Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

luận văn quản trị nhân lực Giải quyết vấn đề trùng lắp” trong quá trình điều phối, quản lý và sử dụng nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) của các cơ quan quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.26 KB, 21 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CÔNG CHỨC

TIỂU LUẬN
TÌNH HUỐNG
Đề tài: Giải quyết vấn đề “trựng lắp” trong quá trình điều phối,
quản lý và sử dụng nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
của các cơ quan quản lý nhà nước
HỌC VIÊN: VŨ THỊ LAN PHƯƠNG
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC: VỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ,
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
LỚP: BỒI DƯỠNG QLNN NGẠCH CHUYÊN VIÊN
HÀ NỘI, 06/2011
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
PHẦN I 5
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG 5
1. Hoàn cảnh ra đời 5
2. Diễn biến tình huống 5
PHẦN II 7
PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG 7
1. Phân tích tình huống 7
2. Xử lý tình huống 10
PHẦN III 18
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 18
KẾT LUẬN 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
2
MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, ODA là một nguồn vốn quan trọng trong phát triển
kinh tế xã hội của các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.


Chính vì vậy mà việc thu hút, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này
là vô cùng quan trọng.
Kể từ năm 1993 cho đến nay, nguồn hỗ trợ chính thức (ODA) luôn là một
kênh huy động vốn quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam.
Trong chặng đường 17 năm có mặt tại Việt Nam, lượng ODA mà chúng ta
huy động được không ngừng tăng lên qua từng năm, so với các nước đang
phát triển trong khu vực và trên thế giới, thành tích huy động ODA của chúng
ta thật đáng tự hào. Tuy nhiên, bên cạnh công tác thu hút vốn rất tốt đó là nỗi
lo về công tác quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ nhiều ưu đãi này. Trong giai
đoạn 1993-2009, số vốn ODA ký kết mà chúng ta có được là 42010,25 triệu
USD trong khi giải ngân thời kỳ này chỉ đạt 26184 triệu USD (khoảng 62%),
đó là chưa kể có những giai đoạn mà giải ngân ODA của chúng ta chỉ đạt
khoảng 30% tổng số vốn ký kết ( giai đoạn 1993-1994)
Việt Nam là một nước đang phát triển với quy mô nhỏ, đại bộ phận dân cư
cũn nghốo, cơ sở hạ tầng còn khó khăn, nên cần phải tận dụng nguồn vốn ưu
đãi này sao cho có hiệu quả để củng cố tiềm lực kinh tế của đất nước, nâng
cao đời sống nhân dân. Hơn nữa, hiện nay Việt Nam đã trở thành một nước có
thu nhập trung bình, nên số vốn ODA được tài trợ sẽ giảm dần cộng với lãi
suất sẽ tăng lên, nếu không sử dụng hợp lý thì sẽ tạo ra gánh nặng nợ nần cho
thế hệ mai sau.
Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy vấn đề quản lý và sử dụng ODA
hiện nay là một vấn đề quan trọng, cần nghiên cứu tìm ra nguyên nhân dẫn
đến nhữngạư chồng chéo trong chính sách quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ
phát triển chính thức nhằm đưa ra giải pháp khắc phục.
3
Chính vì vậy tụi đó chọn Đề tài “Giải quyết vấn đề trùng lắp trong quá
trình điều phối, quản lý và sử dụng nguồn viện trợ phát triển chính thức
(ODA) của các cơ quan quản lý Nhà nước” để khắc phục những mặt hạn chế
nhằm nâng cao hoạt động quản lý và sử dụng ODA của Việt Nam có hiệu
quả.

