Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Chẩn đoán vi khuẩn tả ở người đến xét nghiệm tại bệnh viện quân y 103 năm 2013 bằng kỹ thuật PCR

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.42 KB, 72 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




TRƯƠNG THỊ LAN HƯƠNG



CHẨN ĐOÁN VI KHUẨN TẢ Ở NGƯỜI ĐẾN XÉT NGHIỆM TẠI
BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 NĂM 2013 BẰNG KỸ THUẬT PCR




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC









Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




TRƯƠNG THỊ LAN HƯƠNG


CHẨN ĐOÁN VI KHUẨN TẢ Ở NGƯỜI ĐẾN XÉT NGHIỆM TẠI
BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 NĂM 2013 BẰNG KỸ THUẬT PCR

Chuyên ngành: Vi sinh vật học
Mã số: 60 42 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. KIỀU CHÍ THÀNH
PGS.TS. PHẠM VĂN TY






Hà Nội – 2014
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013



LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Kiều Chí Thành và PGS.TS Phạm Văn Ty
những người đã trực tiếp hướng dẫn về khoa học và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình tôi nghiên cứu, hoàn thành đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị cán khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn – Bệnh
viên Quân y 103 đã nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo và chia sẻ với tôi trong thời gian thực tập.
Nhân dịp này, tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn tới
Ban Giám hiệu Trường Đại
học Khoa học Tự nhiên - ĐHQGHN, Ban Chủ nhiệm khoa Sinh học, và các thầy giáo, cô
giáo Bộ môn Vi sinh vật học đã động viên, chỉ dẫn, đóng góp ý kiến và tạo những điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài.

Hà Nội tháng 12-2014.


Học viên: Trương Thị Lan Hương


Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ

DANH MỤC VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 1
1.Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 1
3. Nội dung nghiên cứu 2
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU 3
1.1. Tình hình bệnh tả 3
1.1.1. Tình hình bệnh tả trên thế giới 3
1.2. Vi khuẩn tả 8
1.2.1. Đặc điểm hình thái 9
1.2.2. Phân loại 9
1.2.3. Kháng nguyên và cấu trúc lớp vỏ vi khuẩn 10
1.2.4. Độc tố của vi khuẩn tả 10
1.2.5. Khả năng gây bệnh 12
1.2.6. Diễn biến bệnh 17
1.2.7. Chẩn đoán 17
1.2.7.1. Thời kỳ ủ bệnh 17
1.2.7.2. Thời kỳ khởi phát 17
1.2.7.3. Thời kỳ toàn phát 18
1.2.8. Một số phương pháp chẩn đoán tả 18
1.3. Tổng quan về kĩ thuật PCR 19
1.3.1. Nguyên tắc của kỹ thuật PCR 19
1.3.2. Các giai đoạn của một chu kì phản ứng PCR 19
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phản ứng PCR 21
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
1.3.4. Ứng dụng kĩ thuật PCR trong y học 23
Chương 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 26
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 26
2.2 Vật liệu nghiên cứu 26

2.2.1. Chủng giống vi sinh vật 26
2.2.2. Mồi PCR 26
2.3. Hóa chất và thiêt bị 27
2.3.1. Hóa chất 27
2.3.2. Thiết bị 28
2.3.3. Môi trường nuôi cấy và dung dịch đệm 28
2.4. Phương pháp nghiên cứu 28
2.4.1. Phương pháp mô tả 28
2.4.1.1. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu 29
2.4.1.2. Các kỹ thuật lấy mẫu và vận chuyển bệnh phẩm 29
2.4.2. Phương pháp cấy truyền và giữ giống vi sinh vật 30
2.4.3. Thiết kế mồi đặc hiệu cho gen appA và phyC 31
2.4.4. Tách chiết ADN khuôn mẫu bằng KIT QIAGEN 31
2.4.5. Phương pháp m-PCR dùng để xác định nhanh serogroup O1, O139 và hai
biotype của V. cholerae serogroup O1 32
2.4.5.1. Phản ứng m-PCR1 32
2.4.5.1. Phản ứng m-PCR2 33
2.4.6. Điện di sản phẩm PCR 34
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 35
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 35
3.1.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính, lứa tuổi 35
3.2. Thiết kế mồi đặc hiệu cho gen mã hóa cholera toxin ctxA, rfbQ, IS1358, tcpA và
rstR. 38
3.2.1. Phân tích trình tự gen ctxA, rfbQ, IS1358, tcpA và rstR 38
3.1.2. Thiết kế mồi nhân gen ctxA, rfbQ, IS1358, tcpA và rstR từ V. Cholerae 46
3.3. Khuếch đại gen ctxA, rfb từ V. Cholerae bằng phản ứng m-PCR1 47
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
3.4. Khuếch đại gen tcpA, rstR từ V. Cholerae bằng m-PCR2 50
3.5. So sánh phương pháp chẩn đoán tả bằng kĩ PCR với kĩ thuật chẩn đoán tả bằng

kĩ thuật nuôi cấy kết hợp sử dụng kháng huyết thanh 63
KẾT LUẬN 54
KIẾN NGHỊ 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56

Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Phân lập V. cholerae týp cổ điển và týp El Tor 3.
Bảng 2.1. Các đoạn mồi dùng trong kỹ thuật m-PCR phát hiện gen đặc hiệu của V.
cholerae 27
Bảng 2. 2. Hỗn hợp phản ứng cho m-PCR1 đa mồi bằng Master-Mix (promega) 32
Bảng 2. 3. Hỗn hợp phản ứng cho m-PCR2 đa mồi bằng Master-Mix (promega) 33
Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới, tuổi 35
Bảng 3.2. Tỷ lệ bệnh nhân theo tuổi 36
Bảng 3.3. Phân bố bệnh nhân dương tính V. cholerae theo giới tính 37
Bảng 3.4. Danh sách các chủng V. Cholerae đã được nghiên cứu để thiết kế mồi 38
Bảng 3.5. Danh sách các chủng V. cholera O1 đã được sử dụng để thiết kế mồi 40
Bảng 3.6. Danh sách các chủng V. cholera O139 đã được sử dụng để thiết kế mồi 41
Bảng 3.7. Danh sách các chủng V. cholera O1 El Tor đã được sử dụng để thiết kế mồi 42
Bảng 3.8. Danh sách các chủng V. cholera O1 đã được nghiên cứu để thiết kế mồi nhân
gen rstR 44
Bảng 3.9. Ảnh hưởng của các thông số trong chu kỳ nhiệt đến phản ứng PCR khuếch đại
gen ctxA, rfb 48
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của các thông số trong chu kỳ nhiệt đến phản ứng PCR khuếch đại
gen tcpA, rstR từ V. Cholerae bằng m-PCR2 51


Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013

DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Tình hình bệnh tả tại Việt Nam từ năm 2002 – 2011 7
Hình 1.2. Phân bố ca bệnh tả tại Việt Nam, 2007 – 2011 8
Hình 1.3. Hình thái ngoài vi khuẩn tả V. cholerae 8
Hình 1.4. Biểu đồ khu trú của vi khuẩn trong ruột 13
Hình 1.5. Cơ chế gây bệnh của Vibrio bên trong cơ thể người 14
Hình 1. 6. Các bước thực hiện phản ứng PCR một chu kỳ 20
Hình 3.1. Biểu đồ phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính 35
Hình 3.2. Biểu đồ đánh giá độ tuổi trong thu thập mẫu 37
Hình 3.3 Kết quả so sánh trình tự nucleotide (đầu 5’ và 3’) của 4 gen mã hóa cholera
toxin có nguồn gốc từ V. cholerae 39
Hình 3.4 Trình tự gen ctxA mã hóa cholera toxin từ V. cholerae được sử dụng để thiết kế
mồi . 39
Hình 3.5 Kết quả so sánh trình tự nucleotide (đầu 5’ và 3’) của 2 gen rfbQ có nguồn gốc
từ V. cholerae O1 40
Hình 3.6. Trình tự gen rfbQ từ V. cholerae O1 được sử dụng để thiết kế mồi. 41
Hình 3.7. Kết quả so sánh trình tự nucleotide (đầu 5’ và 3’) của gen IS1358 từ 3 chủng V.
cholera O139 41
Hình 3.8. Trình tự gen IS1358 từ V. cholerae O139 được sử dụng để thiết kế mồi 42
Hình 3.9. Kết quả so sánh trình tự nucleotide (đầu 5’ và 3’) của gen tcpA từ 6 chủng V.
cholera O1 biotype El Tor 43
Hình 3.10. Trình tự gen tcpA từ V. cholerae O1 được sử dụng để thiết kế mồi. 44
Hình 3.11. Kết quả so sánh trình tự nucleotide (đầu 5’ và 3’) của 6 gen mã hóa toxin
coregulated pilus có nguồn gốc từ V. cholera O1 biotype Classical. 45
Hình 3.12. Trình tự gen rstR từ V. cholerae O1 được sử dụng để thiết kế mồi]…………46
Hình 3.13. Kết quả điện di sản phẩm m-PCR1 nhân gen ctxA, gen rfb O1 và rfb
O139………….… … 49
Hình 3.14. Kết quả điện di sản phẩm m-PCR2 nhân gen tcpA, rstR từ V. Cholerae 52

Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương

Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Tên đầy đủ
AOX Alcohol Oxidase
bp Base pair
CS Cộng sự
TCBS Thiosulfate Citrate Bile Salts Sucrose ( Môi trường
chọn lọc nuôi cấy vi khuẩn tả )
V.cholerae Vibriocholerae (Vi khuẩn tả )
Kb Kilo base
KDa Kilo Dalton
IU International Unit
PCR Polymerase Chain Reaction
SDS Sodium Dodecyl Sulfate
VSV Vi sinh vật
CT Cholerae Toxin ( Độc tố tả )
N.A.G Non Aglutinable Vibrios
NCBI National Center for Biomedical Informatics
m- PCR Multiplex

Polymerase Chain Reaction

Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vibrio cholerae là tác nhân quan trọng nhất gây bệnh dịch tả trên người, đặc biệt
hai serogroup O1, O139 [49], gây chết hàng triệu người mỗi năm trên thế giới [60].

Dịch tiêu chảy cấp đang có chiều hướng gia tăng ở các địa phương ở nhiều địa
phương. Khống chế dịch tả là mục tiêu lớn trong chương trình quốc gia phòng chống
bệnh tiêu chảy của Việt Nam. Với những thành tựu và kinh nghiệm phòng chống dịch tả
trong nhiều năm qua, ngày nay bệnh tả không còn là nỗi khiếp đảm của mỗi người dân,
của các tổ chức chính quyền và xã hội. Các điều kiện chuẩn mực về kiểm soát môi trường
ở nước ta còn lạc hậu. Các vấn đề cung cấp nước, vệ sinh thực phẩm, dinh dưỡng an toàn
và vấn đề xử lý vệ sinh chất thải chưa làm được bao nhiêu, nhiều nơi còn bị buông lỏng
hoặc quên lãng. Bệnh nhân mắc bệnh tả nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp
thời sẽ bị mất nước và chất điện giải dẫn đến tử vong [53].
Bệnh tả lây truyền rất nhanh qua đường tiêu hoá và môi trường (nước, chất nôn,
phân, rác) do vậy việc phát hiện sàng lọc mẫu âm tính nhanh có ý nghĩa hết sức quan
trọng, không những giúp đỡ bệnh nhân có ngay phác đồ điều trị mà còn giúp các nhà dịch
tễ có hướng xử lý khoanh vùng, chủ động trong phòng chống dịch, không để dịch lây lan
rộng trong cộng đồng. Trong đó phương pháp nuôi cấy và phân lập được thực hiện phổ
biến để định danh loài vi khuẩn này và được xem như tiêu chuẩn vàng. Tuy nhiên chi phí
cao, tốn nhiều thời gian và nhân công đồng thời cũng không thể phân biệt một cách chính
xác giữa V. cholerae chủng sinh độc tố và không sinh độc tố [15].
Vấn đề phát hiện nhanh và chính xác V. cholerae là việc làm cần thiết. Cho nên m-
PCR được xem là công cụ hữu hiệu để giúp xác định nhanh Vibrio gây bệnh, nhất là xác
định nhanh các serogroup và biotype của V. cholerae [38]. Đáp ứng với tình hình thực
tiễn kể trên, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: "Chẩn đoán vi khuẩn tả ở người
đến xét nghiệm tại bệnh viện Quân y 103 năm 2013 bằng kỹ thuật PCR".
2. Mục đích nghiên cứu
 Xác định tỷ lệ bệnh nhân dương tính với Vibrio cholerae (V. cholerae) trong giai
đoạn từ tháng 3 năm 2013 đến tháng 7 năm 2013.
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
2
 Phát hiện V. cholerae, xác định nhanh serogroup O1, O139 và hai biotype của V.
cholerae serogroup O1 bằng m-PCR.

