Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.81 KB, 26 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A - Mở đầu
Trong thời gian hiện nay, loài ngời đang bị cuốn hút vào một quá trình
mang tính chát quốc tế bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính
trị xã hội của thế giới đó là quá trình toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá đang là một xu
thế tất yếu khách quan của mọi thời đại, tác động một cách toàn diện đến mọi
dân tộc, nó đặt mỗi quốc gia trớc những thời cơ và cả những thách thức to lớn. Để
tham gia vào quá trình toàn cầu hoá các nớc phải tích cực tham gia vào quá trình
hội nhập vào nền kinh tế thế giới . Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá đòi hỏi
các quốc gia phải có chiến lợc hội nhập phù hợp. Trong bối cảnh này không thể
phát triển nếu không hội nhập.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong
những xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Nó không chỉ tạo ra
khả năng và điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế mà còn là một thách thức
gay gắt đối với các nớc, nhất là những nớc đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới chuyển sang phát triển nền kinh tế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia hội nhập và nền
kinh tế quốc tế là một nội dung, một khía cạnh quan trọng của công cuộc đổi
mới hiện nay. Chúng ta đang dần từng bớc hội nhập vào nền kinh tế thế giới để
nhằm đa đất nớc thoát khỏi sự đói nghèo và tụt hậu với thế giới, nâng cao thế và
lực của Việt Nam trên trờng quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề hội nhập
nền kinh tế thế giới là một vấn đề mang tính chiến lợc, đó thực sự không chỉ là
mối quan tâm chung cho các nhà quản lý, riêng cấp, ban, ngành lĩnh vực nào mà
là mối quan tâm chung cho tất cả mọi ngời.
Đề tài Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là một đề tài lớn
có ý nghĩa quan trọng. Với những hạn chế trong năng lực của em và phạm vi của
đề tài thì chắc chắn đề án sẽ còn những thiếu sót, bởi vậy em rất mong thầy sẽ
đóng góp, bổ sung y kiến những thứ thiếu sót để đề tài này đợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


B - Nội dung
I - Một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế
1. Quan niệm về toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vợt
qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế trong sự vận động và phát triển hớng tới một nền kinh tế thế giới thống
nhất. Sự gia tăng của xu thế này đợc thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô
mậu dịch thế giới, sự lu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn
cầu.
2. Bản chất của toàn cầu hoá.
Cũng nh bất kỳ hiện tợng chính trị - kinh tế - xã hội nào khác, toàn cầu hoá
phản ánh tơng quan lực lợng giữa các nớc, các lực lợng tham gia vào quá trình
đó. Trong thời kỳ chủ nghĩa t bản còn thống trị toàn thế giới thì điều đơng nhiên
là quá trình quốc tế hoá chịu sự chi phối hoàn toàn của các tập đoàn t bản. Trong
thời kỳ hệ thống XHCN thế giới tồn tại, quan hệ quốc tế bị chi phối bởi sự hợp
tác và đấu chanh giữa hai nền kinh tế: t bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Từ
sau khi Liên Xô tan rã, chủ nghĩa xã hội ở các nớc Đông Âu, tơng quan lực lợng
trên thế giới thay đổi không có lợi cho các lực lợng cách mạng. Về kinh tế, các
nớc công nghiệp phát triển, nhất là Mỹ chi phối nền kinh tế thế giới, từ sản xuất
tới vốn, công nghệ, xuất khẩu, dịch vụ, thông tin, giữ vai trò chủ chốt trong nhiều
tổ chức kinh tế quốc tế, từ đó tìm mọi cách áp đặt quyền thống trị, các luật chơi
có lợi cho họ.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều ngời nói tới tính chất đế quốc của quá
trình toàn cầu hoá hiện nay. Heinz Dieterich, chuyên gia nghiên cứu chiến lợc
thuộc trung tâm nghiên cứu quốc tế của Hoa Kỳ, khi phân tích toàn cầu hoá đã
cho rằng, nhu cầu bành trớng của xã hội t bản ở thế kỷ XVIII XIX đợc thể
hiện thông qua chủ nghĩa thực dân, ở thế kỷ XX thông qua chủ nghĩa đế quốc và
hiện nay nó núp bóng dới cái gọi là toàn cầu hoá.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Mặt khác cũng cần thấy rằng không phải chủ nghĩa đế quốc có thể làm ma
làm gió, muốn làm gì thì làm. Trên vũ đài quốc tế và các tổ chức quốc tế luôn
diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa các nớc công nghiệp phát triển và đang phát
triển, giữa các lực lợng tiến bộ và các lực lợng đế quốc, vì vậy không ít thoả
thuận phản ánh sự đấu tranh và thoả hiệp giữa các lực lợng đó. Chính vì thế, đại
hội lần thứ IX đã vạch rõ: Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan lôi
cuốn ngày càng nhiều nớc tham gia, xu thế đang bị một số nớc phát triển và các
tập đoàn kinh tế t bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa
có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác ,vừa có đấu tranh.
