Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.64 KB, 45 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ

Tiểu luận môn Kinh tế phát triển
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH”
CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Họ và tên Mã SV Nhóm 8
Nguyễn Thị Lệ Chinh 0951010377 Lớp KT406(1-1112).1_LT
Nguyễn Thúy Hạnh 0951010066 Giáo viên hướng
dẫn
Nguyễn Thị Hải Yến
Vũ Hồng Hạnh 0951010068
Nguyễn Văn Hiếu (Nhóm trưởng) 0951010075
Nguyễn Thị Thùy Linh 0951010138
Nguyễn Ngọc Trà My 0951010507
Ngô Trọng Quân 0951010547
Lưu Thị San 0951010552
Bùi Minh Tú 0951010252
Phạm Thị Hải Yến 0951010620
Hà Nội, 10/2011
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
MỤC LỤC
2
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1 : Distribution of FDI by Industry (Stock as at Year – End)
Bảng 2: Tăng trưởng GDP của Hồng Kông những năm gần đây


Bảng 3: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế (%)
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân qua các thời kì
Bảng 5:Các chỉ số về quy định pháp lý của Singapore trong sự so sánh với Việt Nam
Bảng 6: Đánh giá tính hiệu quả của các chỉ tiêu về khung pháp lý FDI của Việt Nam và
Singapore năm 2004.
Bảng 7 : So sánh thuế quan giữa Việt Nam và Singapore
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc giai đoạn 1977 - 1999
Biểu đồ 2: Giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc giai đoạn 2000 – 2010
Biểu đồ 3: GDP Hồng Kông phân bổ theo ngành
3
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
LỜI MỞ ĐẦU
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế thế giới có những chuyển biến mạnh
mẽ.Một số cường quốc kinh tế mới xuất hiện, làm biến đổi diện mạo của bản đồ kinh tế thế
giới. Những nghiên cứu về sự phát triển sau chiến tranh thế giới thứ hai đều đi tới kết luận: đã
xuất hiện một sự thành công đặc biệt của những "con rồng châu á" là Hồng Kông, Hàn Quốc,
Singapo và Đài Loan. Đương nhiên đây không phải là những nước duy nhất thành công trong
phát triển. Nhưng những con rồng ở tốp dẫn đầu, đồng thời mặc dù có nhiều những khác biệt,
song chúng là những nền kinh tế cùng chung khu vực và có những nét tương đồng. Sự thành
công của những nền kinh tế này đã làm nên cái mà cả thế giới ngưỡng mộ gọi tên là “Sự thần
kỳ Đông Á”
Trong bối cảnh giao thời của sự phát triển, sự tăng trưởng thần kỳ của những "con rồng
châu Á" trước hết và cơ bản chính là việc tìm ra mô hình hay con đường phát triển hợp quy
luật. Các phép thuật mà các nhà phù thuỷ Đông á phù phép để trong một khoảng khắc lịch sử
đã biến một nền kinh tế tiểu nông, một đống đổ nát hoang tàn và sau ba thập kỷ thành một nền
kinh tế phát triển hiện đại, là xuất phát từ chỗ, các nền kinh tế này đã bắt đúng mạch của tiến
trình phát triển hiện đại và sớm hội nhập sâu trong tiến trình phát triển hiện đại của nền kinh tế
toàn cầu. Bởi vậy, có thể nói việc nghiên cứu bài học phát triển của các “con rồng châu Á” có

một ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra một con đường phát triển đúng đắn cho các nước thế
giới thứ ba. Trong khuôn khổ của bài tiểu luận này, chúng tôi chỉ mới đề cập tới được những
yếu tố cơ bản nhất trong quá trình tăng trưởng kinh tế thần kỳ của những “con rồng châu Á”.
Tất nhiên với sự phức tạp của vấn đề nghiên cứu, cùng với sự thiếu kinh nghiệm trong việc
phân tích những vấn đề kinh tế như trên, bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót
thường thấy. Tuy vậy chúng tôi vẫn mong sẽ đem tới cho người đọc một số kiến giải căn bản
hợp lý như là kết quả của một quá trình làm việc tập trung và nghiêm túc. Những người thực
hiện xin gửi lời cảm ơn chân thành vì những bài giảng và sự hướng dẫn nhiêt tình của cô giáo
Nguyễn Thị Hải Yến.
4
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
C hương I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG HỢP NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ
MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH”
I. Cơ sở lý luận: Mô hình chiến lược “Tăng trưởng nhanh”
1. Khái niệm chiến lược
Chiến lược thường được hiểu là đường hướng và cách giải quyết nhiệm vụ đặt ra mang
tính toàn cụ, tổng thể và trong thời gian dài.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội được hiểu là một bản luận cứ có cơ sở khoa học xác
định mục tiêu và đường hướng phát triển cơ bản của đất nước trong khoảng thời gian 10 năm
hoặc dài hơn, là căn cứ để hoạch định chính sách và kế hoạch phát triển. Chiến lược xác định
tầm nhìn của một quá trình phát triển mong muốn, thể hiện sự nhất quán về con đường và các
giải pháp cơ bản để thực hiện.
2. Mô hình chiến lược “Tăng trưởng nhanh”
Mỗi quốc gia có hoàn cảnh lịch sử, xã hội và xuất phát điểm về kinh tế khác nhau nên
không có mô hình chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nào chung áp dụng cho mọi quốc gia.
Tổng kết kinh nghiệm của nhiều nước trong quá trình công nghiệp hoá, tổ chức phát triển công

nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra mô hình chiến lược “Tăng trưởng nhanh”.
Một chiến lược dựa trên cơ sở tốc độ tăng trưởng nhanh sẽ tập trung vào việc phân bổ các
nguồn đầu tư và nhân lực vào các ngành mà đặc biệt là các ngành công nghiệp, các hoạt động
kinh tế và các dự án có mức hoàn vốn cao nhất. Muốn đạt được điều này cần phải hướng mạnh
vào xuất khẩu là chủ yếu.Chiến lược này đòi hỏi:
• Thu hút được nhiều đầu tư trực tiếp và công nghệ nước ngoài, đặc biệt với các nước đang
phát triển.
• Thực hiện chiến lược ngoại thương “Sản xuất hướng về xuất khẩu”.
• Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành.
5
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
• Nhanh chóng tạo ra kết cấu hạ tầng hiện đại (bao gồm cả kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu
hạ tầng xã hội) để hỗ trợ.
• Hiệu quả cao – yêu cầu này đòi hỏi phải phân tích kỹ lưỡng về chi phí và lợi ích thương mại
cho các ngành, các lĩnh vực; áp dụng các phương pháp quản lý mới nhất; nhanh chóng nâng
cấp, thay đổi thiết bị một cách cơ bản; hoàn toàn hội nhập, cạnh tranh trong nước với nước
ngoài.
• Phải tạo ra một thị trường trong và ngoài nước một cách chủ động.
• Phải nhập khẩu khá nhiều các linh kiện, thiết bị và các sản phẩm trung gian (nhằm mục tiêu
xuất khẩu).
• Phải nhận được bí quyết công nghệ của nước ngoài.
Như vậy mô hình tăng trưởng nhanh cần rất nhiều yếu tố đòi hỏi. Do hạn chế về quy mô,
bài tiểu luận này xin đề cập đến yếu tố của chiến lược tăng trưởng nhanh, đó là:
(1) Thực hiện chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu.
(2) Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
(3) Thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Đây cũng là 3 đặc điểm nổi bật nhất trong quá trình tăng trình của các nền kinh tế Hàn
Quốc, Sing-ga-po và Hồng Kông - đối tượng của bài tiểu luận này.
Nôi dung cụ thể của các chiến lược này sẽ được trình bày cụ thể trong từng phần tương ứng ở