Nội dung Đề tài gồm 3 phần:
Phần I: Mô tả tình huống
Phần II: Phân tích và xử lý tình huống
Phần III: Nhận xét và kiến nghị
Với thời gian bồi dưỡng kiến thức chưa được nhiều và trình độ nghiên cứu
của tôi còn hạn chế. Vì vậy, tôi mong muốn nhận được sự giúp đỡ, đống góp
ý kiến của các Thầy cỏc Cụ để Tiểu luận của tôi được hoàn thiện hơn, đồng
thời qua đó tôi có thể trao đổi, học tập được kinh nghiệm, phục vụ cho công
việc chuyên môn của mỡnh tốt hơn.
4
PHẦN I
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh ra đời
Tình huống xảy ra trong khi cán bộ của Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB) đến làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước (là
hai đối tác về nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) với ADB), đã nhận
được các câu trả lời khác nhau về cơ quan đầu mối điều phối các dự án hợp
tác khu vực do ADB tài trợ, làm cho một số cán bộ của ADB không biết phải
phối hợp với cơ quan nào. Văn phòng đại diện của Ngân hàng Phát triển Châu
Á (ADB) tại Hà Nội và một số cán bộ của Ngân hàng này đề nghị Chính phủ
Việt Nam cho biết cơ quan nào là cơ quan đối tác chính đối với các dự án
Hợp tác Hỗ trợ kỹ thuật vùng do ADB tài trợ.
Vì không rõ về đối tác chính của mỡnh nờn đó xảy ra một số vấn đề vướng
mắc trong công tác quản lý các dự án Hỗ trợ kỹ thuật khu vực do ADB tài trợ.
2. Diễn biến tình huống
Trong năm X, đó cú lần Ngân hàng Phát triển Châu Á gửi thư cùng một
thời điểm tới hai cơ quan đối tác của Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước và Bộ
Kế hoạch và Đầu tư) đề nghị cử một cán bộ tham gia Hội thảo của khu vực tổ
chức tại Manila, Philipin. Nhận được thư mời của ADB, cả hai cơ quan cùng
gửi công văn đi các Bộ/cơ quan liên quan đề nghị cử cán bộ tham dự Hội

thảo, dẫn đến sự trùng lắp trong việc cử cán bộ tham dự hội thảo nói trên.
Cán bộ Chương trình của ADB khi tới công tác tại Việt Nam có đưa vào
biên bản ghi nhớ một đoạn ý nói rằng: Các công văn, thư từ liên quan tới các
dự án Hợp tác khu vực do ADB tài trợ sẽ được chuyển đến Bộ Kế hoạch và
Đầu tư để xử lý. Tại cuộc họp tổng kết của Đoàn công tác, đại diện của Bộ Kế
5
hoạch và Đầu tư đã thống nhất với quan điểm của ADB, nhưng đại diện của
Ngân hàng Nhà nước lại không đồng ý và đề nghị được bảo lưu ý kiến. Do
vây, một lần nữa, các cán bộ của ADB tham dự cuộc họp nói trên và ADB nói
chung không rõ đối tác chính đối với các dự án Hỗ trợ kỹ thuật vùng do ADB
tài trợ. Cho đến nay, vẫn còn những điểm trùng lắp, chưa rõ ràng trong việc
phối hợp công tác chưa được giải quyết dứt điểm. Các cán bộ đối tác của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng nhà nước vẫn giữ quan điểm của chính
mình làm cho quá trình hợp tác với ADB đối với các dự án hợp tác khu vực
còn gặp khó khăn, hạn chế.
Đứng trước tình hình đó, ADB tiếp tục đề nghị Chính phủ Việt Nam làm
rõ cơ quan nào của Việt Nam là đối tác chính đối với các dự án Hỗ trợ kỹ
thuật khu vực do ADB tài trợ để tạo điều kiên cho quá trình hợp tác, điều phối
và quản lý các dự án này tốt hơn.
6
PHẦN II
PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Phân tích tình huống
Tình hình chồng chéo về chức năng được giao để xử lý các vấn đề nêu trên
vẫn diễn ra. Nếu không làm rõ cơ quan nào là đầu mối xử lý các dự án hỗ trợ
kỹ thuật khu vực do ADB tài trợ thì sẽ làm ảnh hưởng đến sự tham gia các
hoạt động của dự án hợp tác khu vực. Trong một số trường hợp có thể dẫn
đến mất cơ hội tham gia dự án có lợi cho Việt Nam. Ngoài ra nếu không giải
quyết được vấn đề nêu trên thì khó có thể đưa các dự án hỗ trợ kỹ thuật khu
vực vào chương trình hợp tác Quốc gia và sẽ không thể quản lý được các dự