3. Cơ sở khách quan của xu thế toàn cầu hoá.
Thứ nhất là sự phát triển cao của lực lợng sản xuất.
Quốc tế hoá có cơ sở từ chính sự phát triển của sản xuất, nó ra đời gắn liền
với sự hình thành của thị trờng quốc tế. Trong những thế kỷ trớc chính do lực l-
ợng sản xuất phát triển đã làm cho thơng mại phát triển và đầu t có tính chất quốc
tế, kéo theo đó là qúa trình di dân , lao động và giao dịch tài chính phát triển
mạnh mẽ vợt biên giới quốc gia.
Tron thời kỳ đầu quá trình quốc tế hoá, các hoạt dộng kinh tế giữ các quốc
gia mang nặng tính chất phụ thuộc một chiều. Các quốc gia kém phát triển thực
hiện cung cấp nguyên liệu cho các quốc gia phát triển cao hơn và thờng là các n-
ớc thuộc địa phụ thuộc chính quốc. Mỗi quốc gia phát triển cao hơn đề tìm cách
tạo lập cho mình một khu vực thuộc địa và thực hiện bảo hộ trong khu vực đó.
Thế giới bị chia cắt thành nhiều khu vực thuộc địa và phụ thuộc khác nhau chịu
ảnh hởng của từng quốc gia phát triển hơn, chủ yếu là Pháp, Hà Lan, Anh... Quan
hệ giữa các khu vực này luôn bị kiểm soát và hạn chế nhằm bảo vệ sự ảnh hởng
và quyền lợi của các cờng quốc thực dân.
Tuy vậy, do sự phát triển mạnh mẽ của lực lợng sản xuất cùng với ý thức
độc lập đã đa lại sự phát triển mới của phân công lao động.Các quốc gia trớc là
phụ thuộc sau khi giành đợc độc lập chủ động tham gia vào quá trình phân công
lao động quốc tế, tạo ra điều kiện cho sự phát triển hơn nữa của quá trình quốc tế
hoá. Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc giữa các nớc phát triển và kém phát triển

3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
từ đặc trng phụ thuộc một chiều chuyển dần sang quan hệ tơng hỗ phụ thuộc lẫn
nhau.
Thực tiễn phát triển của nền kinh tế thế giới đang cho thấy bớc chuyển,bớc
quá độ từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.Hiện nay ở các quốc
gia Bắc Mỹ và một số quốc gia phát triển Tây Âu các lĩnh vực kinh tế tri thức đã
chiếm khoảng 45 - 50% GDP, trong các nớc OECD kinh tế tri thức chiếm gần
50% GDP.
Sự phát triển của lĩnh vực kinh tế tri thức dựa trên các công nghệ có hàm l-
ợng khoa học - kỹ thuật cao, nhất là công nghệ thông tin đã mở ra điều kiện thuật
lợi cho sự đẩy mạnh su thế toàn cầu hoá. Nh vậy chính sự phát triển nh vũ bão
của khoa học kỹ thuật đã làm phá vỡ hàng giào ngăn cách địa giới trong giao dịch
của con ngời trên tất cả các mặt giữa các quốc gia. Điều này đã đẩy quốc tế hoá
kinh tế lên một thời kỳ mới, thời kỳ toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Các quốc
gia dù muốn hay không đều chịu tác động của quá trình toàn cầu hoá và đơng
nhiên để tồn tại, phát triển trong điều kiện ngày nay không thể không tham gia
vào quá trình toàn cầu hoá, tức là phải hội nhập quốc tế.
