Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Các yếu tố ảnh hưởng đến tính minh bạch báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán tp HCM (HOSE)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.71 KB, 45 trang )

1
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
1.1 Lý do lựa chọn đề tài:
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường của các quốc gia, trong đó có Việt
Nam, thị trường chứng khoán (TTCK) đóng một vai trò quan trọng, trở thành một kênh huy
động vốn dài hạn và hiệu quả. Nhưng điều đáng quan tâm hiện nay là thị trường chứng khoán
Việt Nam không còn tăng mạnh như trước do trãi qua những tăng giảm thất thường. Nhìn
chung, thị trường có xu hướng giảm và nếu việc đó tiếp tục diễn ra, có thể điều này sẽ gây nên
nhiều khó khăn cho nền kinh tế. Theo tác giả Ricardo N.Bebczuk (năm 2003), để TTCK và
thị trường vốn nói chung phát triển thì sự minh bạch hóa thông tin là cần thiết và một trong
những sự thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin sẽ khiến cho TTCK không thể hoạt động
hiệu quả. Vậy để góp phần giúp thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển và không chìm
hẳn thì đòi hỏi sự minh bạch của thông tin đem đến cho nhà đầu tư, đặc biệt là thông tin trong
báo cáo tài chính (BCTC) vì minh bạch hóa thông tin sẽ tạo được lòng tin của nhà đầu tư đối
với thị trường chứng khoán.
Tại Việt Nam, vấn đề minh bạch hóa thông tin trên TTCK và việc tìm ra các yếu tố ảnh
hưởng đến tính minh bạch của thông tin, đặc biệt là trên BCTC là vấn đề hết sức quan trọng.
Do đó, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin
trên BCTC nhằm đề xuất các biện pháp khắc phục và hoàn thiện thông tin trên BCTC của các
công ty niêm yết trên TTCK thông qua đề tài:
“Các yếu tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin báo cáo tài chính của các công ty
niêm yết trên sàn Hose”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xem xét, đánh giá sự minh bạch của thông tin
trình bày trên báo cáo tài chính của các công ty niêm yết và làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến
tính minh bạch của thông tin trên báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên sàn HOSE.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất các kiến nghị và giải pháp để hoàn thiện các chuẩn mực
giúp năng cao tính minh bạch thông tin trên BCTC, góp phần thúc đẩy thị trường chứng
khoán hoạt động hiệu quả hơn. Và để đạt được mục tiêu chung của đề tài, các câu hỏi nghiên
cứu được đề ra như sau:
Câu hỏi 1: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin tài chính của các công


ty niêm yết trên sàn HOSE?
Câu hỏi 2: Thực trạng mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó như thế nào ?
Câu hỏi 3: Giải pháp tăng cường tính minh bạch thông tin BCTC của các công ty niêm yết?
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
2
Đối tượng nghiên cứu:
- Những vấn đề liên quan đến tính minh bạch của báo cáo tài chính trên thị trường
chứng khoán.
- BCTC và các thông tin trên BCTC của các công ty, những người lập thông tin BCTC
những người nhận thông tin BCTC.
- Các cơ quan quản lý của Nhà nước và cấp cấp.
Đối tượng khảo sát: tài liệu thứ cấp của một số doanh nghiệp thuộc địa bàn Tp HCM
và một số tỉnh lân cận.
Phạm vi nghiên cứu:
- Giới hạn: Các công ty đã niêm yết trên HOSE.
- Phạm vi: thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân cận.
- Thời gian: giai đoạn 2007-2012.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu định tính : Tổng hợp lý thuyết, xử lý thông tin (tham khảo sách báo, tài
liệu, phỏng vấn chuyên sâu, thảo luận chúng tôi), đề xuất giải pháp, lấy ý kiến chuyên
gia và các đối tượng có liên quan thông qua bảng khảo sát.
- Nghiên cứu định lượng : Sử dụng kết quả bảng khảo sát.
- Phương pháp xử lý số liệu: thống kê, bằng chứng cụ thể, khảo sát thực tế. Áp dụng
công cụ phân tích dữ liệu: SPSS 16.0. Vận dụng những mô hình phân tích đo lường
tác động của các yếu tố tới tính minh bạch thông tin BCTC, dưới sự giúp đỡ và hướng
dẫn của giảng viên.
1.5 Ý nghĩa thực tiễn
- Đem lại một môi trường lành mạnh, minh bạch, một kênh huy động vốn dài hạn quan
trọng trong nền kinh tế thị trường, đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư trong nước và
quốc tế.