chương 2 của bài tiểu luận.
II. Tình hình nghiên cứu về Mô hình chiến lược “Tăng trưởng nhanh”
Những tài liệu trích dẫn dưới đây là những tài liệu nghiên cứu tương đối đầy đủ và
chuyên sâu về đề tài mà nhóm lựa chọn từ những tài liệu tham khảo
1. Bài học hóa rồng của Ireland – TS Hồ Thiệu Hùng [Viện nghiên cứu giáo dục – Bài
đăng trên tạp chí trên trang Tuổi trẻ, 3 – 9 – 2005]
Nghiên cứu đã chỉ ra lí do vì sao một nước Ireland là thuộc địa của nước Anh, bị coi là
“người bà con nghèo khổ” của châu Âu giàu có và nổi tiếng về nạn đói và nội chiến lại có
những biến đổi thần kì, ngoạn mục khi vào đầu thế kỉ 21, quốc gia này đã là một trong ba nước
giàu nhất thế giới, chỉ đứng sau Luxembourg và vượt xa nước đã từng đô hộ mình là Anh.
6
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
TS Hồ Thiệu Hùng cho rằng sự thay đổi có tính chất bước ngoặt ở Ireland được chỉ ra là
có vận dụng một khía cạnh của mô hình tăng trưởng nhanh, đó là rất tích cực thu hút đầu tư
nước ngoài.
Những ngành có tỉ suất lợi nhuận cực cao mà nhiều nước trên thế giới muốn thu hút vào
mình nhưng thất bại như dược, phần mềm, thiết bị y tế đã đều được Ireland thu hút đầu tư một
cách thành công. Hiện nay, 10 Tập đoàn dược phẩm lớn nhất thế giới, 16 trong 20 tập đoàn sản
xuất thiết bị y tế lớn nhất thế giới, 7 trong 10 công ty phầm mềm lớn nhất thế giới đang hoạt
động tại đây. Một trong những thành công của Ireland là đã đáp ứng được những đòi hỏi khá
khắt khe về chất lượng nguồn nhân lực nhờ những chính sách giáo dục táo bạo là miễn phí cả
trung học và cao đẳng – đại học, nhằm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đủ sức làm việc
trong và phục vụ những ngành kinh tế mũi nhọn.
2. Mô hình phát triển Đông Á và mô hình phát triển Đông Nam Á – GS David Dapice và các
cộng sự ở ĐH Havard (Báo cáo tư vấn cho chính phủ Việt Nam năm 2008)
Nghiên cứu chỉ ra những kinh nghiệm thành công của Hàn Quốc, Đài Loan và một số
nước Đông Á khác trong quá trình nhanh chóng trở thành các xã hội công nghiệp (NICs/NIEs)

và những kinh nghiệm thất bại của các nước Đông Nam Á.
Trong báo cáo của mình, David Dapice và các chuyên gia Harvard nhận định rằng, ở khu
vực Đông Nam Á, trước đây, một số nước đã có một thời tăng trưởng khá nhanh (trung bình 6-
8%/năm). Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của các nước này hiện đã giảm, chỉ còn ở mức 4-6%.
Mức thu nhập trung bình của người dân còn tương đối thấp, chỉ khoảng dưới 3.000 USD.
Ngược lại, thu nhập trên đầu người của các nước Đông Á hiện nay đều vượt mức 15.000 USD.
So với Đông Nam Á thì các nền kinh tế Đông Á đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao hơn
trong một thời gian dài hơn mặc dù họ cùng một điểm xuất phát sau Thế Chiến thứ 2.
Nghiên cứu cũng chỉ ra điểm khác biệt lớn nhất giữa các nước Đông Á và các nước Đông
Nam Á cũng như các nước đang phát triển nói chung: ngay cả trong những lúc tăng trưởng
nhanh nhất, các nước Đông Nam Á cũng chưa thể thực hiện được sự chuyển hóa về chính trị,
kinh tế, và xã hội như Đông Á. Nền kinh tế của Đông Nam Á dựa vào việc khai thác tài nguyên
tự nhiên, qua những giai đoạn thăng trầm chính trị và biến động xã hội, chính phủ suy yếu vì
7
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
tham nhũng và chính trị,… Còn ngược lại, “Các nước Đông Á đã thành công hơn các nước
Đông Nam Á gần như trên mọi phương diện…”. “Con đường của các nước Đông Á là con
đường thẳng để đạt tới sự thịnh vượng, ổn định và kính trọng của cộng đồng quốc tế. Còn con
đường của các nước Đông Nam Á thì vòng vèo và gồ ghề hơn.Bài nghiên cứu nhận định
“Đáng tiếc là dường như Việt Nam lại đang đi lại con đường của các nước Đông Nam Á”.
Bài nghiên cứu tổng kết lại“Đặc trưng cơ bản của mô hình phát triển Đông Á¸” gồm:đầu
tư hết sức mạnh mẽ cho giáo dục ở tất cả các cấp, có tầm nhìn chiến lược toàn diện cho sự phát
triển nguồn lực con người : Xây dựng Cơ sở hạ tầng và đô thị hóa; tập trung phát triển thành
phố trung tâm là động lực cho tăng trưởng và đổi mới kinh tế; phát triển doanh nghiệp có sức
cạnh tranh quốc tế; hệ thống tài chính năng động, hiệu quả, minh bạch; nhà nước chính phủ
hiệu quả, có quyền năng; công bằng xã hội.
3. Phát triển nhanh và bền vững – Mô hình mới thiết yếu cho Việt nam giai đoạn 2011-2020 và
xa hơn – PGS,TS Đỗ Đức Định ( Viện trưởng viện nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông)
Bài nghiên cứu khẳng định Tăng trưởng nhanh là mục tiêu hàng đầu của một nước kinh tế