Thứ hai là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trờng.
Kinh tế thị trờng phát triển đã mở ra điều kiện cho sự gia tăng xu thế quốc tế
hoá thể hiện trên hai khía cạnh chính. Thứ nhất kinh tế thị trờng mở ra cơ sở điều
kiện cho sự phát triển của lực lợng sản xuất làm cho quy mô sản xuất không bó
hẹp trong phạm vi từng quốc gia mà mang tầm quốc tế, nh vậy cũng có nghĩa là
thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế, gắn các quốc gia vào trong sự
giàng buộc của sản xuất và tiêu thụ. Thứ hai kinh tế thị trờng phát triển ở các
quốc gia đa lại cơ chế thống nhất cho xử lý các mối quan hệ kinh tế, đó là cơ chế
thị trờng. Với sự cùng tồn tại cơ chế thị trờng trong các nền kinh tế, có nghĩa rằng
cùng tồn tại cơ chế , phơng thức phân bổ các nguồn lực từ sức lao động, đến t liệu
sản xuất...Điều này rõ ràng là có ý nghĩa cho thúc đẩy đầu t giao dịch thơng mại
và tiếp nhận nguồn lao động. Có thể nói ngày nay nền kinh tế thế giới thống nhất

ở cơ chế vận hành: cơ chế thị trờng. Đây chính là cơ sở cho sự gia tăng của xu thế
toàn cầu hoá.
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trờng không chỉ ở sự mở rộng quy
mô về không gian, về sự xâm nhập ràng buộc lẫn nhau giữa các thị trờng mà còn
thể hiện ở sự phát triển theo chiều sâu, đó là sự bùng nổ phát triển của thị trờng
tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt công cụ mới trong thanh toán giao
dịch. Nh vậy có thể thấy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trờng chính là cơ
sở, là điều kiện cho quá trình quốc tế hoá. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới
ngày nay đều dựa trên cơ chế thị trờng, sử dụng các phơng tiện và công cụ của
kinh tế thị trờng trong hoạt động kinh doanh, đa lại một không gian rộng lớn,
không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lu chuyển các yếu tố của
chính quá trình sản xuất ấy.
Thứ ba là sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết
thúc chiến tranh lạnh, bớc vào thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển.
Sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong những thập kỷ sau chiến tranh
thế giới thứ hai dới tác động của các quy luật thị trờng cũng đã đẩy đến tình trạng
phân hoá giầu nghèo một cách sâu sắc. Đây là vấn đề có tính toàn cầu mà để giải
quyết nó cần có sự phối hợp cố gắng của tất cả các quốc gia giầu cũng nh nghèo.
Nhìn chung các vấn đề toàn cầu đều có quan hệ nhân quả với nhau, cho nên phải
có quan điểm tổng thể khi giải quyết và đòi hỏi phải có nỗ lực của mọi quốc gia.
Trong bối cảnh chiến tranh lạnh thị trờng thế giới bị chia cắt không cho phép các
quốc gia thống nhất hành động, liên kết sức mạnh. Với sự kết thúc chiến tranh
lạnh, sự phân thế giới thành hai cực đối lập đã và đang chuyển sang trật tự theo h-
ớng đa cực, thế giới vận động trong xu thế hoà dịu hợp tác và phát triển từ cuối
những năm 80 đã mở ra cơ hội trên thực tế thực hiện phối hợp nguồn lực để giải
quyết các vấn đề toàn cầu. Đây cũng đợc xem là cơ sở quan trọng cho gia tăng
mạnh mẽ xu thế quốc tế hoá lên một trình độ mới, đó là toàn cầu hoá.