- Giảm thiểu rủi ro đầu tư tài chính cũng như tổn thất các nhà đầu tư phải gánh chịu,
nâng cao hiệu quả việc sử dụng vốn. Tăng hiệu quả thực hiện các chính sách quản lý
và điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà Nước.
1.6 Kết cấu bài nghiên cứu
Chương mở đầu:
- Trình bày lý do chọn đề tài nghiên cứu.
- Trình bày đối tượng nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.
- Trình bày phương pháp nghiên cứu.
- Trình bày ứng dụng thực tiễn của đề tài.
Chương 1 : Cơ sở lý thuyết về thông tin tài chính và minh bạch thông tin tài chính
- Đưa ra các lý thuyết về thông tin tài chính, về minh bạch thông tin tài chính, tầm quan
quan trọng của minh bạch thông tin tài chính.
3
- Đưa ra các tiêu chí đo lường minh bạch thông tin tài chính và các yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng thông tin tài chính.
- Khái quát các nghiên cứu về minh bạch thông tin tài chính, từ đó đề xuất mô hình
nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu.
Chương 2 : Thực trạng thông tin tài chính và minh bạch thông tin tài chính của các
công ty niêm yết
- Thống kê các công ty niêm yết theo thời gian gia nhập TTCK, ngành nghề hoạt động.
- Thống kê thực trạng TTTC, công bố TTTC và tính minh bạch TTTC của các công ty
niêm yết trên sàn Hose về các khía cạnh:
o Tình hình lập và trình bày công bố thông tin trên BCTC.
o Khảo sát mức đột minh bạch TTTC của các công ty niêm yết trên sàn Hose.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
- Giới thiệu quy trình thực hiện nghiên cứu.
- Ứng dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.
- Đề xuất mô hình 2 và thang đo các biến trong mô hình.
Chương 4 : Kết quả nghiên cứu
- Đánh giá độ tin cậy các thang đo và phân tích nhân tố EFA.

- Thiết kê mô hình hồi quy và kiểm định giả thuyết nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch thông tin tài chính.
Chương 5 : Kết luận và kiến nghị.
- Trình bày kết luận về các yếu tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin tài chính.
- Kiến nghị các giải pháp nhằm gia tăng minh bạch thông tin tài chính.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN TÀI CHÍNH VÀ MINH BẠCH
THÔNG TIN TÀI CHÍNH
1.1. Khái niệm Thông tin tài chính
Ngày nay, những tiến bộ trong các ứng dụng tin học hóa quá trình quản lý, lý thuyết về
hệ thống thông tin tài chính, sự mở rộng về quy mô và tính phức tạp của các dữ liệu cũng như
4
các yêu cầu ngày càng gia tăng về khối lượng và thời gian đối với thông tin tài chính là những
yếu tố góp phần thúc đẩy sự phát triển thị trường tài chính. Trên góc độ hệ thống, thông tin tài
chính là thông tin phản ánh các tác động tài chính của các sự kiện tài chính được thu thập, xử
lý và báo cáo nhằm thông tin một cách hữu ích cho nhiều người sử dụng trong việc tiến hành
đưa ra các quyết định kinh tế.
Trong phạm vi nghiên cứu, vì thông tin tài chính là kết quả của quá trình soạn lập và
công bố báo cáo tài chính nên thông tin tài chính đồng nghĩa với thông tin trên báo cáo tài
chính.
1.2. Khái niệm về minh bạch thông tin tài chính
Sự minh bạch là thuật ngữ có thể sử dụng trong những ngữ cảnh khác nhau với nhiều
khía cạnh khác nhau, nó có thể đề cập đến sự minh bạch của thị trường tài chính hoặc có thể
đề cập đến sự minh bạch của thông tin tài chính. Trong phạm vi nghiên cứu, sự minh bạch
thông tin tài chính công bố hay là sự minh bạch của thông tin được trình bày trên các báo cáo
tài chính công bố bởi các công ty niêm yết là như nhau. Đã có nhiều định nghĩa về sự minh
bạch được đưa ra bởi các tổ chức nghề nghiệp cũng như trong nghiên cứu khác nhau, có thể
nêu một vài định nghĩa phổ biến như sau:
• Trên góc độ thực hành
Theo Hiệp hội các phân tích viên tài chính công chứng (CFA), sự minh bạch có nghĩa là
người sử dụng có thể thấy bản chất kinh tế của việc kinh doanh được phản ánh một cách rõ

ràng trên các báo cáo tài chính.Việc công bố đầy đủ và trình bày trung thực sẽ tạo ra sự minh
bạch.
Theo tổ chức S&P (Standard & Poors), sự minh bạch là sự công bố kịp thời và phù hợp
của những thành quả về hoạt động và tài chính của công ty cũng như các thông lệ quản trị liên
quan đến cấu trúc sở hữu, ban giám đốc, cấu trúc và quá trình quản lý.
• Trên góc độ nghiên cứu
Các tác giả Blanchet (2002), Prickett (2002) và Kulzick (2004) nghiên cứu sự minh
bạch trên quan điểm của người sử dụng thông tin, theo họ minh bạch của thông tin bao gồm:
• Sự chính xác: thông tin phản ánh chính xác dữ liệu tổng hợp từ sự kiện phát sinh.
• Sự nhất quán: thông tin được trình bày có thể so sánh được và là kết quả của những
phương pháp được áp dụng đồng nhất.
• Sự thích hợp: khả năng thông tin tạo ra các quyết định khác biệt, giúp người sử dụng
dự đoán kết quả trong quá khứ, hiện tại và tương lai hoặc giúp xác nhận và hiệu chỉnh
các mong đợi.
• Sự đầy đủ: thông tin phản ánh đầy đủ các sự kiện phát sinh và các đối tượng có liên
quan.
5
• Sự rõ ràng: thông tin truyền đạt được thông điệp và dễ hiểu.
• Sự kịp thời: thông tin có sẵn cho người sử dụng trước khi thông tin giảm khả năng ảnh
hướng đến các quyết định.
• Sự thuận tiện: thông tin được thu thập và tổng hợp dễ dàng.
Robert Bushman và các tác giả (2003) xem xét sự minh bạch ở góc độ công ty, theo đó
sự minh bạch được định nghĩa là sự sẵn có của các thông tin cụ thể về công ty đối với bên
ngoài của các công ty niêm yết. Các thông tin được chia thành 3 nhóm: Báo cáo tài chính, sự
đạt được các thông tin bí mật và sự phổ biến của thông tin. Trong đó sự minh bạch thông tin
tài chính thông qua các báo cáo tài chính đề cập đến 5 nội dung:
• Mức độ của sự công bố về tài chính.
• Mức độ của sự công bố về quản trị công ty.
• Các nguyên tắc kế toán sử dụng để đo lường sự công bố về tài chính.
• Thời gian công bố các báo cáo.