án hợp tác khu vực một cách thống nhất trong một tổng thể thống nhất. Do
vậy có thể làm giảm uy tín của các cơ quan quản lý ODA của Nhà nước Việt
Nam.
Muốn tìm nguyên nhân gây ra sự chồng chéo trong chức năng điều phối,
quản lý và sử dụng nguồn vốn của các dự án hợp tác khu vực nói riêng và
nguồn vốn ODA nói chung nhằm đưa ra các kiến nghị xử lý vấn đề này, cần
lưu ý tới các yếu tố lịch sử và chức năng nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư và của Ngân hàng Nhà nước được quy định trong các văn bản pháp luật và
các Nghị định của Chính phủ liên quan tới công tác điều phối, quản lý và sử
dụng nguồn vốn ODA.
Mặt khác, cần phải xem xét về các yếu tố xuất xứ của nguồn vốn ODA,
các thủ tục cấp vốn ODA tức là xem xét về đối tác nước ngoài cấp vốn ODA
để tìm nguyên nhân tháo gỡ những vướng mắc nêu trên.
7
Có thể nói nguồn vốn ODA mới bắt đầu vào Việt Nam kể từ khi Việt Nam
tiến hành công cuộc đổi mới (1986). Từ đó đến nay, ta đã tăng cường hợp tác
và cũng nhận được sự hỗ trợ của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế.
Hiện nay đã có nhiều nhà tài trợ lớn nhỏ từ các châu lục khác nhau cung
cấp hỗ trọ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam dưới nhiều hình thức
khác nhau và cho nhiều lĩnh vực của nền kinh tế xó hụi Việt Nam.
Về thực chất, nguồn hỗ trọ phát triển chính thức là sự hợp tác phát triển
giữa nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam với một hay nhiều quốc gia,
tổ chức quốc tế thông qua các hình thức chủ yếu sau đây: Hỗ trợ cán cân
thanh toán; Hỗ trợ theo chương tình; Hỗ trọ kỹ thuật; Hỗ trợ theo dự án.
a. Cỏc bên nước ngoài cung cấp ODA bao gồm:
- Chính phủ nước ngoài
- Các tổ chức phát triển của Liên Hiệp Quốc (LHQ), bao gồm:
Chương trình Phát triển của LHQ (UNDP); Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEP);
Chương trình Lương thực Thế giới (WFP); Tổ chức Lương thực và Nông
nghiệp của LHQ (UNFPA); Quỹ Trang thiết bị của LHQ (UNCDF); Tổ chức

Phát triển Công nghiệp của LHQ (UNDO); Cao uỷ LHQ về người tị nạn
(UNHCR); Tở chức Y tế Thế giới (WHO); Tổ chức Văn hoá, Khoa học và
Giáo dục của LHQ (UNESCO), v.v…
- Các tổ chức Liên Chính phủ, bao gồm: Liên minh Châu Âu
(EU); Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD); Hiệp hội các nước
ASEAN…
- Các tổ chức Tài chính quốc tế, bao gồm: Ngân hàng Thế giới
(WB); Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB); Quỹ các nước Phát triển dầu mỏ
(OPEC); Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB) và Quỹ Phát triển Bắc Âu (NID);
Quỹ Kuwait; Quỹ Quốc tế và phát triển nông nghiệp (IFAD), v.v…trừ Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF).
8
- Các tập đoàn, công ty nước ngoài tài trợ cho Chính phủ, Quỹ
ODA của Chính phủ nước ngoài viện trợ cho các chương trình, dự án thông
qua các tổ chức phi Chính phủ (NGO).
b. Các hình thức cung cấp ODA bao gồm:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA được cung cấp
dưới dạng tiền mặt hoặc hàng hoá để hỗ trợ ngân sách của Chính phủ.
- Hỗ trợ theo chương trình: Gồm các khoản ODA được cung cấp
để thực hiện một chương trình nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu với
một tập hợp các dự án thực hiện trong một thời gian xác định tại các địa điểm
cụ thể (Chương trình tín dụng ngành của Nhật Bản tài trợ khôi phục và phát
triển giao thông nông thôn, phát triển lưới điện nông thôn, phát triển hệ thống
nước sinh hoạt ở các thị trấn, thị tứ…)
- Hỗ trợ kỹ thuật: Nhằm giúp phát triển thể chế, tăng cương năng
lực của các cơ quan Việt Nam, chuyển giao công nghệ, thông qua cung cấp
chuyên gia, người tình nguyện, cung cấp một số trang thiết bị, nhận đào tạo
cán bộ Việt Nam tại chỗ hoặc ở nước ngoài tại cỏc khoỏ học ngắn hạn dưới 1
năm, hỗ trợ nghiên cứu, điều tra cơ bản (lập quy hoạch, báo cáo nghiên cứu
khả thi…). Một hỗ trợ kỹ thuật có thể bao gồm một số hoặc tất cả các nội