kém phát triển như Việt Nam. PGS,TS Đỗ Đức Định đã khẳng định công cuộc đổi mới đều cơ
bản đã thành công, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao do vận dụng có sáng tạo
mô hình tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên ông cho rằng việc áp dụng mô hình tăng trưởng nhanh ở
Việt Nam mới chỉ phát huy tính hiệu quả cao về mặt lượng, còn thấp về mặt chất. Để góp phần
đảm bảo không những tăng trưởng nhanh mà còn phát triển cân đối về cả chất và lượng trong
giai đoạn tiếp theo của công cuộc đổi mới 2-3 thập kỉ tới, công trình nghiên cứu đề xuất một
mô hình chiến lược mới – mô hình phát triển nhanh và bền vững với 4 trụ cột chính là 1) đảm
bảo tăng trưởng cao cả về lượng và chất; 2) áp dụng chiến lược công nghiệp hóa phát huy lợi
thế so sánh động; 3) nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; 4) mở rộng hội nhập quốc tế theo
hướng kết hợp nội lực và ngoại lực.
4. Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam nhìn từ góc độ chuyển dịch cơ cấu – Bùi Quang
Bình (Trường Đại học kinh tế, Đại Học Đà Nẵng) – bài đăng trong tạp chí Khoa học và
công nghệ ĐHĐN)
8
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
Vấn đề chính mà bài viết đưa ra để giải quyết là những khuyết điểm nhất định bộc lộ rõ
khi các điều kiện bên trong và bên ngoài nước đã thay đổi, và đưa ra những kiến nghị về sự
điều chỉnh mô hình tăng trưởng cho phù hợp với điều kiện mới đảm bảo cho sự phát triển bền
vững ở Việt Nam thông qua việc phân tích cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đổi mới
cho tới nay để nhận ra điểm mạnh và yếu của mô hình tăng trưởng này.
Kết luận:
Phần lớn các tài liệu hiện nay, với những lý thuyết và mô hình lượng hóa đầy đủ, đều khẳng
định tăng trưởng nhanh và bền vững là con đường duy nhất cho Việt Nam và các nước đang
phát triển khác.Tuy nhiên, vẫn còn thiếu rất nhiều những tài liệu, nghiên cứu đánh giá mức độ
thành công của các quốc gia đã áp dụng những mô hình này, cũng như những bài học rút ra để
có thể áp dụng một cách phù hợp và hiệu quả nhất với tình hình Việt Nam.
Trước tình hình đó , nhóm đã chọn đề tài “Kinh nghiệm vận dụng mô hình “Tăng trưởng

nhanh” của những con rồng châu Á và những giải pháp kiến nghị cho Việt Nam”, với mong
muốn đưa ra những phân tích, đánh giá về từng chiến lược trong mô hình tăng trưởng nhanh
mà những “con rồng Châu Á” là Hàn Quốc, Sing-ga-po và Hồng Kông đã áp dụng thành công.
Từ đó, hi vọng có thể rút ra những bài học bổ ích và đối chiếu với tình hình Việt Nam hiện nay
nhằm đưa ra một số giải pháp kiến nghị phù hợp để Việt Nam có thể trở thành con rồng tiếp
theo trong những năm tới.
C hương II:
THỰC TẾ VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG
NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
Như đã phân tích ở chương I, mô hình tăng trưởng nhanh cần rất nhiều yếu tố đòi hỏi. Do hạn chế
về quy mô, bài tiểu luận này xin đề cập đến yếu tố của chiến lược tăng trưởng nhanh, đó là (1)
thực hiện chiến lược sản xuất hướng về xuất khẩu, (2) thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
và (3) thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Đây cũng là 3 đặc điểm nổi bật nhất trong
9
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
quá trình tăng trưởng của các nền kinh tế Singapore, Hàn Quốc, Hồng Kông - đối tượng của bài
tiểu luận này.
A. CHIẾN LƯỢC HƯỚNG SẢN XUẤT HƯỚNG VỀ XUẤT KHẨU
I. Nội dung chiến lược
Chiến lược này được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước Mỹ La Tinh từ những năm 50 và những
nước Đông Bắc Á những năm 60 của thế kỷ XX, sau đó lan sang các nước Đông Nam Á, trong đó
điển hình là sự thành công của bốn con hổ châu Á.
1. Nội dung chiến lược
Phương pháp luận của chiến lược này là sự phân tích về việc sử dụng các “lợi thế so sánh”,
hay những nhân tố sản xuất thuộc tiềm năng của một nước như thế nào trong sự phân công lao
động quốc tế, để mang lợi ích tối ưu cho một quốc gia. Theo cách tiếp cận đó, chiến lược hướng
về xuất khẩu là giải pháp mở cửa nền kinh tế quốc dân để thu hút vốn và kỹ thuật vào khai thác
tiềm năng lao động và tài nguyên của đất nước. Chiến lược này nhấn mạnh vào 3 nhân tố cơ bản
sau:

• Thay cho việc kiểm soát nhập khẩu để tiết kiệm ngoại tệ và kiểm soát tài chính là khuyến khích
mở rộng nhanh chóng khả năng xuất khẩu.
• Hạn chế bảo vệ công nghiệp địa phương mà thực chất là nuôi dưỡng ỷ lại, thay thế vào đó là
nâng đỡ và hỗ trợ cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu.
• Đảm bảo môi trường đầu tư cho các nhà tư bản nước ngoài thông qua một hệ thống các chính
sách khuyến khích và kinh tế tự do để thu hút đến mức tối đa vốn đầu tư của các công ty nước
ngoài.
Mục tiêu cơ bản của chiến lược này là dựa vào mở mang đầu tư trong nước và đầu tư trực
tiếp nước ngoài cũng như hỗ trợ của tư bản nước ngoài để tạo ra khả năng cạnh tranh cao của
hàng xuất khẩu.
2. Đánh giá về chiến lược
2.1. Ưu điểm của chiến lược
10
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
• Nhờ áp dụng chiến lược này, nền kinh tế nhiều nước đang phát triển trong vài ba thập kỷ qua
đã đạt được một tốc độ tăng trưởng cao, một số ngành công nghiệp (chủ yếu là các ngành chế
biến xuất khẩu) đạt trình độ kỹ thuật tiến tiến, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Ngoại thương trở thành “đầu tàu” của nền kinh tế.
• Tận dụng được những lợi thế từ thị trường thế giới về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý
từ những nước tiên tiến.
2.2. Nhược điểm của chiến lược:
• Do tập trung hết khả năng cho xuất khẩu và các ngành có liên quan nên dẫn đến tình trạng mất
cân đối trầm trọng giữa các ngành xuất khẩu và không xuất khẩu.
• Do ít chú ý tới các ngành công nghiệp thiết yếu nhất, nên mặc dù tốc độ tăng trưởng nhanh
nhưng nền kinh tế đã gắn chặt vào thị trường bên ngoài và dễ bị tác động bởi những sự biến đổi
thăng trầm của thị trường các nước lớn.
Nhận thức được điểm yếu này, một số nước đang tìm tòi, lựa chọn một chiến lược phù hợp với