• Chất lượng kiểm toán độc lập.
Theo Barth và Schipper (2008), sự minh bạch là một đặc tính được mong đợi của báo
cáo tài chính, được định nghĩa là phạm vi mà các báo cáo tài chính cho thấy các giá trị kinh tế
ngầm định của tổ chức theo cách sẵn sàng cho sự hiểu biết của những người sử dụng các báo
cáo này.
Tổng hợp từ các nghiên cứu trên và theo quan điểm của chúng tôi, sự minh bạch thông
tin tài chính có thể xem là sự sẵn có của các thông tin tài chính cho người sử dụng được thể
hiện qua các đặc tính chất lượng của thông tin tài chính bao gồm: sự kịp thời, sự thuận tiện, sự
chính xác, sự đầy đủ và sự nhất quán nhằm cho phép những người sử dụng thông tin đó có thể
đánh giá chính xác về tình hình, hiệu quả và mức độ rủi ro của doanh nghiệp này.
1.3. Tầm quan trọng của minh bạch thông tin tài chính
Minh bạch thông tin tài chính có vai trò rất quan trọng đối với không chỉ các công ty
công bố, người sử dụng thông tin mà còn cho cả hệ thống thị trường tài chính, đặc biệt là thị
trường vốn. Có thể nêu một số kết quả của các nghiên cứu dẫn đến các kết luận này như sau:
• Nghiên cứu của Tara Vishwanath và Daniel Kaufmann (1999) chứng minh: nếu gia
tăng sự minh bạch thông tin tài chính sẽ giúp giảm bớt sự chênh lệch giữa số liệu trước và
sau kiểm toán.
• Kết quả khảo sát của PWC (2002) cho thấy: nhà đầu tư, các chuyên viên phân tích và
các điều hành viên tài chính (giám đốc tài chính) đều cho rằng việc công bố thông tin tốt
hơn, minh bạch hơn sẽ mang lại lợi ích rõ rệt cho công ty: có thêm nhiều nhà đầu tư giá trị,
gia tăng khả năng thâm nhập vào các thị trường vốn mới và với một chi phí sử dụng vốn
thấp hơn; gia tăng độ tin cậy của nhà quản lý, gia tăng trách nhiệm giải trình và giá chứng
khoán.
6
• Theo Field và các tác giả (2004), công bố và minh bạch thông tin cũng giúp cho giảm
thiểu chi phí phát sinh về sự không tuân thủ và giảm những rủi ro về tranh chấp, kiện tụng
về mặt pháp lý, thuế.
• Nghiên cứu của Hwei Cheng Wang, Ninghsin Chen và Hsain Jane Chang (2004) cho
thấy: gia tăng sự minh bạch trong thông tin công bố sẽ gia tăng giá trị cho thông tin về thu
nhập kế toán.