4. Các đặc trng cơ bản của toàn cầu hoá.

Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tạo nên nhiều sự liên kết giữa các nền
kinh tế quốc gia, đẩy tới mức độ chuyên sâu của phân công lao động quốc tế:
Cùng với sự phân công theo sản phẩm ngày càng phát triển sự phân công theo chi
tiết sản phẩm. Các nền kinh tế quốc gia quan hệ chằng chịt, đan xen lẫn nhau đến
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mức tạo ấn tợng rằng nền kinh tế thế giới là một mạng lới khổng lồ, rất đa
dạng, không thuần nhất, trong đó nền kinh tế quốc gia là những điểm nút vừa bảo
vệ tính tự chủ, vừa tác động lẫn nhau và chịu ảnh hởng của cả mạng lới. Về cơ
chế quản lý, ở tầm vĩ mô cũng nh vi mô xuất hiện những sáng kiến mới phù hợp
với đặc điểm mới của nền kinh tế thế giơi. Những tiến bộ về khoa học - công
nghệ, về tổ chức sản xuất và quản lý đã tạo ra năng suất lao động cao hơn, hiệu
quả kinh tế lớn hơn, làm cho lợi nhuận của CNTB đạt mức tối đa cha từng có.
Đi liền với toàn cầu hoá, xu thế khu vực hoá cũng sớm hình thành phù hợp
với trình độ lực lợng sản xuất và các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trong khu
vực. Hội nhập quốc tế đã diễn ra với các cấp độ khác nhau: song phơng, đa ph-
ơng, tam giác, tứ giác, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực, liên châu lục và toàn
cầu, dới nhiều phơng thức đa dạng: khu vực mậu dịch tự do, liên minh thế quan,
liên minh kinh tế, thị trờng chung, diễn đàn hợp tác kinh tế. Bằng cơ chế ngày
càng thông thoáng theo hớng tự do hoá. Cho đến nay đã hình thành ba tổ chức
kinh tế toàn cầu: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMS) , Ngân hàng thế giới (WB), và tổ chức
thơng mại quốc tế (WTO), và hàng chăm tổ chức khu vực. Gần đây suất hiện
khuynh hớng sát nhập, hình thành những công ty đa quốc gia cực lớn. Nhìn về bề
sâu, đó là sản phẩm của qúa trình tích tụ, tập trung và liên hợp sản xuất trên phạm
vi thế giới dựa trên những thành tựu kinh tế - kỹ thuật hiện đại và tổ chức quản lý
tiên tiến do loài ngời sáng tạo nên, các thế lực t bản lớn đã kịp thời nắm lấy nhằm
thiết lập địa vị độc quyền, vai trò khống chế thơng trờng quốc tế, thâu tóm các lợi
thế của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Những nhân tố nói trên phát sinh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tạo
nên quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế mà không một ai có thể c-

ỡng lại. Tuy nhiên, đối với các nớc chậm phát triển, cần đề phòng một nguy cơ
ngợc lại nếu để diễn ra trên thực tế không phải sự tuỳ thuộc lẫn nhau mà là sự
tuỳ thuộc một chiều của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế khác.
Thời đại của chúng ta không còn là thời đại t bản chủ nghĩa trớc đây mà là
thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới. Trên thực tế, ngày nay
các lực lợng tham gia thúc đẩy toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế không chỉ có các
nớc t bản phát triển mà bao gồm ba loại nớc:
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các nớc t bản phát triển.
Các nớc dân tộc chủ nghĩa vừa thoát khỏi ách đô hộ thực dân.
Các nớc phát triển theo định hớng XHCN.
Một số ít nớc t bản phát triển cao không chỉ theo đuổi mục tiêu lợi nhuận
mà quan trọng hơn là nhằm chi phối, khống chế thị trờng thế giới, cải biến kinh
tế các nớc khác theo quỹ đạo của mình. Các nớc dân tộc chủ nghĩa tận dụng xu
thế toàn cầu hoá và tham gia hội nhập quốc tế, để có điều kiện xây dựng nền kinh
tế quốc gia tự chủ. Các nớc theo định hớng XHCN vận dụng xu thế toàn cầu hoá
chủ động hội nhập quốc tế, để tranh thủ những khả năng có lợi cho thị trờng thế
giới, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế theo định hớng XHCN, không chỉ chống
nguy cơ tụt hậu xa hơn, mà còn nhằm thu hẹp khoảng cách về tiềm lực kinh tế so
với các nớc khác.