giai đoạn phát triển của mình. Nhiều nước đang phát triển lúc đầu chọn chiến lược “sản xuất thay
thế nhập khẩu”, rồi đến giai đoạn nào đó chuyển sang “sản xuất hướng về xuất khẩu”. Trong một
giai đoạn nhất định, có nước trong cùng thời gian thực hiện cả hai chiến lược này.
III. Hàn Quốc và “Kì tích sông Hàn” với chiến lược sản xuất hướng ra xuất khẩu
1. Quá trình áp dụng chiến lược và những chuyển biến của nền kinh tế
Sự chuyển đổi thành một nền kinh tế có trình độ phát triển cao của Hàn Quốc được khởi đầu
chủ yếu do sự mở rộng xuất khẩu, duy trì sự phát triển bằng các ngành công nghiệp xuất
khẩu, sự cung cấp của các nguồn đầu tư thông qua sự tham gia rất tích cực vào thị trường của
Chính phủ và các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô.
Khi mà các khoản đầu tư không được cung cấp từ khu vực đầu tư tư nhân, nhất là trong suốt
thời kì đầu của sự phát triển kinh tế, Chính phủ sử dụng chính các nguồn đầu tư của mình cho
việc xây dựng các ngành công nghiệp quan trọng và hình thành các nguồn vốn phúc lợi xã hội.
Nhiều ngành công nghiệp xuất khẩu và trên thực tế là cả nền kinh tế trong suốt thời kì đầu phụ
thuộc vào sự tham gia trên rất nhiều mặt của Chính phủ, và những sự mở rộng bước đầu của xuất
khẩu cũng là một sự “cưỡng ép” có hiệu quả của Chính phủ.
11
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
Quan điểm cơ bản của Chính phủ trong thời kì của Tổng thống Park Chung Hee là “Xuất
khẩu trước tiên” hay “Xây dựng đất nước thông qua thúc đẩy xuất khẩu”. Việc đạt được những
mục tiêu đầy tham vọng và Chính phủ đặt ra, sau đó vượt qua cả mục tiêu này được đánh giá
thành quả rất đáng ghi nhận cho các nhà kinh doanh cũng như những công chức, cán bộ phụ trách
xúc tiến xuất khẩu. Các công ty lớn của Hàn Quốc được chỉ định mục tiêu xuất khẩu hàng năm
bởi Bộ Thương mại và Công nghiệp, và nó được coi như những đơn đặt hàng ảo hay các nhiệm
vụ được giao. Nếu họ thành công trong việc thực hiện mục tiêu xuất khẩu, họ sẽ thu được nhiều
lợi ích dành cho các nhà xuất khẩu, bao gồm cả tín dụng ưu đãi và cho vay, hỗ trợ hành chính,
thuế và lợi ích khác. Do đó, các nhà xuất khẩu Hàn Quốc đã nhìn nhận việc nỗ lực để đạt được
các mục tiêu xuất khẩu của họ - thường được xác định cùng với chính phủ - như là nền tảng của
chiến lược kinh doanh của mình. Tuy nhiên, những năm 1970 tập trung nhiều hơn cho sự phát
triển của việc thay thế nhập khẩu, chiến lược công nghiệp nặng và hóa chất (HCIs), cũng như duy

trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành công nghiệp nhẹ và phát triển các ngành mới xuất
khẩu hàng hóa nặng. Những năm 1980 chứng kiến một sự tập trung trở lại vào tự do hóa thương
mại, bao gồm mở cửa thị trường trong nước và giảm trợ cấp xuất khẩu, phát sinh từ áp lực từ phía
các đối tác kinh doanh.
Chúng ta sẽ xem xét các giai đoạn cụ thể trong việc thực hiện chiến lược của Hàn Quốc:
• Giai đoạn 1962 – 1966
Hàn Quốc thực sự bắt đầu một chiến lược mới cho kinh tế nước nhà. Kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất (1962-1966) ra đời với khẩu hiệu “phát triển kinh tế là hàng đầu” và “công nghiệp hoá
thay thế nhập khẩu”. Tuy nhiên chiến lược “công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu” thực tế chưa
làm biến đổi nền kinh tế , đặc biệt là chưa tạo ra nhiều công ăn việc làm do sức mua của thị
trường nội địa qua thấp, vốn đầu tư và nguồn cung cấp nguyên liệu đều khan hiếm, kỹ thuật công
nghiệp và trình độ quản lý sản xuất còn thấp kém. Việc tập trung đại bộ phận vốn đầu tư phát triển
công nghiệp đã dẫn đến tình trạng mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân.
• Giai đoạn 1967-1976
12
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
Từ những hạn chế của kế hoạch 5 năm lần 1, Hàn Quốc đã chuyển sang những chiến lược
mới, chiến lược “công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu”. Kế hoạch 5 năm lần 2 (1967- 1971)
được coi như kế hoạch đặt nền móng cho việc thực hiện chiến lược này.
Trong thời gian này, bên cạnh hàng rào thuế quan bảo hộ, Nhà nước Hàn Quốc thực hiện
biện pháp cấm hoặc hạn chế số lượng nhập khẩu. Năm 1967, có tới 118/1312 mặt hàng nhập khẩu
chính bị cấm và 402 mặt hàng bị hạn chế.
Kế liền sau đó là kế hoạch 5 năm lần 3 (1971-1976) sản xuất xuất khẩu trên thực tế mới trở
thành động lực chính cho nền kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng đạt tốc độ tăng trưởng lớn.
Trong giai đoạn 1970-1975 kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng với mức độ tăng hàng năm khá cao,
từ 18.9% đến 98.6%. Giá trị xuất khẩu tăng vọt lên 7,8 tỷ USD năm 1976 và chiếm một tỷ trọng
28,5% trong GDP, cao hơn so với 12,6 tỷ và 12,4 % GDP năm 1971 (theo Korea International

Trade Association, )
• Giai đoạn 1977-1999
Đặc điểm của kinh tế Hàn Quốc thời kỳ này là tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp
nặng có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, hiện đại, có thế mạnh xuất khẩu lớn trên thị trường
quốc tế. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 5 trong nửa thập kỷ 80 này, nền kinh tế Hàn Quốc phải
đối phó với những khó khăn lớn trong nước như chống lạm phát, đa dạng hoá cơ cấu công nghệ
để tăng năng suất lao động xã hội, cán cân thanh toán đang thâm hụt cùng những tác động tiêu
cực của bối cảnh quốc tế. Mặc dù vậy, kinh tế Hàn Quốc vẫn phát triển với tốc độ tăng trưởng đạt
11.4%, thu nhập quốc dân đạt 10,600USD/người và dần trở thành một con rồng châu Á.
GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU CỦA HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 1977 - 1999
(Nguồn: Korea International Trade Association, )
Qua biểu đồ trên chúng ta thấy kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc liên tục tăng trong giai
đoạn 1977-1999 dù tốc độ tăng không đều qua các năm. Tốc độ tăng khoảng xấp xỉ 20% mỗi năm
trong những năm đầu và sau đó có sự suy giảm một chút xuống trên dưới 10% từ sau năm 1988.
Nguyên nhân có thể là do thời kỳ này Hàn Quốc chịu ảnh hưởng của những biến động trên thế
giới và đối mặt với những khó khăn trong nước như đã đề cập trên. Năm 1995 đánh dấu sự tăng
13
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
tốc trở lại với mức tăng 30% kim ngạch xuất khẩu và từ đó tiếp tục tăng từ 125.058 triệu USD
năm 1995 lên 143.685 triệu USD năm 1999 trừ một năm giảm nhẹ là năm 1998 do ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính tiền tệ. Xét trong cả giai đoạn thì kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đã tăng
gấp 18.7 lần so với năm 1976.
• Giai đoạn 2000-nay
Giai đoạn này Hàn Quốc vẫn tập trung cho xuất khẩu, hoà mình vào tiến trình hội nhập kinh tế thế
giới. Qua biểu đồ ta thấy, từ năm 2000 đến năm đến năm 2001, giá trị xuất khẩu Hàn Quốc giảm
từ 172.268 triệu USD xuống còn 150.430 triệu USD (giảm 12.7%). Từ sau năm 2001, giá trị xuất
khẩu của Hàn Quốc liên tục tăng, đạt mức 422.007 triệu USD vào năm 2008, với tốc độ tăng
trưởng trung bình trong khoảng thời gian này là xấp xỉ 16.1%/năm. Giai đoạn từ 2008 – 2009,
trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, xuất khẩu Hàn Quốc có sự sụt giảm đáng kể, từ 422.007