• Kết quả nghiên cứu của James Hunton, Robert Libby và Cheri Mazza (2004) kết luận:
thông tin tài chính càng minh bạch sẽ giúp giảm thiểu, ngăn chặn khả năng nhà quản lý
điều tiết thu nhập (Earnings Management) theo chủ ý.
• Sự minh bạch và công bố đầy đủ thông tin tài chính là những thành phần không thể
thiếu của khuôn mẫu về quản trị công ty. Nghiên cứu của Beeks và Brown (2005) đã
chứng minh: các công ty với chất lượng quản trị tốt hơn sẽ công bố thông tin nhiều hơn. Sự
dễ hiểu, sự liên quan, sự minh bạch, tính đáng tin, tính kịp thời và sự công bố đầy đủ của
các thông tin về kết quả hoạt động kinh tế, cấu trúc của tổ chức cũng như quá trình được sử
dụng trong các tổ chức sẽ cung cấp cho các bên liên quan những cái nhìn trung thực về
công ty và chất lượng của chính sách quản trị mà công ty đang áp dụng. Cơ chế công bố và
minh bạch được thiết lập giúp bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số và các bên có liên
quan vì cơ chế này làm giảm tính bất cân xứng của thông tin và khả năng phát sinh các
gian lận.
• Theo Berglof và Pajuste (2005), công bố và minh bạch thông tin giúp gia tăng nhận
thức và lòng tin của nhà đầu tư, làm giảm sự không chắc chắn về lợi ích mang lại cho nhà
đầu tư, giảm chi phí vốn và gia tăng giá trị khoản đầu tư.
• Theo kết quả nghiên cứu của Carol Ann Frost, Elizabeth A. Gordon và Grace Pownall
(2008), minh bạch thông tin tài chính ảnh hưởng đến sự thâm nhập của các công ty ở thị
trường mới nổi vào các thị trường vốn quốc tế. Các công ty thuộc thị trường mới nổi càng
minh bạch thông tin tài chính thì càng dễ dàng thâm nhập vào thị trường vốn quốc tế và
ngược lại.
Qua các thống kê nghiên cứu trên, chúng tôi thấy rằng dưới góc độ người sử dụng, minh
bạch thông tin tài chính mang đến cho người sử dụng một niềm tin và sự bảo đảm về thông tin
nhận được, đồng thời giúp người sử dụng thông tin có sự nhìn nhận đúng và đưa ra các quyết
định đầu tư hợp lý và hiệu quả. Dưới góc độ công ty, việc cung cấp không đủ thông tin BCTC
của công ty có thể giúp DN “làm đẹp” được con số lợi nhuận tức thời. Nhưng với các khoản
ngoại trừ trên báo cáo kiểm toán, DN sẽ không đáp ứng điều kiện phát hành thêm cổ phiếu để
huy động vốn theo quy định của Luật Chứng khoán. Và như vậy, DN niêm yết là đối tượng
chịu thiệt đầu tiên. Vì vậy, minh bạch thông tin tài chính giúp cho các công ty giảm bớt các
7

rủi ro, gian lận tài chính, gia tăng giá trị và giảm chi phí sử dụng vốn thông qua việc thâm
nhập vào các thị trường vốn quốc tế để tìm các nguồn vốn giá rẻ. Dưới góc độ thị trường,
minh bạch thông tin tài chính sẽ giúp giá chứng khoán phản ánh đúng giá trị nội tại mà đây
chính là đặc trưng của thị trường hiệu quả và bền vững. Và những lợi ích này có thể chia ra
thành ba loại:
1. Minh bạch làm gia tăng hiệu quả nhà đầu tư.
2. Minh bạch khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào thị trường, thúc đẩy tính thanh
khoản của thị trường.
3. Minh bạch góp phần phát triển tính hiệu quả của thị trường chứng khoán.
Mỗi lợi ích này vừa thúc đẩy và là chức năng của các lợi ích còn lại. Ví dụ, bằng cách
tạo ra sự bảo vệ cho nhà đầu tư, tính minh bạch khuyến khích sự tham gia ngày càng nhiều
của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, và vì thế làm tăng tính thanh khoản của những thị
trường này. Ngược lại, sự gia tăng trong tính thanh khoản sẽ làm tăng tính hiệu quả của thị
trường. Tương tự như vậy, bằng cách giảm đi những ảnh hưởng của phân khúc thị trường và
tăng tính hiệu quả của giá cả trên thị trường chứng khoán, minh bạch cũng thúc đẩy sự công
bằng của thị trường.
1.4. Tiêu chí đo lường minh bạch thông tin tài chính
Do được tiếp cận nhiều quan điểm và mức độ khác nhau nên việc đo lường sự minh
bạch thông tin nói chung, và minh bạch thông tin tài chính nói riêng được đo lường bằng
nhiều phương pháp và biến đại diện khác nhau.
Sự minh bạch được xem là sự sẵn có của thông tin nên sự minh bạch có thể đo lường
bằng mức độ công bố thông tin, nếu mức độ công bố thông tin càng cao thì sự minh bạch
thông tin càng rõ và ngược lại. Theo quan điểm này, các nghiên cứu trước đây thường sử
dụng chỉ số CIFAR, được phát triển bởi Trung tâm nghiên cứu và phân tích tài chính quốc tế,
làm thước đo sự minh bạch thông tin. Chỉ số CIFAR bao gồm khoảng 90 các thông tin tài
chính và phi tài chính được công bố trên các báo cáo thường niên của các công ty niêm yết,
chỉ số này được xây dựng riêng cho từng quốc gia khác nhau tùy thuộc vào môi trường kinh
doanh và pháp luật. Chỉ số này cũng được sử dụng trong các nghiên cứu của các tác giả La
Porta, Lopez-De-Silanes, Shleifer và Vishny, (1999) làm thước đo chất lượng của hệ thống kế
toán; trong nghiên cứu của Busman và các tác giả (2003) làm thước đo mức độ công bố thông