ỷ thế sức mạnh kinh tế và khoa học kỹ thuật, với bản chất vốn có của giai
cấp t sản, các nớc lơn, nhất là các nớc t bản phát triển cao nhất đang khống chế
các tổ chức kinh tế toàn cầu, áp đặt những quy chế và phơng thức hoạt động
không bình đẳng, gây thiệt hại cho các nớc chậm phát triển tạo trạng thái thất
nghiệp, phân hoá giầu nghèo ngày càng ngiêm trọng, uy hiếp chủ quyền quốc gia
các dân tộc kém phát triển.
Cuộc đấu tranh giữa khống chế, o ép và chống khống chế, o ép diễn ra ngày
càng quyết liệt, chủ yếu do khả năng tập hợp lực lợng của các nớc đang phát
triển, đồng thời do các nớc phát triển, trong chừng mực nhất định, rất cần thị tr-

ờng, nguồn lao động nguồn tài nguyên... của các nớc đang phát triển. Vì vậy, các
nguyên tắc chung của WTO không những thể hiện mu đồ, lợi ích của các nớc
phát triển, mà còn bao hàm những quy định có lợi cho các nớc đang phát triển và
kém phát triển. Trớc làn sóng phản ứng của nhiều quốc gia, các nớc phát triển đã
buộc phải xoá nợ dãn nợ cho các nớc kém phát triển. Sự tác động lớn đối với quá
trình toàn cầu hoá của Mỹ bắt nguồn từ sự chi phối của Mỹ đối với các lĩnh vực
quyền lực cơ bản của thế giới ngày nay, đó là sức mạnh về kinh tế về khoa học
công nghệ và về quân sự. Tất nhiên sự thống trị này chỉ là tạm thời.
Chính trong toàn cầu hoá chủ nghĩa t bản cũng sẽ phải biến đổi tham gia vào
quá trình toàn cầu hoá không chỉ có Mỹ và các nớc t bản phát triển mà còn có
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hàng loạt các quốc gia trên thế giới trong đó có cả các quốc gia đang trên con đ-
ờng đi lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy quá trình toàn cầu hoá không đơn giản là sự
phổ biến các giá trị, luật chơi của CNTB, mà là quá trình đấu tranh, thoả thuật,
sàng lọc, trong đó các giá trị văn minh nhân đạo của loài ngời sẽ đợc chấp nhận,
đó chính là quá trình hội nhập giao thoa của các nền kinh tế, các giá trị văn hoá,
chính trị v...v... sẽ là không thoả đáng khi xem toàn cầu hoá hiện nay thuần tuý
mang tính chất t bản chủ nghĩa. Sự đan xen của các lợi ích trong quá trình tham
gia hội nhập của các chủ thể phản ánh tính phức tạp và đầy mâu thuẫn của chính
quá trình này.
Hội nhập quốc tế bao gồm quan hệ đa phơng lẫn song phơng. Hội nhập quốc
tế không chỉ có việc tham gia hội nhập APEC, APTA, IMF, WB... mà việc thiết
lập quan hệ thơng mại, đầu t khoa học kỹ thuật với từng nớc riêng rẽ có ý nghĩa
rất quan trọng. Tuy nhiên, cần thấy rằng trong thực tiễn hiện nay của thế giới, các
định chế kinh tế do cấp đa phơng, nhất là đa phơng toàn cầu quy định có giá trị h-
ớng dẫn, tạo khuân khổ khống chế các quan hệ song phơng. Vì vậy hội nhập
quốc tế không thể không tham gia quan hệ đa phơng, tức là không thể không ra
nhập các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Nếu chỉ dừng ở quan hệ hợp tác
song phơng thì sẽ không đợc hởng những lợi thế của quan hệ đa phơng tạo nên,

không có điều kiện và cơ hội nói lên tiếng nói đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia
trên các diễn đàn quốc tế, đặc biệt không tận dụng đợc những sức mạnh tập thể
của các nớc đang phát triển để chống thái độ cửa quyền, sức ép của các nớc phát
triển.