dung nói trên.
- Hỗ trợ theo dự án: ODA được cung cấp để thực hiện dự án xây
dựng cơ bản bao gồm xây lắp, trang thiết bị hoặc chỉ thuần tuý cung cấp trang
thiết bị. Trong nội dung dự án xây dựng cơ bản có thể bao gồm dịch vụ tư
vấn, đào tạo cán bộ Việt Nam tại chỗ hoặc gửi ra nước ngoài
c. Các loại ODA:
- ODA không hoàn lại: Bên nước ngoài cung cấp viện trợ không
hoàn lại để thực hiện chương trình, dự án ODA (mức độ tài trợ theo sự thoả
thuận với Bên nước ngoài).
9
- ODA cho vay bao gồm:
+ ODA cho vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): là các khoản ODA
cho vay có yếu tố không hoàn lại đạt ớy nhất 25% trị giá khoản vay. Bên
nước ngoài thường quy định cụ thể các điều kiện cho vay ưu đãi.
+ ODA cho vay hỗ hợp: là khoản ODA bao gồm kết hợp một phần ODA
không hoàn lại (hoặc ODA cho vay ưu đãi) và một phần tín dụng thương mại
theo các điều kiện của Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD).
Tóm lại, nguồn vốn ODA là một phần của ngân sách nhà nước, mặt khác,
nguồn vốn ODA được cung cấp từ nhiều nước, nhiều tổ chức Quốc tế với các
hình thức và thủ tục cấp vốn ODA đa dạng và phức tạp. Do vậy, công tác điều
phối, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA có liên quan tới chức năng của
nhiều cơ quan quản lý của Nhà nước.
2. Xử lý tình huống
Mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định liên quan tới công tác
điều phối, quản lý và sử dụng nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA), tuy
vậy tình hình điều phối, quản lý và sử dụng nguồn vốn này vẫn còn nhiều
phức tạp và chồng chéo. Các cơ quan thực hiện chức năng điều phối, quản lý
và sử dụng nguồn vốn ODA vẫn còn có một số cách hiểu khác nhau dẫn tới
nhiều hoạt động trùng lắp. Vì cách hiểu còn khác nhau nên dẫn tới cách giải
thích về các Nghị định, Quy chế cho các đối tác nước ngoài còn khác nhau

làm cho một số đối tác nước ngoài nhầm lẫn, không rõ đối tác chính của mình
là ai và cần phải phối hợp với ai để giải quyết các công việc cần thiết. Do vậy,
tình hình hợp tác giữa các đối tác Việt Nam và nước ngoài còn gặp nhiều khó
khăn, dẫn tới chậm trễ trong quá trình chuẩn bị, thực hiện và giải ngõn cỏc dự
án ODA.
Trong quá trình đổi mới, công tác quản lý mọi mặt đời sống kinh tế - xã
hội của đất nước đã chuyển dần sang dựa trên nền tảng pháp luật. Việc quản
lý nguồn vốn ODA không là ngoại lệ và chính vì vậy, ngay sau khi Việt Nam
10
nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế vào tháng 11 năm 1993, Chính
phủ đã nhận thức được trách nhiệm của mình đối với việc sử dụng hiệu quả
nguồn vốn ODA cũng như tầm quan trọng của nguồn vốn này đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đặt ra yêu cầu phải quản lý
chặt chẽ nguồn vốn này như một nguồn lực công của quốc gia. Theo tinh thần
đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước lúc đó
(nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và các cơ quan hữu quan Việt Nam bắt tay
nghiên cứu và xây dựng Nghị định của Chính phủ về quản lý và sử dụng
ODA và ngày 15 tháng 3 năm 1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định đầu
tiên về quản lý và sử dụng ODA (Nghị định 20/CP).
Tiếp theo Nghị định 20/CP, căn cứ vào tình hình thực tế và thực tiễn của
viện trợ phát triển, Chính phủ đã ban hành Nghị định 87/CP (ngày
05/8/1997), Nghị định 17/2001/NĐ-CP (ngày 04/5/2001) và Nghị định
131/2006/NĐ-CP (ngày 9/11/2006). Trong quá trình thực hiện có thể thấy rõ
Nghị định sau tiến bộ và hoàn thiện hơn Nghị định trước. Nếu như trong Nghị
định 20/CP quy trình quản lý và sử dụng ODA còn đơn giản và tập trung chủ
yếu ở cấp Trung ương thì trong Nghị định 131/2006/NĐ-CP quy trình ODA
đã bao quát toàn diện và phân cấp mạnh mẽ cho các Bộ, ngành và địa
phương.
Căn cứ vào các Nghị định trên của Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà
nước về ODA như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính, Bộ Ngoại giao đã