triệu USD xuống còn 363.534 triệu USD (giảm 13.9%). Sự phục hồi dần dần của nền kinh tế toàn
cầu nói chung và của Hàn Quốc nói riêng đã đưa giá trị xuất khẩu tăng tới 28.3 % và đạt 466.384
triệu USD vào năm 2010 ( vượt mức năm 2008).
(Nguồn: Korea International Trade Association, )
2. Những thành tựu mà nền kinh tế Hàn Quốc đã đạt được
Hàn Quốc từng được biết đến là một trong những nước nghèo nhất thế giới hơn 30 năm về
trước nhưng đã nghiêm túc thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế từ năm 1962. Hình ảnh đất
nước kiệt quệ do chiến tranh tàn phá đã bắt đầu thay đổi từ năm 1992 khi quốc gia này áp dụng
chính sách phát triển kinh tế theo định hướng xuất khẩu và tích cực tham gia vào thương mại quốc
14
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
tế trên toàn thế giới. Hàn Quốc bắt đầu mở rộng quan hệ đối ngoại thông qua việc tăng cường mối
quan hệ với các đồng minh truyền thống và xây dựng quan hệ hợp tác với các nước trong thế giới
thứ ba.
Năm 2010, nền kinh tế Hàn Quốc đã vươn lên vị trí thứ 13 thế giới khi tính GDP theo PPP.
Nếu như năm 1963 GDP trên một đồng vốn là 100 USD thì đến năm 2010 là 1.459 tỷ USD. Nền
kinh tế Hàn Quốc là một nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất trong lịch sử thế giới từ giữa
đến cuối thế kỷ 20, và điều đó đã tạo nên một “kỳ tích sông Hàn” được cả thế giới biết đến và
ngưỡng mộ. Để đạt được điều này, chính phủ Hàn Quốc đã lựa chọn đúng đắn chiến lược phát
triển cho quốc gia mình: sản xuất hướng về xuất khẩu. Ngày nay, Hàn Quốc đang thực hiện cải
thiện môi trường kinh doanh tổng thể với mục tiêu trở thành trung tâm kinh tế mới của khu vực
Đông Bắc Á. (Nguồn CIA – The World Factbook, www.cia.gov )
3. Đánh giá quá trình thực hiện chiến lược
• Sự đúng đắn khi áp dụng chiến lược của chính phủ Hàn Quốc
Áp dụng chiến lược một cách đúng đắn và phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Việc chọn
chiến lược “sản xuất thay thế nhập khẩu” vào thời kì đầu rồi chuyển sang “sản xuất hướng về xuất
khẩu” ở thời kì sau đã hạn chế được rất nhiều sự mất cân đối giữa các ngành xuất khẩu và không

xuất khẩu cũng như hạn chế đáng kể sự phụ thuộc của Hàn Quốc vào nền kinh tế thế giới.
• Những mặt còn hạn chế khi áp dụng chiến lược
Trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lược, các mục tiêu xuất khẩu được thống nhất giữa
Chính phủ và các công ty tư nhân và được thực hiện bởi các nhà kinh doanh như một lệnh bắt
buộc. Các công ty thất bại trong việc hoàn thành mục tiêu xuất khẩu mà không có lí do chính đáng
sẽ có nguy cơ bị xử phạt hành chính rất nặng. Các giải pháp cho sự thành công của các công ty
chính là khả năng xuất khẩu của họ, chính vì vậy mà bản thân họ sẽ phải tăng khả năng sản xuất
cũng như khả năng xuất khẩu càng nhiều càng tốt. Sự mở rộng “mang tính cưỡng ép” của sản
lượng đầu ra và sản lượng xuất khẩu này lại đưa lại kết quả là một tỉ lệ nợ/vốn chủ sở hữu cao,
cũng như sự sai lệch trong việc đưa ra các quyết định trong nội bộ các công ty.
15
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
Sự tập trung chủ yếu dồn vào các công ty lớn, những người được xem là đang ở một vị trí
tốt hơn so với các công ty nhỏ để mở rộng khả năng xuất khẩu, thu hút và sử dụng công nghệ.
Chính phủ cũng ủng hộ một số ít các công ty lớn thay vì một số lượng lớn của các công ty nhỏ vì
điều này giúp thu hẹp giới hạn kiểm soát hành chính. Điều này đã dẫn đến sự mất cân đối trong
nền kinh tế giữa các công ty lớn và các công ty nhỏ khi không được sự khuyến khích và hỗ trợ
giống nhau. Ngay sau đó, Chính phủ Hàn Quốc đã có sự điều chỉnh trong chiến lược, tập trung
hơn trong việc khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
B. THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
I. Nội dung của chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp
một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành
đối tượng mà họ tự bỏ vốn đầu tư.
2. Tác dụng của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Đối với chủ đầu tư nước ngoài:
• FDI cho phép chủ đầu tư nước ngoài ở mức độ nhất định tham dự vào điều hành quá trình kinh
doanh của xí nghiệp nên họ có thể trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và kịp thời đưa ra những

quyết định có lợi nhất cho vốn đầu tư mà họ bỏ ra.
• FDI giúp các chủ đầu tư nước ngoài dễ chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp
nguyên liệu chủ yếu của nước chủ nhà.
• FDI giúp chủ đầu tư khai thác lợi thế của các quốc gia khác: thị trường, vị trí địa lý, tài nguyên,
nguồn nhân lực, đất đai… nhằm giảm chi phí để tăng lợi nhuận.
• Chủ đầu tư có thể tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch vì thông qua FDI họ tạo được các xí
nghiệp, công ty nằm trong lòng các nước thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch.
• Các nhà đầu tư mở các công ty con tại những nước khác nhau có thể lợi dụng cơ chế thuế đối
với hoạt động đầu tư ở những nước đó để thực hiện “chuyển giá” nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
16
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
1.2. Đối với nước nhận đầu tư trực tiếp:
• FDI giúp các nước nhận đầu tư tăng cường khai thác vốn của từng nước chủ đầu tư nước ngoài.
• Các nước nhận đầu tư tiếp thu được công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của
chủ đầu tư nước ngoài.
• Nhờ có vốn đầu tư nước ngoài các nước chủ nhà có điều kiện khai thác tốt nhất những lợi thế
của mình về tài nguyên, vị trí, mặt đất, mặt nước…
• FDI giúp nước chủ nhà đẩy nhanh tiến trình hội nhập của quốc gia với nền kinh tế thế giới vì
đầu tư trực tiếp là nhân tố tác động mạnh đến tiến trình hoàn thiện thể chế, chính sách và môi
trường đầu tư.
• FDI góp phần thay đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ làm cho tính
hiệu quả của sự phát triển kinh tế được nâng lên.
• FDI cũng góp phần nâng cao mức sống của nước nhận đầu tư thông qua giải quyết việc làm,
tăng thu nhập, tạo đội ngũ lao động có tay nghề.
IV. Singapore và những thành tựu thần kì nhờ chiến lược thu hút vốn đầu tư nước
ngoài FDI
Như chúng ta đã biết, Singapore là một quốc đảo với diện tích nhỏ bé là 712,4 km2, dân số vào