3. Nội dung nghiên cứu
Sử dụng các đoạn mồi đặc hiệu để khuếch đại các đoạn gen ctxA, rfbQ, IS1358,
tcpA và rstR mã hóa V.cholerae O1, O139, NAG và độc tố tả (cholera toxin A) bằng phản
ứng chuỗi m-PCR. Quá trình này được lặp lại nhiều lần để tổng hợp hàng triệu bản sao
của đoạn gen từ một vài phân tử ADN ban đầu qua đó có thể phát hiện được các đoạn gen
dưới đèn UV sau khi điện di.




















Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
3
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU

1.1. Tình hình bệnh tả
1.1.1. Tình hình bệnh tả trên thế giới
Bệnh tả được cho là xuất hiện cách đây hàng thế kỷ tại đồng bằng sông Hằng của
các tiểu lục địa Ấn Độ. Thế kỷ thứ XI những đợt dịch tả đã lan tràn tới nhiều vùng trên
thế giới từ Nam Á theo con đường buôn bán, hành hương và di tản. Trong thời gian có đại
dịch, nhiều vụ dịch lớn có tỷ lệ tử vong cao đã xảy ra ở khắp thành thị châu Âu, châu Mỹ.
Năm 1849, có một cuộc điều tra nổi tiếng của John Snow (Bác sỹ người Anh) đã chứng
minh nước là môi trường truyền bệnh tả [48, 51].
Năm 1817 bệnh xuất hiện tại Châu Âu và Mỹ. Đến đầu thế kỷ 20 đã có 6 "làn sóng
bệnh tả" lan khắp thế giới, tiếp đó đến những năm 60 phạm vi "tung hoành" của vi khuẩn
tả đã được "khoanh vùng" và cho đến những năm gần đây chủ yếu bệnh xuất hiện ở Đông
nam Á. Năm 1961 týp "El Tor" gây dịch tại Philippin và tạo "làn sóng thứ bảy". Từ đó trở
đi typ vi khuẩn này tiếp tục gây những vụ dịch tại châu Á, vùng Trung Đông, châu Phi và
một phần châu Âu [2, 5, 10, 57].
Năm 1883, Robert Koch (nhà vi sinh vật người Đức) phân lập thành công vi khuẩn
từ phân của bệnh nhân biểu hiện các triệu chứng của bệnh này. Có tài liệu cho rằng trước
đó 30 năm nhà giải phẫu học người Ý đã phát hiện ra phẩy khuẩn là nguyên nhân gây
bệnh [43]. Các vụ đại dịch đều bắt nguồn từ châu Á, sau đó lan tới các châu lục khác ở
nhiều nước, trong nhiều năm.
Qua các vụ dịch, có một số ghi nhận đáng chú ý về dịch tễ học, sinh bệnh học, điều
trị và phòng chống bệnh tả được tóm tắt như sau:

- Vụ đại dịch thứ nhất: Lần đầu tiên ghi nhận bệnh tả xảy ra dưới dạng một đại dịch, vụ
đại dịch này bắt đầu vào năm 1817 tại khu vực châu thổ sông Hằng, sau đó lan tới nhiều
nước thuộc châu Á và châu Phi [5].
- Vụ đại dịch thứ hai: Lần đầu tiên bệnh tả gây dịch ở Bắc Mỹ năm 1832 tại khu vực
Quebec (Canada), New York, Philadelphia, Washington. Trong vụ đại dịch này, đầu
những năm 1930, O’Shaughnessy là người đầu tiên chứng minh phân của bệnh nhân bị
bệnh tả có tính kiềm và có nồng độ điện giải rất cao. Sau phát hiện có ý nghĩa này, Latta
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương

Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
4
đã điều trị thành công một số bệnh nhân tả mất nước nặng bằng phương pháp tiêm tĩnh
mạch dung dịch chứa muối và điện giải [5, 47].
- Vụ đại dịch thứ 3: Dịch tả lan tới nước Anh, tại Luân Đôn, John Snow đã phát hiện rất
quan trọng về dịch tễ học là bệnh tả lan truyền theo đường nước sinh hoạt bị ô nhiễm và
từ đó đã đề ra biện pháp chống dịch hiệu quả là loại bỏ nguồn nước sinh hoạt không hợp
vệ sinh [17, 27, 61].
- Vụ đại dịch thứ 4: Dịch tả hoành hành dữ dội ở New Orleans và các thành phố, thị trấn
dọc theo triền sông Missippi, Missouri và Ohio của nước Mỹ [1, 5, 62].
- Vụ đại dịch thứ 5: Dịch tả lan tới vùng trung cận đông, sau đó lan tới Nam Mỹ, gây ra
các vụ dịch lớn với tỷ lệ tử vong cao ở các nước Argentina, Chilê và Peru. Tại Ai Cập và
Calcutta (Ấn Độ), Robert Koch đã phân lập được vi khuẩn tả từ phân của bệnh nhân bị
bệnh tả, chỉ một năm sau khi Koch phân lập được vi khuẩn tả, Ferran là người đầu tiên đã
gây miễn dịch dự phòng tả bằng vaccin [12, 45].
- Vụ đại dịch 6: Gây ra các vụ dịch lớn ở vùng Trung Cận Đông và bán đảo Ban Căng, từ
năm 1921 đến năm 1961, ngoài một vụ dịch tả lớn xảy ra ở Ai Cập năm 1961 với 32.978
trường hợp tả, gây tử vong 20.472 người, dịch tả chủ yếu lưu hành ở các nước thuộc khu
vực Đông Nam Á và châu Á, trong 6 vụ đại dịch đầu tiên tác nhân gây bệnh là V.
cholerae O1, týp sinh học cổ điển

do Pacini mô tả đầu tiên phân lập được năm 1854 và
được nhà vi trùng học người Đức Robert Koch khảng định lại năm 1883 [5, 46, 59].
- Vụ đại dịch thứ 7: Tác nhân gây bệnh là V. cholerae O1, týp sinh học El Tor, do
Goschlich lần đầu tiên phân lập được năm 1905 được chia làm 4 giai đoạn sau: Từ năm
1961-1962 dịch tả khu trú ở các đảo thuộc Indonesia và các nước Đông Nam Á, với tổng
số 13.393 người mắc, tử vong 1.977 người [49, 55]. Năm 1963-1969 chỉ trong thời gian
ngắn dịch xuất hiện nhiều nước châu Á: Ấn Độ, Pakistan, Liên Xô cũ, I-Rắc, Việt Nam
bắt đầu có dịch tả El Tor vào tháng 1 năm 1964. Giai đoạn tiếp theo từ năm 1970-1990
theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới có 36 nước có dịch tả, điều đáng chú ý là tại Li

Băng, Syri chủng gây dịch là El Tor Ogawa, trong khi đó ở các nước liền kề như Ả rập-
Xê út, Israel chủng gây dịch lại là El Tor Inaba.Tiếp theo những năm