Do những đặc điểm nói trên, trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế,
luôn luôn tiềm ẩn hai khả năng: thời cơ và thách thức, mặt phải và mặt trái, hợp
tác và đấu tranh, phát đạt và phá sản, vơn lên và tụt hậu, tự chủ và phụ thuộc...
Thời cơ và thách thức là hai mặt của hội nhập quốc tế, thậm chí của cùng một
hành động hội nhập. Để vợt qua thách thức, cần chủ động nắm thời cơ, giữ vững
mục tiêu vơn lên khai thác những gì là lợi thế của hội nhập để tạo ra thế và lực
mới.
5. Tác động của toàn cầu hoá.
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
5.1 Những tác động tích cực.
Nhìn chung toàn cầu hoá tạo ra khả năng phát huy có hiệu quả nguồn lực
trong nớc và sử dụng các nguồn lực quốc tế theo nguyên lý lợi thế so sánh mà
D.Ricardo đã nêu.
Với quá trình toàn cầu hoá, thị trờng đợc mở rộng, sự giao lu hàng hóa
thông thoáng hơn, hàng rào thuế quan và phi thuế quan thuyên giảm, nhờ đó sự
trao đổi hàng hoá tăng mạnh có lợi cho sự phát triển của các nớc.
Phản ánh xu thế toàn cầu hoá, dòng vốn cũng vợt qua biên giới quốc gia,
nhiều hình thức đầu t, hợp tác sản xuất, góp phần điều hoà dòng vốn theo lợi thế
so sánh, giúp các nớc tiếp cận đợc nguồn vốn, công nghệ từ bên ngoài, hình thành
sự phân công lao động quốc tế có lợi cho cả bên đầu t lẫn bên tiếp thu.
Dới tác động của quá trình toàn cầu hoá, những thành tựu của khoa học
công nghệ đợc chuyển giao nhanh chóng, ứng dụng rộng rãi, qua đó các nớc đi
sau trong sự phát triển kinh tế có điều kiện tiếp cận với chúng để phát triển.
Mạng lới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu, góp phần làm
cho giá thành sản xuất giảm, năng suất, hiệu quả tăng cao, giao lu thuận tiện.

Về mặt chính trị, quá trình toàn cầu hoá gia tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau có
lợi cho cuộc đấu chanh cho hoà bình, hợp tác và phát triển vì ngay sự phát triển
của các nớc công nghiệp phát triển cũng tuỳ thuộc đáng kể vào các nớc đang phát
triển. Qua những phơng tiện hiện đại, những thành tựu văn hoá cũng đợc chuyển
tải nhanh chóng hơn.
5.2 Những tác động tiêu cực.
Mặt khác, toàn cầu hoá cũng gây không ít những tác động tiêu cực và đặt ra
nhiều thách thức đối với loài ngời, nhất là các nớc đang phát triển.
Những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá bắt nguồn từ nguyên
nhân cơ bản là các nớc công nghiệp phát triển nhất là Mỹ hiện nay còn chiếm u
thế trong nền kinh tế thế giới, thao túng quá trình toàn cầu hoá. Dới tác động của
quá trình toàn cầu hoá, do các nớc công nghiệp phát triển thao túng, sự phân cực
giữa các nớc giầu và các nớc ngèo ngày càng sâu sắc. theo đánh giá của UNDP
trong báo cáo về sự phát triển nhân loại 1999 xét trên nhiều khía cạnh thì dân
số ở 85 quốc gia trên thế giới đã có mức sống thấp hơn cách đây 10 năm, khoảng
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cách giữa các nớc giầu và các nớc ngèo ở mức báo động. Trong khi các nớc công
nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỷ ngời chiếm 1/5 dân số thế giới, hiện đang
chiếm 86% GDP toàn cầu, 4/5 thị trờng xuất khẩu, 1/3 đầu t trực tiếp nớc ngoài.