ban hành các thông tư, quyết định hướng dẫn thi hành.
Trong thời gian gần đây, để hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ đề ra trong
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006-2010), thực hiện Tuyên bố
Pa-ri và Cam kết Hà Nội về Hiệu quả viện trợ, trên cơ sở tham vấn rộng rãi
các nhà tài trợ, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án định hướng thu hút
và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010 (ban hành
kèm theo Quyết định 290/2006/QĐ-TTg). Đây được xem là “cuốn sách trắng”
11
tuyên bố về chính sách thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam trong thời kỳ
2006-2010 và tầm nhìn sau năm 2010.
Có thể nói, quá trình hoàn thiện không ngừng khung thể chế về quản lý
và sử dụng ODA của Chính phủ đã thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Việt
Nam đối với việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Quá trình này cũng phù
hợp với tiến trình cải cách luật pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền trong
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Trong Nghị định 131/2006/NĐ-CP hiện hành có những bước đột phá
quan trọng sau đây:
Thứ nhất, tính đồng bộ cao của Nghị định về quản lý và sử dụng ODA
với các văn bản pháp luật chi phối khác trong các lĩnh vực như đầu tư, xây
dựng công trình, thuế, đền bù di dân, giải phóng mặt bằng, ký kết và tham gia
các điều ước quốc tế khung và cụ thể về ODA. Sự hài hòa với các quy định
của nhà tài trợ cũng được thể hiện rõ trong Nghị định này, đặc biệt là khâu
theo dõi và đánh giá các chương trình và dự án ODA.
Thứ hai, Nghị định đã thể hiện sự phân cấp mạnh mẽ trong quản lý và
sử dụng vốn ODA tương tự như đối với đầu tư công. Theo Nghị định, Thủ
tướng Chính phủ chỉ phê duyệt Danh mục yêu cầu tài trợ; các chương trình,
dự án ODA quan trọng quốc gia; các chương trình, dự án kèm theo khung
chính sách và trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng. Việc quyết định đầu tư và
phê duyệt các chương trình và dự án ODA khác đều phân cấp cho Thủ trưởng
các cơ quan chủ quản. Sự phân cấp mạnh mẽ này một mặt tạo ra sự chủ động

và nâng cao vai trò làm chủ, trách nhiệm của các ngành, các cấp, song mặt
khác cũng đặt ra thách thức về năng lực quản lý và tổ chức thực hiện đối với
các bộ, ngành và địa phương.
Thứ ba, công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng ODA thông qua
việc Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các nhà tài trợ công bố rộng rãi thông tin về
nguồn ODA, các chính sách và điều kiện tài trợ để các đơn vị đề xuất có điều
kiện để chuẩn bị và đề xuất các chương trình, dự án ODA.
12
Thứ tư, công tác theo dõi và đánh giá các chương trình, dự án ODA
được quy định cụ thể và toàn diện, tiệm cận với tập quán quốc tế.
Nhìn tổng thể, Nghị định 131/2006/NĐ-CP đã thể hiện khá thành công ý
tưởng Chính phủ thống nhất quản lý ODA (phê duyệt Danh mục yêu cầu tài
trợ), trao quyền cho các đơn vị thụ hưởng và cơ quan chủ quản trong quá
trình thực hiện để đề cao trách nhiệm, phát huy sáng kiến và huy động sự
tham gia, đồng thời tăng cường hậu kiểm theo tinh thần hài hoà quy trình và
thủ tục ODA với nhà tài trợ.
Căn cứ vào Nghị định 131/2006/NĐ-CP, các cơ quan quản lý nhà nước
về ODA đã ban hành các thông tư, quyết định hướng dẫn việc thực hiện, bao
gồm Thông tư 04/2007/TT-BKH hướng dẫn thực hiện Nghị định
131/2006/NĐ-CP và Thông tư 03/2007/TT-BKH hướng dẫn về cơ cấu tổ
chức và chức năng, nhiệm vụ của Ban Quản lý các chương trình, dự án ODA
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Thông tư 108/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính
hướng dẫn quản lý tài chính trong nước vốn ODA; Thông tư 01/2008/TT-
BNG của Bộ Ngoại giao hướng dẫn việc ký kết các điều ước quốc tế về
ODA,
Trong thời kỳ sau năm 2010 nguồn vốn ODA sẽ có những thay đổi về
lượng và cơ cấu vốn ODA. Trong bối cảnh đó, vấn đề đặt ra là cần phải có
chính sách mới về thu hút và sử dụng ODA cũng như các văn bản quy phạm
pháp luật mới phù hợp với tính chất nguồn vốn ODA có nhiều thay đổi trong
thời gian sắp tới.