khoảng 5.077.000 người tính đến tháng 6 năm 2010 (Nguồn: U.S Department of State,
www.state.gov), tuy vậy Singapore lại là một quốc gia có nền kinh tế phát triển vào bậc
nhất ở Đông Nam Á hiện nay. Một trong những nguyên nhân giúp Singapore trở nên giàu
có là nhờ chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài phù hợp, đúng đắn của các nhà lãnh
đạo Singapore. Sau đây chúng ta sẽ đi xem xét tầm quan trọng của chính sách này.
1. Thực trạng dòng vốn FDI
Năm 1963 , các công ty nước ngoài bắt đầu rót vốn vào Singapore với tổng số vốn đầu tư
khoảng 158 triệu S$ cho lĩnh vực sản xuất như. Đến năm 1970, con số này tăng lên 995 triệu
S$, và đạt khoảng 3054 triệu S$ vào năm 1974. Trong giai đoạn từ năm 1974-1977, tốc độ tăng
trưởng của vốn đầu tư nước ngoài không tăng do những biến động của tình hình dầu mỏ trên
thế giới, tuy nhiên tình trạng này chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Đến năm 1984, tổng số
17
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất đã lên tới hơn 12000 triệu S$. (Nguồn: Singapore
Department of Statistics.)
Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc về đầu tư thế giới vào năm 2003, đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Singapore đạt mức kỷ lục là 7.7 tỷ USD, mặc dù đã giảm 29 % so với năm 2001, nhưng
Singapore vẫn được xếp là nước đứng thứ 3 trên châu Á về thu hút FDI. Đến năm 2005, con số
này đã lên đến 16 tỷ USD, và tiếp tục đứng thứ 3 châu Á chỉ sau Trung Quốc và Hồng
Kông.Bảng số liệu dưới đây được trích từ World Invesment Report 2011 của UNCTAD cho thấy
sự biến chuyển của dòng FDI chảy vào Singapore giai đoạn 2005-2010.
Trong giai đoạn này, do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, dòng vốn FDI vào
Singapore bị giảm mạnh từ hơn 35 tỉ USD (2007) xuống còn gần 11 tỉ USD (2008), tỉ lệ FDI
trong GDP cũng tụt từ hơn 20% xuống còn hơn 5%. Mặc dù vậy, FDI của Singapore vẫn đứng
ở mức cao nhất trong khu vực. Đến năm 2009, nền kinh tế thế giới dần phục hồi, FDI vào
Singapo bắt đầu tăng trở lại và đạt 15-16 tỉ USD. Năm 2010, Singapo có FDI đạt mức kỉ lục là
39 tỉ USD, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2009 và đứng thứ 22 trong các quốc gia thu hút FDI
nhiều nhất trên thế giới (theo Báo cáo về đầu tư thế giới 2011 của UNCTAD).
UNCTAD cũng dự đoán trong thời gian tới, giai đoạn 2011-2013, Singapore vẫn tiếp tục

phát huy mô hình chiến lược chú trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và là 1 trong những nước
chủ nhà có FDI lớn nhất trên thế giới.
2. Các lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài
Trong giai đoạn đầu, lĩnh vực lọc dầu thu hút nhiều nhà đầu tư nhất. Tiếp theo đó là lĩnh
vực dệt may với các nhà đầu tư nước ngoài đến từ Đài Loan và Hồng Kông; tuy nhiên hình
thức đầu tư chỉ dưới dạng các doanh nghiệp có quy mô hộ gia đình chứ chưa phải là các tập
đoàn đa quốc gia lớn.
Kể từ sau những năm 1968, lĩnh vực đầu tư đã mở rộng hơn với: ngành điện-điện tử; hàng
công nghiệp, cơ khí chính xác. Vào đầu những năm 70 cho đến năm 2003, sự phân phối FDI
18
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
vào các ngành đã có nhiều thay đổi: lĩnh vực điện tử luôn đứng trong top đầu về thu hút FDI
với 4.22 tỷ S$ (2.5 tỷ USD) vào năm 2003; tiếp đến là lĩnh vực hoá chất với 1.5 tỷ S$ (885
triệu USD); công nghiệp dược phẩm thu hút 851 triệu S$ (504 triệu USD); dịch vụ 2.08 tỷ S$
(1.22 tỷ USD) vào năm 2002; đến năm 2003 giảm 8% xuống còn 1.92 tỷ S$ (1.1 tỷ USD).
Tuy nhiên hiện nay, như một xu thế tất yếu của thế giới, nguồn FDI đã chuyển hướng
sang các ngành dịch vụ là chủ yếu và Singapore cũng không phải ngoại lệ. Cụ thể là năm 2009,
riêng ngành dịch vụ tài chính và bảo hiểm đã thu hút 230,8 tỉ đô Sing, chiếm 41,8% tổng số
vốn FDI đầu tư vào Singapore. Các ngành nhận được nhiều FDI tiếp theo là lĩnh vực sản xuất
với 120,7 tỉ USD, ngành thương mại bán buôn, bán lẻ với 17,2 tỉ USD.
Bảng 1. Distribution of FDI by Industry (Stock as at Year – End)
2008 ($ bil) 2009 ($ bil) Share in 2009 (%)
Total 508.3 552.3 100.0
Manufacturing 104.5 120.7 21.8
Wholesale and Retail Trade 92.5 95.2 17.2
Transport and Storage 36.3 36.5 6.7
Financial and Insurance