tin.
Một chỉ số cũng được sử dụng phổ biến trong đo lường sự minh bạch và công bố thông
tin do tổ chức S&P xây dựng và phối hợp với các tổ chức khác tiến hành hàng năm trên một
8
số thị trường chứng khoán nhằm đánh giá mức độ minh bạch và công bố thông tin của các
công ty niêm yết. Chỉ số này bao gồm 108 các khoản mục thông tin được chia thành ba nhóm:
• Cấu trúc sở hữu và quyền lợi của cổ đông.
• Thông tin tài chính và hoạt động kinh doanh.
• Cấu trúc và quy trình của Ban giám đốc và nhà quản lý.
Trong đó, đo lường về sự minh bạch và công bố liên quan đến thông tin tài chính bao
gồm 30 khoản mục:
1. Chính sách kế toán sử dụng.
2. Các chuẩn mực kế toán và áp dụng cho các khoản mục trên các báo cáo tài chính.
3. Các khoản mục tuân thủ theo các chuẩn mực quốc gia.
4. Báo cáo tài chính năm tuân thủ theo một trong các hệ thống chuẩn mực phổ biến:
Chuẩn mực quốc tế (IFRS), chuẩn mực Hoa kỳ (U.S GAAP).
5. Thuyết minh báo cáo tài chính tuân thủ theo IFRS/U.S GAAP.
6. Báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm tuân thủ theo IFRS/U.S GAAP.
7. Ý kiến chấp nhận toàn bộ của kiểm toán viên đối với báo cáo tài chính năm tuân thủ
theo IFRS/U.S GAAP.
8. Báo cáo tài chính tuân thủ theo IFRS/U.S GAAP được kiểm toán được công bố trước
30/04 hàng năm.
9. Báo cáo tài chính tuân thủ theo IFRS/U.S GAAP chưa được kiểm toán được công bố
trước 30/04 hàng năm.
10. Khai báo các giao dịch đối với các bên liên quan: mua/bán; phải thu/phải trả đối với các
bên có liên quan.
11. Các dấu hiện cho thấy các giao dịch đối với các bên liên quan được thực hiện theo thị
trường hoặc không.
12. Các điều khoản chính xác về các bên có liên quan.
13. Báo cáo giữa kỳ (quý/ 6 tháng) tuân thủ theo một trong các hệ thống chuẩn mực phổ

biến: Chuẩn mực quốc tế (IFRS), chuẩn mực Hoa kỳ (U.S GAAP).
14. Thuyết minh cho các báo cáo giữa kỳ.
15. Sự soát xét hoặc kiểm toán các báo cáo giữa kỳ.
16. Hợp nhất báo cáo tuân thủ theo các chuẩn mực quốc gia.
17. Phương pháp đánh giá tài sản.
18. Liệt kê các bên liên kết mà công ty nắm phần lợi ích thiểu số.
19. Cấu trúc sở hữu của các bên liên kết.
20. Một bản dự báo thu nhập cơ bản.
21. Một bản chi tiết dự báo thu nhập.
22. Báo cáo phân tích theo bộ phận.
23. Cấu trúc doanh số.
24. Cấu trúc chi phí.
25. Tên của công ty kiểm toán.
26. Công ty kiểm toán có phải là những công ty hàng đầu trong nước hoặc quốc tế.
27. Chính sách thay đổi kiểm toán
28. Mức phí kiểm toán.
29. Công ty kiểm toán báo cáo tài chính có đồng thời cung cấp dịch vụ tư vấn.
30. Mức phí của dịch vụ tư vấn.
9
Bảng 1.1: Các khoản mục sử dụng trong chỉ số của S&P
Ngoài việc được sử dụng để đánh giá và xếp hạng sự minh bạch và công bố thông tin
trên các thị trường chứng khoán, chỉ số này còn được sử dụng trong các nghiên cứu của Mine
Aksu (2006) về cải thiện sự minh bạch và công bố thông tin của thị trường chứng khoán
Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.
Hiệp hội nghiên cứu quản lý đầu tư và liên đoàn các phân tích viên tài chính (AIMR-
FAF) cũng xây dựng chỉ số đánh giá mức độ công bố và minh bạch đối với các công ty niêm
yết hàng năm. Một số các nghiên cứu cũng sử dụng chỉ số này làm thước đo sự minh bạch.
Gelb và Zarowin (2002) đã kiểm tra mối liên hệ giữa tự nguyện công bố và sự đầy đủ thông
tin về giá chứng khoán; kết quả cho thấy, nếu gia tăng sự công bố sẽ làm thông tin về các
khoản thu nhập tương lai đầy đủ hơn. Bens và Monahan (2004) cũng sử dụng chỉ số AIMR để