Trong số các văn bản quản lý nhà nước trong lĩnh vực điều phối và quản lý
nguồn vốn ODA, Nghị định 131/2006/NĐ-CP ban hành ngày 09/01/2006 là
một văn bản quản lý Nhà nước đã quy định cụ thể nhiệm vụ của các cơ quan
quản lý Nhà nước về ODA tương đối rõ ràng, do vậy tránh được sự trùng lặp
trong quá trình hợp tác. Tuy nhiên, trong các hoạt động điều phối giữa Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước còn nhiều trùng lắp.
13
 Cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước về ODA
 Quản lý trực tiếp
Phối hợp làm việc
Hình 1: Sơ đồ khái quát hoá bộ máy quản lý nhà nước về ODA
CHÍNH PHỦ
Bộ KH
& ĐT
Bộ Tài
Chính
Ngân
hàng
NNVN
Văn
phòng
CP
UBND tỉnh,
thành phố trực
thuộc trung ương
Ban quản lý dự
án
Các Bộ, Ban,
Ngành
Dự án triển khai

ở địa phương
Ban QLDA cấp
tỉnh, thành phố
Dự án triển khai
tại cấp Bộ
N
ư

c

đ
ư

c


i

tr

Nhà tài
trợ
Ban QLDA cấp
tỉnh, thành phố
N
h
à
t
à
i


tr

Phối hợp quản lý
14
Hiện nay Việt Nam có 4 cấp tham gia vào quá trình quản lý thu hút và sử
dụng vốn ODA, bao gồm :
- Thủ tướng Chính phủ
- Các bộ tổng hợp, gồm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại
giao, Ngân hàng Nhà nước và Văn phòng Chính phủ; trong đó, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư là cơ quan đầu mối.
- Các Bộ, UBND các địa phương
- Các chủ dự án, Ban quản lý dự án.
Nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về ODA
Nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về ODA quy định rã
ràng trong Nghị định 131/2006/NĐ-CP
- Bộ Kế hoạch và đầu tư (Điều 39)
- Bộ Tài Chính (Điều 40)
- Bộ Tư pháp (Điều 41)
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Điều 42)
- Bộ Ngoại giao (Điều 43)
- Văn phòng Chính phủ (Điều 44)
- Các Bộ, ngành và UBND các tỉnh (Điều 45)
 Vận động ODA
Vận động ODA được thực hiện trên cơ sở:
1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
2. Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm
của cả nước, ngành, vùng và các địa phương.
3. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoỏ đúi, giảm nghèo (CPRGS).
4. Chiến lược quốc gia vay và trả nợ nước ngoài và Chương trình quản lý