Trong số 4,4 tỷ dân ở các nớc đang và kém phát triển thì gần 3/5 thiếu những
điều kiện kết cấu hạ tầng cơ bản, 1/3 không biết đến nớc sạch 1/5 không đợc h-
ởng dịch vụ y tế...
Nền kinh tế toàn cầu hoá là một nền kinh tế rất dễ bị chấn động, sự trục trặc
ở một khâu có thể lan nhanh ra phạm vi toàn cầu. Cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ ở Đông Nam á vào những năm cuối thế kỷ trớc đã chứng minh rõ ràng
điều đó.
Ngay trong những mặt tích cực nêu ở phần trên cũng ẩn chứa không ít
những mặt tiêu cự. Về trao đổi hàng hoá, việc tự do hoá thơng mại đem lại lợi ích
lớn hơn cho các nớc công nghiệp phát triển vì sản phẩm của họ có chất lợng cao,

giá thành hạ, mẫu mã đẹp do đó có sức cạnh tranh cao, dễ chiếm lĩnh đợc thị tr-
ờng. Tuy nói là tự do hoá thơng mại song các nớc công nghiệp phát triển vẫn áp
dụng những hình thức bảo hộ công khai hoặc trá hình. Tuy có sự chuyển giao
công nghệ song các nớc công nghiệp phát triển thờng không chuyển giao những
công nghệ mới nhất.
Toàn cầu hoá kinh tế, khoa học và công nghệ cũng kéo theo cả những tội
phạm xuyên quốc gia truyền bá nền văn hoá phi nhân bản, không lành mạnh,
băng hoại đạo đức xâm hại bản sắc văn hoá của các dân tộc.
II- Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
1. Sự cần thiết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
1.1 Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của sự phát
triển.
Bối cảnh kinh tế Việt Nam tham gia hội nhập
Bớc vào thế kỷ XXI Việt Nam đang thực hiện đờng lối kinh tế và chiến lợc
phát triển mà đại hội đảng IX đã đề rõ: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đa đất nớc ta thành một nớc công
nghiệp, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định h-
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc giữ vững an ninh quốc gia, phát huy
bản sắc dân tộc. Trong khi đó bối cảnh của nền kinh tế thế giới và khu vực đã có
rất nhiều thay đổi. Nền kinh tế thế giới đang phát triển mạnh mẽ và xu hớng toàn
cầu hoá đang là một xu thế phát triển tất yếu của thời đại.
Trớc sự phát triển vợt bậc của thế giới về kinh tế và khoa học công nghệ
Việt Nam vẫn là một trong những nớc đợc xếp vào loại ngèo trên thế giới. GDP
bình quân đầu ngời còn thấp cha thoát khỏi ranh giới ngèo khổ máy móc thiết bị
của tất cả các ngành các lĩnh vực trong nền kinh tế nớc ta còn thấp hơn mc trung
bình thế giới, do đó ảnh hởng đến chất lợng sản phẩm giá thành và khả năng cạnh
tranh trên thị trờng. Trong khi đó xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đang phát huy
vai trò tích cực của nó, mở ra những cơ hội cho những nớc kém phát triển và đang

phát triển nh Việt Nam. Thực tế chứng minh rằng không một nớc nào dù lớn,
giàu đến đâu cũng không thể tự mình sản xuất đợc tất cả những sản phẩm đạt tiêu
chuẩn quốc tế để đáp ứng nhu cầu của mình. Trên thế giới các quốc gia ở mức độ
này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc lẫn nhau, có quan hệ qua lại với nhau, không
có nớc nào có thể đạt đợc tốc độ phát triển nhanh mà lại không tích cực mở cửa
hội nhập kinh tế. Vì thế nớc nào đóng cửa với thế giới là đi ngợc lại xu thế của
thời đại và không tránh khỏi rơi vào lạc hậu. Trái lại mở cửa hội nhập kinh tế thế
giới có thể chả một giá nhất định song đó là một yêu cầu đối với sự phát triển của
đất nớc.