1991 đến nay điều
đáng chú ý ở nước Trung Mỹ và Nam Mỹ 21/23 nước có bệnh tả, năm 1994 châu Mỹ La
Tinh chiếm 50% số bệnh nhân tả trên toàn thế giới. Tháng 7/1994 xảy ra một vụ dịch tả
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
5
thảm khốc tại trại tị nạn ở Uganda với 58.057 trường hợp bị bệnh tả, tử vong 23.800
người, năm 1996 số người mắc tả ở châu Phi chiếm 60% tổng số các trường hợp mắc tả
trên thế giới [58, 60]. Tháng 12 năm 1992 một vụ dịch lớn lại sảy ra ở nước này. Vi
khuẩn gây bệnh được xác định là V. cholerae O139 "Bengal". Về mặt di truyền, O139
"Bengal" hình thành từ El Tor nhưng cấu trúc kháng nguyên của chúng cũng biến đổi. Tất
cả mọi lứa tuổi (kể cả trong vùng đã có dịch) đều có thể bị nhiễm. Chủng O139 đã gây
bệnh tại ít nhất 11 nước ở Đông nam Á (tính đến năm 2005). Không có số liệu chính xác
số người bị bệnh do O139 vì các nước không thông báo cụ thể các trường hợp bệnh do O1
hay O139 riêng rẽ. Trong những năm cuối thế kỷ 20 dịch tả ngày càng trở nên nghiêm
trọng, bệnh tả xảy ra ở tất cả các châu lục, tập trung chủ yếu ở những nước đang phát
triển, mặc dù y học có những hiểu biết đáng kể về sinh bệnh học và điều

trị bệnh tả nhưng
tỷ lệ tử vong do bệnh tả vẫn ở mức độ cao, đặc biệt là khu vực châu Phi [3, 8, 53].
Những đặc điểm của týp El Tor giúp nó khẳng định khả năng "tiếp tục gây nguy hiểm"
bao gồm: Tỷ lệ nhiễm El Tor thấp hơn nhiều so với tỷ lệ nhiễm týp cổ điển, thời gian
mang trùng sau khi bị bệnh do El Tor dài hơn so với trường hợp nhiễm týp cổ điển, El
Tor có khả năng tồn tại ngoài môi trường tốt hơn, dài hơn týp cổ điển. Chính vì vậy El
Tor có khả năng gây dịch tại cả những nơi Týp cổ điển từng "tung hoành" [7, 36, 50].
Tháng 4 năm 1997, dịch bùng phát trong cộng đồng 90 ngàn người tị nạn Ruanđa ở
Cộng Hoà Công gô. Chỉ trong 22 ngày đầu đã có 1.521 người chết. Đa số các trường hợp

chết đều do không được can thiệp kịp thời. Tại Mỹ, dịch tả xuất hiện vào những năm
1800 sau đó được khống chế do đảm bảo vệ sinh nguồn nước sinh hoạt. Tuy vậy, giao
thông và du lịch tạo điều kiện để bệnh xuất hiện lẻ tẻ. Đa số trường hợp do đi du lịch tại
các nước Mỹ La tinh, châu Phi, châu Á. Một số trường hợp nhiễm bệnh do ăn thức ăn
mang về từ các quốc gia còn lưu hành bệnh [44, 51].

Theo Nguyễn Anh Dũng, tính đến
năm 1991, đại dịch tả lần thứ 7 đã có 91 nước có dịch [6], đến năm 1992 theo Tổ chức Y
tế thế giới đã có ít nhất 98 nước có dịch tả. Nhờ những hiểu biết đáng kể về căn nguyên
gây bệnh, về điều trị và cơ chế miễn dịch bệnh tả mà tỷ lệ tử vong do tả đã giảm xuống
một cách đáng kể chỉ còn 1% - 3% [6]. Phẩy khuẩn V. cholerae O1 bao gồm hơn 60 nhóm
huyết thanh, nhưng chỉ có một nhóm huyết thanh O1 là gây được bệnh tả, V. cholerae O1
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
6
lại gồm 2 sinh týp là sinh týp cổ điển và sinh týp El-Tor, mỗi sinh týp lại gồm 2 týp huyết
thanh (Ogawa và Inaba) [8, 22].
Sinh týp El-Tor gây nên hầu hết các vụ dịch tả gần đây, tuy vẫn còn nhiều vụ dịch
xảy ra ở tiểu lục địa Ấn Độ là do sinh týp cổ điển. Sinh týp El-

Tor có thể sống kết hợp
với một sinh vật dưới nước, làm cho nước trở thành một kho tàng lưu trữ gây nhiễm [31,
54].
Từ cuối năm 1992, dịch tả do V. cholerae O139 đã xuất hiện ở một số nơi thuộc
Đông nam Ấn Độ, sau đó nhanh chóng lan tới Đông Bắc nước này thuộc vịnh
Belgan.Tháng 3/1993 dịch lớn sảy ra ở Bangladesh, tiếp đó xuất hiện ở Miama, Trung
Quốc (Tân Cương, 7/1993), Thailand (8/1993) đến tháng 9 cùng năm đã có nhiều trường
hợp mắc tả V. cholerae O139 ở Malaysia [34].
Người ta đã phân lập được V. cholerae non O1 ở các bệnh nhân tiêu chảy nặng
thuộc 2 cộng đồng ở Florida.Tính gây bệnh đường tiêu hoá ở người và sự đồng nhất hoá