Services
209.1 230.8 41.8
Real Estate Activities 14.7 14.6 2.6
Professional and Technical,
Administrative and Support
Services
35.6 36.0 6.5
(Nguồn: Singapore Department of Statistics.)
3. Tác động của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến nền kinh tế Singapore
• Đóng góp cho xuất khẩu
19
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
Sự góp mặt của các nhà đầu tư nước ngoài đã mang lại cho quốc đảo nhỏ bé này những
biến chuyển to lớn về mọi mặt, trong đó phải kể đến lĩnh vực xuất khẩu. Có thể nói đây là một
trong những đóng góp quan trọng của khu vực đầu tư nước ngoài vào tăng trưởng kinh tế.
Đóng góp nhiều nhất cho xuất khẩu là ngành lọc dầu (với 7% GDP năm 1981), tiếp đến là mặt
hàng máy móc, thiết bị vận tải, thiết bị viễn thông, tàu biển (với 22% tổng kim ngạch xuất khẩu
năm 1981). Ngoài ra còn có gỗ trang trí, dệt may, thiết bị chụp ảnh.
Trong thành tựu trên thì sự đóng góp của các nhà đầu tư là khác nhau: các nhà đầu tư đến
từ European Economic Community (EEC) đóng góp 44.6% vào tổng giá trị xuất khẩu; 34%
vào tổng sản lượng, tiếp theo đó là Mỹ rồi đến Nhật, Hồng Kông và Đài Loan.
• FDI góp phần tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở Singapore đã
giảm từ 9% vào năm 1965 xuống chỉ còn 4% vào năm 1974.
• Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế không chỉ giúp gia tăng nguồn lực
trong nước mà còn tạo ra sự cạnh tranh buộc các doanh nghiệp trong nước phải tiến hành cơ
cấu, hiện đại hoá thúc đẩy hoạt động sản xuất và dịch vụ.
Trong đó, phải kể đến các doanh nghiệp Singapore có cơ hội được tiếp cận với khoa học
công nghệ, kỹ thuật hiện đại của các tập đoàn đa quốc gia (TNCs) từ khắp mọi nơi trên thế
giới. Sự hiện diện của họ không chỉ giúp các công ty trong nước theo kịp với các tiến bộ khoa

học kỹ thuật mà còn có thể sở hữu những thương hiệu nổi tiếng thế giới, các chiến lược
marketing toàn cầu, và tiếp cận với các luồng thông tin quốc tế. Đây thực sự là một cơ hội tốt
cho các doanh nghiệp Singapore được vươn ra bên ngoài thế giới.
4. Đánh giá các yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến việc thành công của chiến lược
thu hút FDI
4.1. Môi trường tổng thể của Singapore
Bên cạnh vai trò to lớn của chính sách công nghiệp, các chính sách kinh tế vĩ mô cũng đã
đóng một vai trò quan trọng, nhất là trong việc hỗ trợ cho các TNC. Kết cấu hạ tầng đã được
xây dựng để đáp ứng nhu cầu của các TNC. Chính sách thương mại của Singapore đã luôn luôn
tự do hơn so với các nước khác thể hiện qua các các rào cản thương mại (thuế quan và phi thuế
quan) rất thấp (thậm chí là 0%) và sự áp dụng rộng rãi các giấy chứng nhận tiêu chuẩn ISO.
20
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
Ngoài ra, Singapore có những nhân tố đặc thù tác động tới việc định hình các chính sách về
FDI hoặc có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút FDI, là:
• Singapore là một nước thành phố với nhà nước có quyền lực tương đối mạnh để có thể xây
dựng các chính sách mà không gặp sự phản đối mạnh từ các cấp chính quyền khác hoặc từ các
tầng lớp xã hội.
• Đảng Hành động Nhân dân (PAP) đã chiến thắng trong tất cả các cuộc bầu cử kể từ năm 1959
và quyền lực cũng như tính chính thống của chính phủ PAP trở nên không thể phủ nhận. Điều
này đã cho phép chính phủ trở nên kỹ trị trong việc thực thi một chiến lược FDI.
• Singapore chưa bao giờ gặp phải tình trạng thâm hụt ngân sách chính phủ nên có thể dễ dàng
huy động vốn cho các khoản đầu tư.
• Một nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến việc thu hút FDI là tuy có nhiều chủng tộc nhưng ngôn
ngữ làm việc ở Singapore là tiếng Anh.
• Vị trí địa lý nằm ở khu vực có chung một giờ chuẩn đã cho phép các dịch vụ tài chính lấp đầy
khoảng Trống giữa Mỹ và châu Âu trong vòng một ngày 24 giờ.

4.2. Các chính sách tạo điều kiện thuận lợi
• Singapore là thị trường hoàn toàn tự do và chính phủ còn dành ưu đãi cho các công ty nước
ngoài có vốn đầu tư từ $200 triệu trở lên được hưởng mức thuế doanh thu 10% (mức chung
25,5%) trong 10 năm.
• Singapore không sử dụng hàng rào phi thuế quan, không trợ giá xuất nhập khẩu. Thủ tục xuất
nhập khẩu đơn giản, nhanh chóng không giấy tờ (paperless trading) thực hiện qua mạng điện tử
Tradenet. Đấy chính là những điều kiện hữu hiệu nhất để thúc đẩy quá trình phát triển giao lưu
thương mại giữa các công ty, các ngành trong nước với quốc tế, nó tạo nên sự bình đẳng giữa
các công ty trong nước với các công ty nước ngoài, và dĩ nhiên là các công ty nước ngoài rất
thích đầu tư vào thị trường Singapore.
• Chính sách thương mại của Singapore là phù hợp, thông thoáng, tạo điều kiện cho sự phát triển
thương mại của đất nước. Nhờ thực hiện tự do hóa thương mại, cùng với những ưu đãi cụ thể
21
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
mà hàng năm Singapore đã thu hút được một nguồn vốn đầu tư rất lớn từ nước ngoài, đặc biệt
là từ các công ty, tập đoàn kinh tế lớn của Mỹ.
• Ngoài ra, Singapore còn tham gia vào nhiều tổ chức thương mại trên thế giới như WTO,
ASEAN, APEC,… cùng với nhiều cam kết hợp tác song phương, đấy cũng là lý do khiến nền
thương mại Singapore phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng như vậy.
Tóm lại, hiện nay Singapore đã trở thành một trong những "trung tâm thương mại tổng
hợp" của thế giới, là trụ sở hoạt động chính của nhiều công ty đa quốc gia, được xem là nền
kinh tế có mức độ mở cửa cao nhất thế giới. Trong suốt mấy chục năm qua, nhờ có FDI mà từ
một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu với mức thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 145
USD đến nay Singapore đã được xếp hạng là một trong những nước có mức thu nhập bình
quân đầu người cao nhất thế giới, là con rồng của Châu Á. Thành tựu thần kỳ mà Singapore
đã đạt trong việc thu hút FDI thực sự là bài học quý giá đối với các nền kinh tế đang phát triển
trên thế giới ngày nay.
C. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
I. Nội dung của chiến lược chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1. Khái niệm
1.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành
Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái
khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển. Nội dung của
chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến,
hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
5. Ý nghĩa của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
• Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự phát triển kinh
tế của một quốc gia.
• Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thể hiện tính hiệu quả của việc phân bổ các nguồn lực khan
hiếm của quốc gia.
22
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
• Việc lựa chọn và chuyển dịch hợp lý cơ cấu ngành thể hiện được các lợi thế tương đối và khả
năng cạnh tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở cho sự chủ động tham gia
và thực hiện hội nhập thắng lợi.
• Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng ảnh hưởng đến tính chất bền vững của quá trình tăng
trưởng nên đòi hỏi chuyển dịch cơ cấu phải linh hoạt và phù hợp với nội lực và ngoại lực.
6. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình phát triển
Theo quy luật tăng năng suất lao động của A. Fisher, nền kinh tế được chia làm 3 khu vực:
• Khu vực 1: nông, lâm, ngư nghiệp và khai thác khoáng sản
• Khu vực 2: công nghiệp chế biến và xây dựng
• Khu vực 3: dịch vụ
Qua phân tích, A. Fisher đã rút ra kết luận rằng khu vực 1 dễ thay thế lao động bằng khoa
học kỹ thuật (KHKT) nhất nên tỷ trọng lao động trong nông nghiệp giảm. Thay thế lao động trong