nghiên cứu mối quan hệ giữa mức độ của sự công bố thông tin và sự đa dạng hóa.
Một số quốc gia cũng tự xây dựng những hệ thống đánh giá hoặc xếp hạng về sự minh
bạch và công bố thông tin của các công ty niêm yết. Đài Loan là một ví dụ điển hình, họ sử
dụng hệ thống xếp hạng về sự minh bạch và công bố thông tin ITDRS từ năm 2003. Hệ thống
này bao gồm 88 khoản mục công bố được phân chia thành năm nhóm:
• Tuân thủ với các quy định về công bố.
• Sự kịp thời của các báo cáo.
• Công bố dự báo tài chính.
• Công bố báo cáo thường niên.
• Công bố trên Website của công ty.
Hàng năm các kết quả xếp hạng theo chỉ số ITDRS sẽ được công bố rộng rãi làm cơ sở
cho các nghiên cứu cũng như các thay đổi trong thực tế về chính sách quản lý thị trường và
quản trị của các công ty niêm yết.
Tại Singapore và Malaysia, chỉ số CTI cũng được sử dụng từ năm 2000 để đánh giá
mức độ minh bạch của các công ty niêm yết. Đến năm 2009, chỉ số CTI được thay thế bởi chỉ
số GTI và được công bố hai lần mỗi năm. Cấu trúc chỉ số này gồm hai phần:
• Quản trị công ty: tập trung vào các nội dung liên quan đến các Ban điều hành, trách nhiệm
giải trình và kiểm toán.
• Sự minh bạch: tập trung vào sự giao tiếp giữa công ty với các cổ đông.
Để đo lường sự minh bạch thông tin tài chính, các nghiên cứu trước đây thường sử dụng
các thông tin được công bố trên các báo cáo tài chính làm biến đo lường mức độ của sự minh
bạch.Trong các môi trường khác nhau và dưới các quan điểm khác nhau, các biến này được
sử dụng đa dạng và không thống nhất. Theo quan điểm riêng, chúng tôi cho rằng để đo lường
sự minh bạch thông tin tài chính một cách đầy đủ chúng ta sẽ sử dụng các biến đại diện cho
10
sự minh bạch thông tin tài chính như: sự kịp thời, sự thuận tiện, sự chính xác, sự đầy đủ và sự
nhất quán. Trong đó, mỗi biến đại diện có nội dung được thể hiện như sau:
1. Sự kịp thời: là thời điểm công bố thông tin tài chính (báo cáo tài chính) phải khớp
hoặc sớm hơn đối với thời hạn công bố thông tin mà cơ quan chức năng quy định.
Nếu thông tin được công bố sớm và kịp thời thì người sử dụng thông tin sẽ dự đoán

chính xác và đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp nhất.
2. Sự thuận tiện: được thể hiện qua sự phổ biến của các kênh thông tin cái mà người
tiêu thông qua đó tiếp cận các nguồn thông tin khác nhau. Các kênh thông tin này
bao gồm: báo chí, phát thanh, truyền hình, bảng công bố thông tin, Internet, phát
biểu bằng lời nói.
3. Sự chính xác: thể hiện ở mức độ phản ánh trung thực của thông tin được công bố
với thực trạng tại doanh nghiệp. Nếu thông tin không chính xác sẽ dẫn đến những
quyết định sai lầm và làm mất đi niềm tin của người sử dụng.
4. Sự đầy đủ: được thể hiện ở tính đầy đủ của nội dung thông tin được công bố.Việc
cung cấp thông tin đầy đủ chẳng những giúp cho người sử dụng thông tin dễ dàng
đưa ra các quyết định mà còn tạo nên sự công bằng, hoàn hảo trong thị trường
chứng khoán.
5. Sự nhất quán: được thể hiện ở sự trùng khớp, ý kiến đồng ý toàn phần, giữa ý kiến
của kiểm toán viên với báo cáo tài chính của công ty niêm yết. Sự sai lệch trọng yếu
càng cao càng nói lên tình trạng kém minh bạch của thông tin được công bố dẫn đến
việc kém thu hút đối với các nhà đầu tư.
Nói tóm lại, việc sử dụng các biến đại diện cho sự minh bạch thông tin tài chính là một
phương pháp cơ sở có tính tiện nghi và đạt được hiệu cao.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin tài chính
Các nghiên cứu trước đây trên thế giới cho rằng có hai loại yếu tố lớn của một doanh
nghiệp có thể ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin và minh bạch doanh nghiệp trong một
thị trường. Loại thứ nhất bao gồm các yếu tố thuộc về tài chính của một doanh nghiệp, còn
loại thứ hai bao gồm các yếu tố thuộc về quản trị doanh nghiệp. Có một vài chứng cứ gián
tiếp ủng hộ giả thuyết này như Bushman, Piotroski, và Smith (2003) đã căn cứ vào kết quả
phân tích nhân tố và phân loại được hai nhân tố này từ các biến đo lường môi trường thông tin
ở phạm vi doanh nghiệp thu thập từ các công ty tại một số quốc gia. Họ cũng nhận ra rằng hai
loại nhân tố này, các yếu tố về tài chính và các các yếu tố về quản trị, cũng có liên quan đến
hệ thống luật pháp và kinh tế chính trị. Dựa trên tìm hiểu này, các nghiên cứu này cũng đã
11
đưa ra những biến về tài chính và những biến về quản trị công ty như là những nhân tố ảnh