Đại hội VII (tháng 6/1991) và đại hội VIII (tháng6/1996) và gần đây đại hội
IX đã đa ra những luận điểm có ý nghĩa phơng châm chỉ đạo tổng quát cho việc
thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế rộng rãi. đã xác định đợc
hội nhập nền kinh tế thế giới là một yêu cầu khách quan nhng đảng cũng khẳng
định là phải xây dựng đợc một nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập.
Nhất quán chủ chơng đa phơng hoá, đa dạng hoá, tranh thủ hội nhập kinh tế quốc
tế nhằm bảo vệ lợi ích của nớc ta, giữ vững độc lập và tự chủ về kinh tế. Vì rằng
có một bất lợi rất lớn trong quá trình hội nhập toàn cầu hoá đó là toàn cầu hoá tạo
ra nguy cơ làm mất đi độc lập tự chủ của một quốc gia dẫn đến sự phụ thuộc về
chính trị. Bởi vậy độc lập tự chủ kinh tế là nền tảng đảm bảo sự bền vững của độc
lập tự chủ về chính trị. độc lập tự chủ thực chất là mỗi nớc tự lựa chọn con đờng
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và mô hình phát triển của mình, tự quyết định các chủ trơng, chính sách kinh tế
xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lợc và kế hoạch cho từng thời kỳ và các biện pháp
thực hiện mục tiêu đó. độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng cửa với thế giới.
quan niệm độc lập tự chủ theo kiểu tự cấp tự túc, xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn
chỉnh, hớng nội đã đợc kinh nghiệm của nhiều nớc trên thế giới cũng nh kinh
nghiệm của bản thân chúng ta chứng minh là không phù hợp với xu thế chung
của thời đại và không có hiệu quả đẩy đất nớc vào tình trạng chậm phát triển. Và
một khi tình trạng chậm phát triển về kinh tế không đợc khắc phục thì sẽ làm xói

mòn lòng tin của nhân dân làm nẩy sinh những vấn đề xã hội nan giải, tạo nguy
cơ từ bên trong đối với trật tự an toàn xã hội và điều đó khiến chúng ta khó giữ
vững đợc con đờng phát triển đã lựa chọn là kết hợp độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội vì mục tiêu dân giầu nớc mạnh xã hội công bằng văn minh.
Những cơ hội mang lại cho Việt Nam khi tham gia hội nhập
Là một nớc đang phát triển tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, nớc ta sẽ có
thêm nhiêu cơ hội mới để phát triển đó là:
Tạo khả năng mở rộng thị trờng ra nớc ngoài trên cơ sở các hiệp định thơng
mại đã ký kết với các nớc, trong khu vực và toàn cầu. Nếu thực hiện đầy đủ các
cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến sẽ đợc tiêu thụ
trên tất cả thị trờng các nớc asean. Từ năm 2020 hàng rào thuế quan sẽ đợc dỡ bỏ,
đây cũng là cơ hội để nớc ta xuất khẩu hàng hoá vào các nớc APEC.
Có cơ hội mở rộng thu hút các nguồn vốn từ nớc ngoài. Tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trờng nớc ta đợc mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các
nhà đầu t. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nớc ta, sử dụng và tài nguyên vốn
có của nớc ta, làm ra các sản phẩm tiêu thụ trên thị trờng khu vực và thế giới với
các u đãi mà nớc ta có cơ hội thu hút vốn đầu t nớc ngoài. Cơ hội mở rộng thị tr-
ờng kéo theo cơ hội thu hut vốn đầu t nớc ngoài. Đây cũng là cơ hội để thúc đẩy
các doanh nghiệp trong nớc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Tranh thủ đợc kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nớc đi chớc để đẩy
nhanh quá trình CNH-HDH đất nớc tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công cuộc
xây dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đờng để khai thông thị trờng n-
ớc ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trờng đầu t hấp dẫn và có hiệu quả, qua
12

×