của những chủng này làm nảy sinh những câu hỏi về sự tương quan của những chủng V.
cholerae O1 độc và không độc dọc bờ biển Gulf của hoa Kỳ [39, 56].
Một đánh giá khảo sát trên tất cả các bệnh viện tư nhân ở Recife cho kết quả trong
1.435 mẫu chỉ có 1 mẫu dương tính với V. cholerae El-Tor Inaba (0.07%), 17 mẫu dương
tính (1.2%) gồm V. cholerae non O1, V. fluvialis, V. fumissii, V. parahaemolyticus, V.
spp. và rất ít gặp ở những người có điều kiện xã hội khá, ngay cả khi dịch đang xảy ra
[49].
1.1.2.Tình hình bệnh tả ở Việt Nam
Bệnh tả là nguyên nhân quan trọng gây tiêu chảy cấp ở Việt Nam từ hơn một thế
kỷ qua với 2 triệu trường hợp mắc bệnh tả được thông báo. Năm 1937-1938 dịch tả từ
Hồng Kông theo đường biển xâm nhập vào các tỉnh miền Bắc là Hải Phòng, Móng Cái, từ
đó dịch lan sang theo đường sắt và đường bộ tới nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và Trung
Bộ. Số người mắc lên tới 20.678 người, trong đó số chết là 14.992 người, tỷ lệ tử vong tới
70%. Bệnh tả Eltor lần đầu tiên xuất hiện ở miền Nam năm 1964 với 20.009 người mắc
bệnh, trong đó 821 người tử vong. Từ đó đến nay, ở miền Trung và miền Nam bệnh tả
xảy ra dưới dạng lưu hành, hàng năm có hàng trăm bệnh nhân bị bệnh tả được thông báo.
Năm 1994 sau hàng chục năm vắng bóng, bệnh tả xuất hiện lại ở khu vực Tây Nguyên
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
7
(các tỉnh Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai) với 1.459 bệnh nhân mắc bệnh tả được thông báo
[4]. Dịch tả hiện nay vẫn là gánh nặng đối với ngành y tế và toàn xã hội. Năm 1993 dịch
xảy ra ở 21 tỉnh với 3.460 người mắc bệnh. Năm 1994 dịch xuất hiện ở cả miền Bắc,
Trung, Nam và Tây Nguyên với 4.123 trường hợp bị bệnh. Năm 1995 có 29 tỉnh, thành
phố báo cáo có bệnh nhân mắc tả với 6.088 trường hợp mắc bệnh tả. Năm 1996, cả nước
có 630 trường hợp mắc bệnh tả El Tor ở 19 tỉnh, thành phố. Vài năm gần đây từ 2001-
2002 nước ta vẫn có các trường hợp tả xảy ra, tuy nhiên bệnh không bùng phát thành các
dịch lớn mà chủ yếu là những ca lẻ tẻ ở khắp cả nước. Sau nhiều năm không có dịch tả
xảy ra, năm 2004 dịch tả xuất hiện trở lại với 1 ổ dịch tại Phường Lĩnh Nam, Hoàng Mai
tháng 5/2004 với tổng số 14 trường hợp mắc. Từ 2007-2010 trên địa bàn thành phố Hà

Nội đã ghi nhận 5.903 người bệnh có dấu hiệu lâm sàng của bệnh tả, trong đó 35 người
bệnh được chẩn đoán xác định bệnh tả, không có tử vong [4].
So với nhiều dịch bệnh mới xuất hiện và đang diễn biến phức tạp hiện nay, bệnh
tiêu chảy cấp nguy hiểm không phải là bệnh khó kiểm soát, dịch bệnh có thể bùng phát
khi có đủ ba mắt xích liên kết với nhau (nguồn bệnh, đường lây, sức cảm thụ), cả 3 mắt
xích này đã được xác định rất rõ bởi các nhà dịch tễ học. Qua số liệu nghiên cứu của Viện
Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, có thể khẳng định vi khuẩn tả xuất phát từ thực phẩm.



Hình 1.1. Tình hình bệnh tả tại Việt Nam từ năm 2002 – 2011 [427]
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
8

Hình 1.2. Phân bố ca bệnh tả tại Việt Nam, 2007 – 2011 [4]
1.2. Vi khuẩn tả

Hình 1.3. Hình thái ngoài vi khuẩn tả V. cholerae [4]
Miền Bắc:
3.477 ca
95,3%
Miền Trung:
1 ca
0,02%
Tây Nguyên:
0 ca
0%
Miền Nam:
170 ca

4,7%
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
9
1.2.1. Đặc điểm hình thái
V.cholerae là loại vi khuẩn hình que hơi cong, Gram âm, không có vỏ, không sinh
nha bào, có một lông ở đầu và có khả năng di động rất mạnh. Hiếm khi có thể phát triển
tốt trong môi trường kiềm (pH 8,5-9,5) và nồng độ NaCl cao (3%) [32, 64].
V. cholera có sức đề kháng yếu với các tác nhân lý hóa, trừ pH kiềm. Tuy nhiên có
thể sống một vài giờ trong phân và một số ngày trong nước. Nhiệt độ phát triển tối ưu ở
37
o
C trên nhiều loại môi trường nuôi cấy có muối khoáng và asparagine là nguồn carbon
và nitrogen. Chúng phát triển trên thạch đĩa tạo khuẩn lạc lồi, nhẵn và tròn, có màu vàng
nhạt.
1.2.2. Phân loại
Loài V.cholerae thuộc giống Vibrio, họ Vibrionaceae. Loài này có kháng nguyên
lông (H) giống nhau. Căn cứ vào sự khác nhau của kháng nguyên thân (O), V.cholerae
được phân chia thành hơn 200 nhóm. Trước năm 1992, căn nguyên của tất cả các dịch tả
trên thế giới đều thuộc nhóm O1. Năm 1992, xuất hiện một nhóm huyết thanh mới gây
tiêu chảy với cơ chế hoàn toàn giống V.cholerae O1, đó là V. cholerae O139. Vi khuẩn
này lần đầu tiên được phát hiện trong một vụ dịch ở Madras, Ấn Độ, sau đó đã gây ra
những vụ dịch lớn ở nhiều nước trên thế giới. V.cholerae O139 không ngưng kết với
kháng huyết thanh O1, ngưng kết với kháng huyết thanh O139, chủng này có vỏ. Dựa vào
thành phần kháng nguyên, V.cholerae O1 được chia thành 3 týp huyết thanh: Ogawa,
Inaba, Hilojima. Dựa vào tính chất sinh học, vi khuẩn tả này được gọi tắt là V.cholerae
và V.cholerae sinh typ El Tor. Vụ dịch tả thứ 5 và thứ 6 do V.cholerae nhóm huyết thanh
O1và týp cổ điển [17, 43]. Tuy nhiên vụ dịch thứ 7 do V.choleraenhoms huyết thanh O1
và El Tor gây ra. V.cholerae O139 được giả thiết có nguồn gốc từ V.cholerae O1 sinh typ
El Tor. Một trong những cơ sở của giả thiết đó là độc tố ruột của V.cholerae O139 rất

giống với độc tố ruột của V. Eltor [60]. Tuy nhiên V. cholera O139 có những điểm khác
với V.cholerae O1 về cấu trúc di truyền và một số tính chất khác. Sự khác biệt quan trọng
nhất là V.cholerae O139 không có các gen kiểm soát quá trình tổng hợp kháng nguyên O1
vì vậy nó không bị ngưng kết bởi kháng huyết thanh O1 [31, 33].


Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
10
1.2.3. Kháng nguyên và cấu trúc lớp vỏ vi khuẩn
Sự thay đổi tính chất kháng nguyên là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu dịch tễ
và độc lực của vi khuẩn. Đối với vi khuẩn tả, khả năng gây thành dịch của chủng Bengal
nói trên là môt ví dụ minh hoạ. Nhiều loại vi khuẩn khác trong môi trường nước cũng có
kháng nguyên roi như vi khuẩn tả vì vậy không thể căn cứ vào loại kháng nguyên này để
phân biệt. Týp huyết thanh phẩy khuẩn đã được phân biệt dựa trên đặc điểm vào kháng
nguyên O (kháng nguyên vỏ). Hầu hết các chủng vi khuẩn tả đều không có độc tính.
Chủng Bengal gây thành dịch được định danh là O1. Tuy vậy có tới 3 týp sinh học của O1
được gọi tên Ogawa, Inaba và Hikojima. Mỗi chủng trong 3 loại này có khả năng thể hiện
đặc tính của chủng cổ điển hay của El Tor. Chủng Bengal O139 là chủng huyết thanh mới
có kháng nguyên O đặc thù. Đặc tính kháng nguyên đặc thù của Bengal O139 có thể giúp
chúng ta giải thích vì sao cơ thể không có miễn dịch sau khi bị bệnh [5].
Các kháng nguyên vỏ của phẩy khuẩn gồm:
 Týp Ogawa có kháng nguyên A và B

Týp Inaba có kháng nguyên A và C

 Týp Hikojima có kháng nguyên A, B, C.
 Týp sinh vật: Chủng V. cholerae O1 được chia thành 2 týp sinh vật là týp cổ điển
và týp El Tor.


Bảng 1. Phân lập V. cholerrae týp cổ điển và týp El tor

Tính chất V. cholerae
V. cholerae
týp cổ điển
V. cholerae
týp Eltor
Làm tan hồng cầu cừu Nhậy

Kháng

Ngưng kết hồng cầu gà -

+
Polymixin B 50đv -

+
Phage IV Nhậy

Kháng


1.2.4. Độc tố của vi khuẩn tả
Độc tố của vi khuẩn tả thuộc loại ngoại độc tố. V. cholerae sinh ra rất nhiều sản
phẩm ngoại tế bào. Đặc điểm tiêu chảy mất nhiều nước là do độc tố ruột gây ra được gọi
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
11
là độc tố tả cholerae toxin (CT). Những nghiên cứu trên người tình nguyện cho thấy CT là
nguyên nhân chủ yếu gây bệnh tả, tuy nhiên các chủng tả nếu loại bỏ gen mã hoá CT vẫn

có thể xảy ra tiêu chảy nhẹ hoặc vừa ở nhiều cá thể. Điều này có thể suy ra còn có những
yếu tố nào đó hay loại độc tố nào khác ngoài CT. Độc tố tả được Robert Koch mô tả từ
năm 1884 khi ông cho đó là một chất độc đặc biệt tác động lên tế bào biểu mô ruột. Năm
1959 có hai nhà khoa học nghiên cứu độc lập tại Ấn Độ là De và Dutta đã đưa canh khuẩn
tả vào ruột thỏ và 10 năm sau Finkelstein và LoSpalluto đã tinh chế được độc tố này cho
phép nhiều nhà khoa học nghiên cứu về lĩnh vực cấu trúc, thụ thể bám và cơ chế tác dụng
của CT [43].
Cấu trúc độc tố tả bao gồm hai tiểu phần A và B, tiểu phần B có tác dụng bám dính vào
thụ thể đặc hiệu của tế bào biểu mô ruột, tiểu phần A có chức năng enzym đặc hiệu có khả
năng chui vào tế bào chủ. Độc tố CT bao gồm 5 tiểu phần B và một tiểu phần A, tiểu phần
B trưởng thành có 103 acid amin và có trọng lượng phân tử 11.5 KDa, tiểu phần A có
trọng lượng phân tử 29 KDa gồm 2 chuỗi polypeptide (A1 có trọng lượng phân tử 23.5
KDa và A2 có trọng lượng phân tử 5.5 KDa), hai tiểu phần nối với nhau bằng cầu disulfit.
Bản chất miễn dịch học của độc tố tả CT giống hệt độc tố ruột không chịu nhiệt của
E. coli sinh độc tố [6].
Khi theo nước uống hay thức ăn vào trong dạ dày, vi khuẩn chịu tác động của dịch
dạ dày có độ pH thấp (môi trường axit). Những vi khuẩn sống sót sẽ tiếp tục xuống ruột
non. Ở ruột non, vi khuẩn có khả năng tồn tại rất tốt. Phẩy khuẩn có khả năng kháng tác
động của muối mật, xâm nhập qua lớp màng nhầy trên niêm mạc ruột. Quá trình xâm
nhập được hỗ trợ bởi enzyme tan nhầy và các enzyme phân cắt protein thành các peptide.
Do khả năng "tự bơi", vi khuẩn có thể chuyển động ngược chiều với nhu động ruột để tiếp
cận với niêm mạc ruột nhờ đặc điểm hoá hướng động của chúng. Khả năng gắn kết và cố
định vào tế bào niêm mạc có thể được hỗ trợ bởi các "sợi lông" của chúng kết lại thành bó
ở một đầu vi khuẩn. Các sợi này được gọi là toxin coregulated pili là các sợi phối hợp
điều hoà độc tố. Biểu hiện các gene của các lông này liên quan đến gene quyết định độc tố
của vi khuẩn. Chúng ta chưa có hiểu biết đầy đủ về tác động qua lại giữa các toxin
coregulated pili với tế bào vật chủ. Các thụ quan trên về mặt tế bào tiếp nhận các sợi này
cũng chưa được xác định. Chuỗi amino acid của coregulated pili tương tự như N-
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013