hưởng tính minh bạch và công bố thông tin của doanh nghiệp trong phạm vi mỗi thị trường.
1.5.1. Các yếu tố tài chính
Những đặc điểm tài chính có thể ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin và minh bạch
doanh nghiệp như sau:
1.5.1.1. Quy mô doanh nghiệp
Các công ty có quy mô lớn thì minh bạch hơn các công ty có quy mô nhỏ, do doanh
nghiệp có quy mô lớn thì có nhà đầu tư lớn hơn doanh nghiệp có quy mô nhỏ và thu hút nhiều
sự chú ý hơn từ các nhà phân tích. Ngoài ra, doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ luôn có nhiều
nguồn thông tin công bố cho nhà đầu tư hơn so với doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Một nghiên
cứu xuyên quốc gia đã phát hiện mối quan hệ thuận chiều giữa các điểm về vốn hóa thị trường
và minh bạch thông tin tổng thể. Những dẫn chứng bằng tài liệu về sự liên kết không thống
nhất giữa quy mô doanh nghiệp được đo bằng tổng tài sản và tổng số điểm về công bố thông
tin.
1.5.1.2. Đòn bẫy tài chính
Các công ty có đòn bẩy tài chính cao sẽ có độ
minh
bạch cao hơn bởi vì các chủ nợ
yêu cầu công ty công bố thông tin nhiều hơn. Tuy
nhiên,
Roberts &
Gray
(1995) đã tìm
ra mối quan hệ ngược chiều giữa đòn bẩy tài chính và công bố thông tin
của
các doanh
nghiệp ở Mỹ và Anh. Archambault (2003) cũng dẫn chứng bằng tài liệu
rằng
không có
mối liên hệ giữa đòn bẩy tài chính và công bố thông tin của doanh
nghiệp.

1.5.1.3. Tình hình tài chính
Đối với một doanh nghiệp, tình hình tài chính trong quá khứ s ẽ ảnh hưởng
đến
mức
độ công bố thông tin của doanh nghiệp (theo Khanna & Srinivasan 2004). Ví dụ, các
doanh
nghiệp có nhiều lợi nhuận có thể s ẽ muốn công bố thông tin của doanh nghiệp cho nhà
đầu tư
bên
ngoài hơn là doanh nghiệp có ít lợi nhuân.
1.5.1.4. Tài sản cầm cố
Các doanh nghiệp có giá trị tài sản cố định cao, cần phải công
bố
thông tin nhiều hơn
để giúp cho người bên ngoài đưa ra được quyết định đầu tư. Điều
này
dẫn đến mối liên
hệ thuận chiều giữa giá trị tài sản cầm cố và mức độ công bố thông tin. Jensen và Meckling
(1976) cũng cho rằng tài sản bị cầm cố có thể
làm
giảm đi mâu thuẫn về quyền sở hữu, vì
người cho vay sẽ nắm quyền sở hữu tài sản
cố
định trong trường hợp doanh nghiệp bị
phá sản và việc giảm mâu thuẫn về quyền sở hữu

thể làm giảm nhu cầu công bố
thông tin.
1.5.1.5. Hiệu quả sử dụng tài sản
12

Các công ty với mức độ hiệu quả sử dụng tài
sản
cao thì có mức độ công bố thông
tin về doanh nghiệp cao hơn so với doanh nghiệp

mức độ hiệu quả sử dụng tài sản
thấp. Do các doanh nghiệp với mức độ hiệu quả
sử
dụng tài sản cao có thể thu hút nhiều
nhà đầu tư và nhà nhà phân tích hơn và do vậy các công
ty
này cũng sẽ phải công bố
nhiều thông tin hơn cho nhà đầu tư bên ngoài, dẫn đến mức
độ
công bố thông tin và minh
bạch cao hơn đối với công ty có mức độ hiệu quả sử dụng tài
sản cao.
1.5.2. Các yếu tố quản trị
Nhiều nghiên cứu ở Mỹ đã tập trung vào mối quan hệ giữa quản trị và hiệu quả
doanh
nghiệp. Các kết quả được tổng hợp cho thấy rằng hoạt động quản trị tốt không nhất thiết
dẫn
đến hiệu quả doanh nghiệp tốt hơn. Mặt khác một số nghiên cứu về công ty ở vùng Đông
Á
đã nhận thấy rằng các yếu tố quản trị doanh nghiệp ảnh hưởng đến việc đánh giá
doanh
nghiệp (Mitton 2002, Lins 2003). Sự khác nhau của các phát hiện này có thể do việc
quản
trị
doanh nghiệp không ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả doanh nghiệp. Giả thiết rằng,


một
biến trung gian: công bố thông tin và minh bạch doanh nghiệp, nói cách khác
quản trị
công
ty tốt dẫn đến công bố thông tin và minh bạch tốt hơn mặc dù không có sự bảo
đảm
nào
việc công bố và minh bạch tốt hơn sẽ dẫn đến hiệu quả doanh nghiệp tốt hơn. Ba
đặc
điểm
về quản trị doanh nghiệp là những yếu tố quyết định mức độ công bố thông tin và
minh
bạch
doanh nghiệp được thảo luận dưới
đây:
1.5.2.1. Mức độ tập trung vốn chủ sở hữu
Gần đây, tác động của mức độ tập trung của vốn chủ sở hữu đối với giá trị
doanh nghiệp thu
hút
được nhiều sư chú ý về kinh tế tài chính. Giả thiết rằng việc sở hữu
tập trung cổ phiếu có
thể
dẫn đến quản trị năng động hơn và việc tập trung này s ẽ dẫn
đến quản trị doanh nghiệp
tốt
hơn do việc quản trị năng động này làm giảm một cách
hiệu quả khả năng người quản lý
làm
mất tài sản của cổ đông. Tuy nhiên, các nghiên cứu