công nghiệp bằng KHKT khó hơn nên tỷ trọng lao động trong công nghiệp có xu hướng tăng và
ngành dịch vụ do gắn liền với lao động sống nên tỷ trọng lao động trong ngành này tăng nhanh.
Từ những cơ sở lý thuyết nêu trên có thể rút ra xu hướng có tính quy luật chung của sự
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Quá trình này trải qua các bước: chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công-nông
nghiệp để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển. Nội dung cụ thể của xu hướng
này thể hiện ở tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm đi trong khi đó tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ ngày càng tăng kể cả GDP và lao động. Hiện nay xu hướng này đang diễn ra ở hầu hết các
nền kinh tế trên thế giới. Những nền kinh tế phát triển đều đã trải qua quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế như vậy trong quá trình phát triển của mình và ví dụ của các nước nêu trong
chương 2 sau đây sẽ làm rõ điều này.
V. Hồng Kông vươn lên thành con rồng châu Á nhờ chiến lược chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
23
Nhóm 8KTE406.1
Tiểu luận Kinh tế phát triển 2011
Trong quá khứ, chế tạo là lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế do Hồng Kông đã công
nghiệp hoá sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong hơn 50 năm qua, Hồng Kông đã trải qua hai
lần chuyển đổi cơ cấu kinh tế chính.
Lần thứ nhất là vào những năm 50 và 60 của thế kỷ 20, khi Hồng Kông phải đối mặt với
luật cấm vận thương mại của những nước phương Tây đối với Trung Quốc. Thời gian này Hồng
Kông đã chuyển đổi từ một trung tâm thương mại sang một nền kinh tế với hoạt động chính là sản
xuất. Được thúc đẩy bởi xuất khẩu, nền kinh tế này tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 8,9%
trong những năm 1970. Là một trung tâm xuất nhập khẩu quan trọng ở Đông á, nền kinh tế Hồng
Kông luôn luôn phụ thuộc rất lớn vào thương mại quốc tế. Kể từ khi Hồng Kông thực hiện công
nghiệp hoá tập trung vào công nghiệp dệt và may mặc vào những năm đầu 1950, xuất khẩu của
sản phẩm công nghiệp nhẹ trong nước không ngừng phát triển và những sản phẩm xuất khẩu này
đã đóng vai trò như một động cơ thúc đẩy tăng trưởng trong vòng ba thập kỷ liên tiếp. Vào cuồi
những năm 1970, Hồng Kông chủ yếu vẫn được coi là nhà sản xuất với khu vực sản xuất đóng

góp 25% vào GDP. Tuy nhiên tới khoảng thời gian mà hệ thống tỷ giá hối đoái liên kết được ra
mắt năm 1983 thì nền kinh tế Hồng Kông đã trải qua chuyển đổi cơ cấu triệt để.
Lần thứ hai là vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 thế kỷ 20 khi Trung Quốc áp
dụng chính sách mở cửa nền kinh tế. Toàn bộ các hoạt động sản xuất của Hồng Kông được
chuyển vào trong đại lục để tận dụng chi phí đất đai và lao động rẻ, còn Hồng Kông đã mở rộng
ngành dịch vụ và trở thành một trung tâm giao dịch, tài chính và thương mại của khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương. Chính sách của Trung Quốc quyết định cải tổ nền kinh tế cuối những năm
1970 đã mang lại một cơ hội cho Hồng Kông lập ra sự phân chia lao động xuyên khu vực. Nắm
bắt chính sách mở cửa của chính phủ Trung Quốc, một số lượng doanh nghiệp sản xuất của Hồng
Kông tăng nhanh và rót vốn đầu tư trực tiếp vào các tỉnh miền nam Trung Quốc từ nửa đầu những
năm 1980. Như vậy, hầu hết các tổ chức sản xuất của Hồng Kông được đặt tại tỉnh hàng xóm
Quảng Đông. Các tỉnh nam Trung Quốc thực hiện công nghiệp hoá nhanh chóng đã mở rộng xuất
khẩu sản phẩm sản xuất ra, kéo theo Hồng Kông trở thành trung tâm vận chuyển và hoạt động của
họ.
7. Những thành tựu mà Hồng Kông đã đạt được
24
Nhóm 8 KTE406.1
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG MÔ HÌNH “TĂNG TRƯỞNG NHANH” CỦA NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
2011
Với sự tăng trưởng kinh tế không ngừng, cho tới năm 2010 Hồng Kông đã trở thành nước
có nền kinh tế theo định hướng dịch vụ lớn nhất thế giới ( chiếm hơn 90% GDP )
GDP năm 2010: 215 tỷ USD với mức tăng trưởng là 0,7% ( đứng thứ 39 trên thế giới ).
Dịch vụ chiếm 92,3% tổng GDP, công nghiệp chiếm 7,6% và nông ngiệp chiếm 0,1%. Kinh tế
Hồng Kông chủ yếu là dịch vụ. Tỉ trọng của khu vực này trong GDP của Hồng Kông lên đến
hơn 90%. Trong quá khứ, chế tạo là khu vực quan trọng nhất của nền kinh tế do Hồng Kông đã
tiến hành công nghiệp hóa sau chiến tranh thế giới thứ hai cho tới những năm 1980 Hồng Kông
trải qua một quá trình chuyển dịch nhanh chóng sang một nền kinh tế dịch vụ. Phần lớn các
hoạt động sản xuất được chuyển qua Trung Hoa đại lục trong thời kỳ này và công nghiệp hiện
nay chỉ còn chiếm 7,6% nền kinh tế. (Nguồn OECD)

Hồng Kông tiếp tục là nền kinh tế đứng đầu châu Á với đà phát triển kinh tế mạnh mẽ
trong quý đầu tiên của năm 2011, GDP thực tế tăng 7,2%, sau khi tăng trưởng 7% trong năm
2010.
Bảng 2. Tăng trưởng GDP của Hồng Kông những năm gần đây
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
GDP
329,41
3
324,804
319,32
8
308,69
0
322,981
345,64
8
368,84
0
403,894
419,25
3
405,58
1
435,965
(Nguồn: Census and Statistics Department)
8. Đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Hồng Kông
8.1. Ưu điểm
Chính phủ không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đã giúp Hồng Kông phát huy
hết tiềm lực của mình. Với việc tiến hành công nghiệp hóa ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai
kết thúc đã giúp cho Hồng Kông tích lũy được một nguồn lực vững chắc làm nền tảng cho quá

trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế một cách triệt để vào những năm 1980. Kể từ năm 1980
trở lại đây cơ cấu nền kinh tế Hồng Kông chỉ chú trọng phát triển các ngành dịch vụ, dịch vụ
chiếm hơn 90% nền kinh tế. Kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế đã mang lại
25
Nhóm 8KTE406.1

×