12
methylphenylalamine pili của Pseudomonas và Neisseria. Enzyme tan nhầy của phẩy
khuẩn giúp chúng phân giải các protein như fibronectin, lactoferrin và phân giải chính độc
tố của nó. Vai trò của enzyme trong cơ chế gây độc vẫn còn là câu hỏi vì đột biến gene
của enzyme này vẫn không làm giảm độc lực của vi khuẩn. Có giả thuyết cho rằng
enzyme tan nhầy có tác dụng giúp vi khuẩn tách khỏi tế bào chứ không hỗ trợ quá trình
gắn kết vì vi khuẩn có xu hướng tách khỏi các tế bào trần để tìm đến những tế bào khác
mới [26].
1.2.5. Khả năng gây bệnh
Có 2 mốc quan trọng trong sinh bệnh học của bệnh tả. Năm 1884 Robert Koch
phát hiện ra phẩy khuẩn tả ở Ai Cập và 100 năm sau Finkenstein phân lập được độc tố tả
cholarae enterotoxin (choleragen). Để hiểu sinh bệnh học bệnh tả, cần biết sự tiêu hoá
bình thường diễn ra như thế nào [27].
- Thức ăn từ miệng xuống dạ dày được các dịch vị tác động, chuẩn bị một bước
cho ruột non có thể hấp thụ. Một tín hiệu được truyền đến tế bào của tá tràng để tiết ra 1-
1,5 lít nước và điện giải cộng với chất tiết của mật và dịch tụy, tạo ra một thể lỏng gọi là
dưỡng chất để ruột non hấp thu được. Ruột non có cấu tạo rất đặc biệt để có diện hấp thu
rất rộng (75.000 cm
2
) mỗi ngày 5-10 lít dịch.
- Quá trình sinh bệnh của phẩy khuẩn tả diễn ra như sau:
+ Đầu tiên vi khuẩn được nuốt vào cùng với nước hoặc thực phẩm nhiễm khuẩn, nếu vượt
qua được tác động của acid chlohydric trong dạ dày thì sẽ tiến sâu hơn, bám vào chân của
các tuyến tá tràng và sau 7 giờ thì bao phủ toàn bộ bề mặt tá tràng, rồi đến khu trú tại ruột
non. Vi khuẩn tả gây bệnh phải có những đặc tính cần thiết cho tiến trình định cư và phát
triển tại ruột, gồm các khả năng di động, sản xuất độc tố và yếu tố kết dính để định cư.
+ Giai đoạn hoạt động của độc tố vi khuẩn: Trước tiên độc tố phải gắn vào bề mặt tế bào
niêm mạc ruột. Khi đó thành phần B sẽ gắn với các thụ thể của chúng là GM1 ganglioside
trên màng tế bào, thành phần A sẽ xuyên qua màng tế bào và cầu nối disulfit bị thuỷ phân
tách rời 2 mảnh A1, A2. Mảnh A1 kích thích sự chuyển đổi ADP ribosome từ NAD

(Nicotinamid Adenin Dinucleotid) thành GTP gắn protein có khả năng kiểm soát hoạt
động của adenyl cyclase. Điều này dẫn đến sự gia tăng AMP vòng gây ra sự xuất tiết
nước đẳng trương từ tế bào biểu mô niêm mạc ruột vào lòng ruột non. Nếu khối lượng
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
13
nước tiết ra quá lớn, vượt xa khả năng tái hấp thu của ruột già sẽ gây hiện tượng ỉa chảy
dữ dội. Sự tích tụ AMP vòng làm việc bài tiết nước, điện giải tăng lên gấp nhiều lần tới
mức 10-20 lít nước/24 giờ. Mất nước, điện giải (Na
+
, K
+
, Cl
-
), muối bicarbonate với số
lượng lớn như vậy tạo ra triệu chứng đầy đủ của bệnh tả: nôn, gầy rộc, mắt trũng, huyết
áp tụt, người lạnh giá, ỉa toé nước, nhiễm toan huyết và chết rất nhanh nếu không bồi phụ
nước, điện giải và bicarbonate kịp thời [18].

Hình 1.4. Biểu đồ khu trú của vi khuẩn trong ruột [4]
Điều đặc biệt quan trọng cần nhớ là độc tố của phẩy khuẩn tả không ức chế hay ngăn cản
sự tái hấp thu natri và nước của ruột non và ruột già, không ảnh hưởng đến tính thấm của
protein huyết thanh, sự hấp thu chủ động đường đơn (glucose) hay acid amin. Tác dụng
của độc tố không gây tổn thương thực thể trên màng ruột non (phản ánh là phân tả có rất
ít protein và không có hồng cầu, bạch cầu). Các hạt lợn cợn trong phân tả có dạng như
“nước vo gạo” là do sự phóng thích các chất nhầy từ tế bào hình chén của thành ruột. Độc
tố tả vào trong tế bào ruột khoảng 10 phút thì kích hoạt tế bào tăng thải nước và điện giải
tối đa trong 2 giờ sau đó chức phận của tế bào ruột hoàn toàn bình thường. Vì vậy cho
uống nước, điện giải ruột vẫn hấp thu được, nếu bù kịp sẽ cứu sống bệnh nhân.
Trên thực nghiệm cần phải có một số lượng rất lớn Vibrio cholerae từ 103-106 mới

có thể gây bệnh tả trên người khoẻ mạnh, nếu trung hoà môi trường acid dạ dày chỉ cần
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
14
10 vi khuẩn là đủ để gây bệnh cho tỷ lệ 50% người bình thường. Vài dữ kiện cho thấy có
sự giảm khả năng sản xuất acid dạ dày trên bệnh nhân tả. Điều này có thể do phẩy khuẩn
tả có khuynh hướng chọn lựa những bệnh nhân ít khả năng sản xuất dịch vị để gây bệnh
hoặc do bệnh tả đã ảnh hưởng đến sự điều hoà tiết acid dịch vị. Vì vậy, mặc dù bệnh cảnh
chính yếu của sự mất nước trong dịch tả đã được hiểu rõ, người ta nghĩ rằng hãy còn
nhiều vấn đề cần được tìm hiểu rõ ràng hơn nữa [56].

Hình 1.5. Cơ chế gây bệnh của Vibrio bên trong cơ thể người [4]
- Khả năng đề kháng của cơ thể
+ Đề kháng không liên quan đến miễn dịch: phẩy khuẩn tả một khi muốn
gây bệnh tại tế bào thượng bì niêm mạc ruột non cần phải qua nhiều hàng rào của cơ thể.
+ Môi trường acid của dạ dày: người ta đã chứng minh được qua thực
nghiệm trên những người tình nguyện uống phẩy khuẩn tả là có sự khác biệt gấp 1 triệu
lần về số lượng vi khuẩn cần để gây bệnh trên bệnh nhân có acid dạ dày bình thường với
bệnh nhân có acid dạ dày đã được trung hoà.
+ Phức hợp gồm nhu động ruột với tác động đẩy ra.
+ Sự cạnh tranh với các vi khuẩn chính của ruột.
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
15
- Đáp ứng miễn dịch có hệ thống: kháng thể đối với kháng nguyên O đặc hiệu,
kháng nguyên H, miễn dịch chống nhiễm độc tố (nhưng ở mức độ không đủ bảo vệ).
- Đáp ứng miễn dịch tại chỗ: trên bề mặt niêm mạc ruột lớp kháng thể sẽ đóng vai
trò quan trọng để chống lại sự nhiễm bệnh, kháng thể chống lại kháng nguyên O có thể
gây hiện tượng kết cụm và bất hoạt vi khuẩn.
Người là ổ chứa vi khuẩn tả quan trọng và cũng là nguồn bệnh, bao gồm người

