí thức
phải phấn đấu trong một thời gian dài và có những cống hiến xuất
sắc mới có thể đạt được. Những danh hiệu vẻ vang đó mặc dù được
trao cho cá nhân, nhưng đó cũng là những dấu ấn đánh giá sự tiến
bộ, phát triển của một ngành, một đơn vị, có ý nghĩa tôn vinh những
cán bộ, công chức, nghệ nhân suốt đời tận tuỵ phấn đấu cho khoa

học và nghệ thuật.
Nhìn chung, trong mấy chục năm qua, phương pháp đào tạo
nhân tài, cùng với những chính sách, chế độ trọng dụng, tôn vinh
người tài ở nước ta đã có bước phát triển mới, một cách toàn diện và
căn bản, tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần hoàn thành thắng lợi
những nhiệm vụ chủ yếu do Đảng và nhà nước đề ra: đưa nước ta
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; phát triển theo hướng công nghiệp
hoá – hiện đại hoá.
Sau một phần tư thế kỷ thực hiện Đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng, dưới tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa mang tính hai mặt, cùng những diễn biến thực tế của
các mặt trong đời sống xã hội hiện nay, chúng ta có thể nhìn nhận,
đánh giá và phát hiện ra một số hạn chế của công tác đào tạo nhân
tài cho sự phát triển của đất nước, cùng một số chính sách, chế độ
trọng dụng, tôn vinh nhân tài ở đất nước chúng ta.
Quá trình mở rộng quy mô đào tạo và phát triển các hình thức
đào tạo không đi đôi với công tác quản lý những hoạt động đào tạo
một cách chặt chẽ các đạo luật và hàng trăm văn bản hướng dẫn
thực hiện của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo
và khoa học công nghệ còn thiếu đồng bộ, lạc hậu, chưa cập nhật
một cách phù hợp với tình hình thực tế nên tính khả thi chưa cao.
Mở rộng quy mô đào tạo và phát triển các hình thức đào tạo nhưng
không gắn liền quá trình nâng cao chất lượng đào tạo nên số cử
nhân tốt nghiệp đại học ở các hệ chính quy tập trung, tại chức và
liên thông đa số đạt trình độ trung bình và kém; không thể tìm kiếm
được việc làm, không đáp ứng được yêu cầu của các đơn vị sử dụng
lao động, dẫn đến tình trạng một số tỉnh, thành phố (Nam Định,
Quảng Nam, Đà Nẵng) đã quyết định không tiếp nhận cán bộ vào
làm việc ở địa phương nếu người đó tốt nghiệp hệ vừa làm vừa học
(tại chức). Một số trường Đại học, đặc biết là hệ Đại học dân lập

tuyển những học sinh quá kém vào đào tạo liên thông từ trung cấp
lên Đại học. Đây là là một kẽ hở tạo điều kiện cho những học sinh
yếu kém, nhiều lần thi trượt đại học đã được trở thành sinh viên đại
học và cử nhân chỉ sau 5 năm nộp học phí đầy đủ. Thậm chí ở cả
những lớp liên thông đào tạo quốc tế, du học tại chỗ cũng xảy ra
hiện tượng như trên, bởi vì những đối tác mà một số trường đại học
trong nước bắt tay liên thông không phải là những trường Đại học
có tên tuổi, có uy tín ở nước ngoài. Tình trạng đó làm cho nhiều
người có bằng cử nhân nhưng không thể xin được việc làm vì trình
độ chuyên môn và trình độ ngoại ngữ kém cỏi và một số gia đình
khá giả, có điều kiện phải tiếp tục nuôi con, em mình học thêm văn
bằng 2, văn bằng 3, thậm chí có gia đình “đẩy” con, em mình đi học
Cao học để trở thành Thạc sỹ. Rất tiếc là tấm bằng Thạc sỹ trở
thành tấm bình phong che lấp đi một quá trình học tập yếu kém của
một con người yếu kém, chứ không phải làm cho con người đó tiến
bộ hơn.
Hiện tượng dạy thêm, học thêm một cách tràn lan tiêu cực
diễn ra ở khắp mọi nơi từ thành thị đến nông thôn đã làm cho xã hội
bức xúc, quan ngại. Từ hệ mẫu giáo đến cáo lớp ở hệ phổ thông tiểu
học, trung học, cơ sở, các thầy cô giáo đều tìm cách tổ chức dạy
thêm và bắt học sinh học thêm để nâng cao thu nhập của mình.
Thậm chí có những thầy, cô giáo chỉ dạy những kiến thức cơ bản,
phục vụ cho thi kiểm tra học kỳ ở những lớp dạy thêm và có hiện
tượng phân biệt đối xử với các nhóm học sinh không tham gia học
thêm buộc gia đình và bản thân các em lo sợ đến kết quả học tập mà
phải cố gắng theo đuổi chương trình học thêm do các thầy, các cơ tự
tổ chức. Cách làm việc như vậy của một số thầy, cơ được sự ủng hộ
ngầm ngầm của lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo phòng giáo dục nên
khó lòng dẹp bỏ. Cách tổ chức học thêm, dạy thêm như vậy không
chỉ làm hao tốn tiền bạc của phụ huynh học sinh mà còn làm cho

các em bị mệt mỏi vì phải học tập cả ngày, và thậm chí cả buổi tối,
không có thời gian ôn lại bài cũ hoặc vui chơi,

×