nợ trung hạn của quốc gia.
5. Định hướng thu hút và sử dụng ODA.
6. Các chương trình đầu tư cụng; cỏc chương trình mục tiêu quốc gia và
các chương trình mục tiêu của các ngành, các địa phương.
15
7. Chiến lược, chương trình hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà
tài trợ.
- Phối hợp vận động ODA
Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ về việc
chuẩn bị Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (Hội nghị CG) và các diễn đàn
quốc tế về ODA cho Việt Nam. Cơ quan cấp Bộ, ngành chủ trì và phối hợp
với Bộ Kế hoạch và Đầu tư chuẩn bị và tổ chức hội nghị điều phối ODA theo
ngành. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì tổ chức hội nghị vận động ODA của
địa phương mình theo sự hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hội nghị
vận động ODA liên ngành, liờn vựng, liờn địa phương do Bộ Kế hoạch và
Đầu tư chủ trì hoặc do một cơ quan khác chủ trì theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ.
 Quy trình quản lý và sử dụng ODA
- Các giai đoạn trong quy trình quản lý và sử dụng nguồn v ốn ODA
Quy trình quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA gồm 4 giai đoạn
+ Giai đoạn 1: Xây dựng danh mục chương trình, dự án ODA yêu cầu tài
trợ đối với từng nhà tài trợ
+ Giai đoạn 2: Chuẩn bị chương trình, dự án, bao gồm cả ký kết chương
trình, dự án
+ Giai đoạn 3: Thực hiện chương trình, dự án.
+ Giai đoạn 4: Theo dõi và đánh giá chương trình, dự án (bao gồm cả
đánh giá sau chương trình, dự án); nghiệm thu, quyết toán và bàn giao kết quả
thực hiện chương trình, dự án.
- Các bước thực hiện
Bốn giai đoạn trên được cụ thể hoá thành 9 bước sau:

+ Bước 1: Trên cơ sở Kế hoạch phát triển KT-XH và các quy hoạch, kế
hoạch khác, Cơ quan chủ quản hình thành ý tưởng dự án và chuẩn bị đề
cương dự án chi tiết, chuẩn bị yêu cầu tài trợ.
+ Bước 2: Bộ Kế hoạch Đầu tư xây dựng Danh mục yêu cầu tài trợ
ODA, vận động ODA
16
+ Bước 3: Bộ Kế hoạch Đầu tư trình Thủ tướng phê duyệt danh mục yêu
cầu tài trợ.
+ Bước 4: Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục yêu cầu tài trợ.
+ Bước 5: Chủ dự án chuẩn bị văn kiện chương trình, dự án ODA
+ Bước 6: Cơ quan chính phủ (Thủ tướng Chính phủ/CQCQ) phê duyệt
nội sung văn kiện chương trình, dự án ODA và ra quyết định đầu tư
+ Bước 7: Đàm phán, ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA
+ Bước 8: Thực hiện và theo dõi đánh giá chương trình, dự án
+ Bước 9: Hoàn thành, đánh giá sau dự án, bàn giao và đưa vào sử dụng
và đánh giá sau dự án.
- Các lĩnh vực ưu tiên
Vốn ODA được ưu tiên sử dụng cho những chương trình, dự án thuộc
các lĩnh vực:
+ Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi,
lâm nghiệp, thủy sản) kết hợp xoỏ đúi, giảm nghèo.
+ Xây dựng hạ tầng kinh tế đồng bộ theo hướng hiện đại.
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục đào tạo, dân số và phát
triển và một số lĩnh vực khác).
+ Bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
+ Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực; chuyển
giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
+ Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
17
PHẦN III

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Để giải thích và tìm nguyên nhân gây ra sự trùng lắp nói trên trong chức
năng quản lý và điều phối các dự án hợp tác khu vực do ADB tài trợ, cần phải
đề cập tới chức năng quản lý và sử dụng vốn ODA của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư và Ngân hàng Nhà nước đã được quy định tại quy chế quản lý và sử dụng
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức được ban hành kèm theo Nghị định
131/2006/NĐ-CP ban hành ngày 09/01/2006 như sau:
- Các dự án hợp tác khu vực do ADB tài trợ cũng phải
tuân thủ theo các điều khoản của cơ chế quản lý sử dụng nguồn vốn ODA
được ban hành kèm theo Nghị đinh 131/2006/NĐ-CP.
- Lãnh đạo Bộ Kế hoạch Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước
phải đi đến thống nhất rằng các dự án hỗ trợ ký thuật khu vực do ADB tài trợ
cũng là một dạng của dự án ODA. Các dự án này không phải là trường hợp
ngoại lệ nên Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn là đầu mối điều phối các dự án Hỗ
trợ kỹ thuật của khu vực do ADB tài trợ. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước có thể
nhận các văn bản, giấy tờ của ADB về các dự án Hỗ trợ kỹ thuật vùng, song
phải chuyển toàn bộ các giấy tờ đó cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư điều phối và
xử lý theo đúng tinh thần của Nghị định 131/2006/NĐ-CP.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng nhà nước phải có
công văn liên Bộ - Ngân hàng để thông báo về đầu mối điều phối các dự án
Hỗ trợ kỹ thuật khu vực do ADB tài trợ để tránh hiện tượng trùng lắp chức
năng và tạo điều kiện cho việc tham gia của các đối tác của Việt Nam tham
gia các dự án hợp tác khu vực của ADB một cách dễ dàng hơn.
- Sửa đổi các văn bản pháp quy quy định về quy chế đại
diện của Ngân hàng nhà nước tại các tổ chức tài chính quốc tế.
18
KẾT LUẬN
Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA ban hành kèm theo Nghị
định 131/2006/NĐ-CP đã phân định nhiệm vụ của từng Bộ/Cơ quan đảm
nhận từng khâu, từng hoạt động trong quá trình điều phối, quản lý và sử dụng

nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức.
Căn cứ vào những quy định nêu trên thì Bộ kế hoạch và Đầu tư là đầu
mối chính của các nhà tài trợ trong cỏc khõu ban đầu của chu trình dự án
(khâu điều phối, chuẩn bị dự án, thẩm định dự án, v.v ). Do vậy, mọi liên lạc
ban đầu, các thông tin liên quan tới các dự án ODA nói chung (kể cả các dự
án hợp tác khu vực do ADB tài trợ) đều phải được chuyển cho Bộ Kế hoạch
và Đầu tư để xử lý. Đó là con đường đúng đắn duy nhất có thể giúp làm giảm
sự chồng chéo trong các hoạt động quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA.
Đa phần các nhà tài trợ đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngay từ
đầu và coi Bộ Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối điều phối các dự án ODA, theo
quy định của Nghị định 131/2006/NĐ-CP.
Tuy vậy, nguyên nhân sâu xa dẫn đến các hoạt động trùng lắp này là
ngoài Nghị định 131/2006/NĐ-CP quy định nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà
nước như trên, Ngân hàng Nhà nước còn phải thực hiện chức năng của mình
trong mối liên hệ đối tác truyền thống với các Tổ chức tài chính quốc tế.
Nhiều lần cán bộ của Ngân hàng Nhà nước khẳng định rằng họ làm theo các
quy định của Nhà nước Việt Nam ký với ADB, còn cán bộ của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư thì thực hiện chức năng của mình theo tinh thần của Nghị định
131/2006/NĐ-CP. Do đó, một số cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và một
số cán bộ của Ngân hàng nhà nước có cách hiểu khác nhau về chức năng của
Ngân hàng trong quá trình điều phối các dự án hợp tác Hỗ trợ kỹ thuật khu
vực do ADB tài trợ nói riêng và nguồn vốn ODA nói chung.
19
Như vậy, trong tình huống nêu trên, một số cán bộ của 2 cơ quan (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước) đều cho rằng họ đã thực hiện đúng
nhiệm vụ của mình được quy định trong các văn bản quản lý Nhà nước. Họ
biết là có sự trùng lắp, nhưng bên nào cũng cho mình có lý. Do vậy, để giải
quyết được sự trùng lắp trong chức năng điều phối, quản lý các dự án hợp tác
khu vực do ADB tài trợ, cần có sự phối hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan để có những sửa đổi cần thiết,

phù hợp với tình hình thực tế và tránh được sự trùng lắp không cần thiết như
tình huống đã xảy ra.
20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định 20/CP năm 1994
2. Nghị định 87/CP năm 1997
3. Nghị định 17/2001/NĐ-CP
4. Nghị định 131/2006/NĐ-CP
5. Báo cáo của Chính phủ tại Hội nghị các nhà tư
vấn từ năm 1993 đến năm 2009
6. Sổ tay hướng dẫn chuẩn bị và thực hiện dự án
(Bộ KĐ&ĐT phối hợp cùng World Bank)
7. Diễn đàn hiệu quả viện trợ lần thứ nhất
8. Websites của Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính, và một
số websites kinh tế khác.


21

×