mắc bệnh thể điển hình hoặc các thể nhẹ, không điển hình và người mang mầm bệnh
không triệu chứng (còn gọi là người lành mang trùng). Sau vụ dịch tả có một tỷ lệ nhỏ
(khoảng 3-5%) bệnh nhân các thể có khả năng mang vi khuẩn tả kéo dài một vài tháng,
đôi khi kéo dài hàng năm nếu không được điều trị đặc hiệu đúng quy định.
Vi khuẩn tả có thể tồn tại lâu dài ở một số loài nhuyễn thể (trai, sò, ngao ) vùng
cửa sông hay ven biển. Đây là ổ chứa thiên nhiên của vi khuẩn tả ngoài ổ chứa quan trọng
là người [20]. Tác nhân gây bệnh tả là V. cholerae lần đầu tiên được Pacini người Ý mô tả
năm 1854 khi ông tìm thấy rất nhiều vi khuẩn hình cong trong ruột của bệnh nhân bị tả.
Năm 1883 Robert Koch cũng tìm thấy tác nhân có hình thể tương tự khi ông nghiên cứu
bệnh tả ở Ai Cập, ông mô tả vi khuẩn có hình dấu phẩy và Koch đặt tên là Vibrio comma,
tên này được dùng mấy chục năm trước khi người ta đổi tên là V. cholerae, để tưởng nhớ
ông Pacini, V. cholerae được xác định rất rõ thông qua các tính chất sinh vật, hoá học và
sự đồng nhất của DNA, tuy nhiên chúng không đồng nhất về khả năng gây bệnh, điều này
đặc biệt quan trọng vì các chủng gây bệnh mới có khả năng sinh độc tố ruột và gây dịch
[19, 20]. Một sự phân biệt đơn giản trong y tế cộng đồng là V. cholerae thuộc nhóm huyết
thanh O1 có khả năng sinh được độc tố, còn lại tất cả các nhóm khác thì không có khả
năng gây bệnh hoặc rất hiếm khi gây bệnh. V.cholerae O1 thuộc nhóm huyết thanh O1 có
khả năng sinh độc tố và gây thành đại dịch tả, tuy nhiên có một số ít chủng không sinh ra
độc tố và không có gen mã hoá độc tố. Các chủng ở môi sinh không có khả năng sinh độc
tố và không gây bệnh, ngoại lệ có một só chủng V. cholerae O1 phân lập được ở một số
bệnh nhân tiêu chảy hoặc nhiễm trùng ngoài đường tiêu hóa, V. cholerae O1 gồm 3 týp
huyết thanh là Inaba, Ogawa và Hikojima và bao gồm hai sinh týp khác nhau là sinh typ
cổ điển và sinh týp El tor.
Luận văn thạc sĩ khoa học Trương Thị Lan Hương
Chuyên ngành Vi sinh vật học Khóa 2011-2013
16
Những năm gần đây, khi các vụ dịch tả do V.cholerae O139 gây ra, việc định danh
tất cả các chủng V. cholerae đều dựa trên tính chất sinh vật hoá học, sau đó nếu chủng nào
không ngưng kết với O1 thì được gọi là “Vibrio cholerae - không O1”, sau này được đổi
thành Vibrio không gây tả hoặc “nhóm Vibrio không ngưng kết” [11, 51]. Hiện nay các

nhóm này thuộc các nhóm huyết thanh từ O2 - O138, không có khả năng gây dịch tả.
Nhóm Vibrio này đôi khi gây tiêu chảy do liên quan đến ăn hải sản, hoặc các nhiễm trùng
ngoài đường tiêu hoá như vết thương Vụ dịch tả xảy ra vào đầu năm 1993 tại Ấn Độ và
Bangladaesh do một loại Vibrio non O1 gây ra, đó là V. cholerae O139 còn gọi là Vibrio
Bengal [38, 21]. Nhìn chung đây là một chủng lai giữa V. cholerae O1 và Vibrio cholerae
- non O1 và điều quan trọng là độc lực của nó là độc tố ruột và kháng nguyên nhung mao
đồng điều hoà độc tố, tuy nhiên chủng O139 giống với sinh týp ElTor hơn. Dựa vào độc
tính vi khuẩn V. cholerae O1 có thể chia thành 2 nhóm chính theo huyết thanh
(serogroups) đó là O1 và O139. Nhóm O1 có hai týp sinh học (biotype) ElTor và cổ điển.
El Tor là tên của một trạm y tế ở Ai cập nơi mà týp vi khuẩn này được phát hiện trong đại
dịch năm 1907, hiện nay Eltor là thủ phạm chính của các trận dịch tả trên thế giới. Mỗi
týp sinh học Eltor hay cổ điển có thể chia thành 3 nhóm nhỏ theo huyết thanh là Ogawa,
Inaba, Hikojima, mỗi nhóm còn có thể chia thành nhóm nhỏ hơn dựa vào kháng nguyên
(antigen) A, B hay C. Bệnh tả lây theo đường tiêu hóa, chủ yếu qua ăn uống. Vi khuẩn tả
xâm nhập vào đường tiêu hóa của người lành từ 2 nguồn chính: Thức ăn, nước uống ô
nhiễm phân có vi khuẩn tả và thức ăn có nguồn gốc thủy hải sản cửa sông, ven biển có
chứa các thể tiềm sinh lâu dài của vi khuẩn tả. Bệnh tả lây mạnh nhất ở giai đoạn toàn
phát của bệnh. Thời gian thải vi khuẩn thường kéo dài khoảng 1 tuần sau khi hết tiêu chảy
cấp. Một số ít bệnh nhân có thể gây nhiễm sau mắc bệnh nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng
do khả năng đào thải vi khuẩn tả từng đợt theo phân. Các yếu tố lây truyền vi khuẩn tả là
nước, thực phẩm tươi sống, thực phẩm đã qua chế biến, bàn tay, dụng cụ ăn uống, đồ
dùng cá nhân và ruồi nhặng bị nhiễm phẩy khuẩn tả. Những yếu tố nguy cơ làm tăng khả
năng lan truyền bệnh tả là mật độ dân cư đông đúc, đời sống kinh tế, xã hội và dân trí
thấp, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo, nguồn nước sinh hoạt khan
hiếm, thiếu nhà vệ sinh hợp tiêu chuẩn, vệ sinh môi trường không tốt, thực hành vệ sinh
cá nhân kém, khu vực bị lũ lụt và sau lũ lụt. Mọi người đều có thể nhiễm vi khuẩn tả [4,

×