gân đây về các thị trường ở vùng Đông
Á
kết luận rằng sự tập trung vốn chủ sở hữu có thể
dẫn đến mâu thuẫn về quyền sở hữu
giữa
người chủ sở hữu bên trong và nhà đầu tư bên
ngoài doanh nghiệp vì tỷ lệ của cổ phiếu hiện hành được nắm giữ bởi năm cổ đông lớn
nhất có thể liên quan
mức
độ công bố thông tin và tính minh bạch doanh
nghiệp.
1.5.2.2. Cơ cấu Hội Đồng Quản Trị
Một yếu tố then chốt của quản trị doanh nghiệp là vai trò của HĐQT trong việc
giám
sát giới quản lý. Việc giám sát giới quản lý là cần thiết bởi vì những người quản lý
thường
hành động vì lợi ích riêng và không thể luôn hành động vì lợi ích của cổ đông. Sự
lười
nhác,
sự lên mặt quá đáng và những khoản đầu tư không mang lại lợi ích tối ưu là
những ví
dụ
điển hình cho hành động lạm quyền của người quản lý. HĐQT có thể làm
13
giảm
bớt mâu thuẫn quyền đại diện bằng cách thực thi quyền hạn của mình để giám sát

kiểm
tra giới quản lý. Những giám đốc không thuộc HĐQT được cho là người thực
hiện

chức
năng giám sát thay mặt cổ đông nhằm bảo đảm rằng sự quản lý công ty đi đúng
theo
đường
lối và tối đa hóa lợi nhuận của cổ đông, bởi vì chính bản thân cổ đông cảm
thấy khó
khăn
trong việc giám sát do sự phân tán quá rộng quyền sở hữu cổ phần thường.
Fama & Jensen (1983) lập luận rằng kể cả những giám đốc độc
lập
bên ngoài HĐQT
làm gia
tăng
khả năng đứng vững được của HĐQT và làm giảm đi khả năng chiếm đoạt
tài sản của cổ đông của những người quản lý hàng đầu. Việc khái quát của lập luận về giám
sát
hiệu
quả này là các giám đốc bên ngoài phục vụ hội đồng quản trị càng độc sự độc
lập hơn
thì
hiệu quả doanh nghiệp càng cao
hơn.
Rosenstein & Wyatt (1990) ghi nhận mặt tích
cực
đáng kể của lợi nhuận trên cổ
phiếu quanh việc thông báo chỉ định các giám đốc bên
ngoài.
Bằng việc sử dụng mẫu các
công ty phi tài chính niêm yết trên thị
trường

chứng khoán Thái Lan trong giai đoạn
1990 - 2001, Limpaphayom và Sukchareonsin
(2003)
phát hiện mối liên hệ tích cực giữa
thành phần hội đồng quản trị và đánh giá thị trường
của
doanh
nghiệp
.
Agrawal
(1996) chỉ ra khả năng giám đốc bên ngoài được chỉ định là kết quả của lý
do chính trị
hơn
là lý do quản lý. Cuối cùng, họ chứng minh bằng tài liệu mối quan hệ
tiêu cực giữa
thành
phần HĐQT và hiệu quả doanh nghiệp. Hermalin (1991) quan sát
thấy một tỷ lệ cao
các
giám đốc độc lập trong HĐQT không phải luôn luôn phỏng
đoán hiệu quả kế toán
trong
tương lai tốt hơn. Do vậy, quan điểm bảo thủ hoặc cố thủ dự
đoán có mối quan hệ tiêu cực
giữa
thành phần HĐQT và hiệu quả doanh
nghiệp.
Trong nghiên cứu này, giả thiết cho rằng thành phần HĐQT có thể ảnh hưởng
đến
mức độ công bố thông tin và minh bạch doanh nghiệp. Lý do là giám đốc độc lập muốn

công
bố thông tin nhiều hơn để đem lại lợi ích cho các người có quyền lợi khác của doanh
nghiệp.
1.5.2.3. Quy mô Hội Đồng Quản Trị
Đặc điểm quan trọng khác của HĐQT là quy mô của HĐQT. Khi xem xét quy

HĐQT, có sự cân bằng giữa kinh nghiệm hoặc lợi ích quản lý được gia tăng giá trị và các
bất
lợi phát sinh từ vấn đề phối hợp. Jensen (1993) lập luận rằng quy mô HĐQT lớn
hơn
dẫn
đến thảo luận ít chân thật hơn về các vấn đề quan trọng và đổi lại, dẫn đến quản lý
kém.
Yermack (1996) phát hiện mối quan hệ tích cực giữa quy mô HĐQT và giá trị doanh
nghiệp
trong các doanh nghiệp lớn ở Mỹ. Huther (1997) kiểm tra mẫu các tiện ích công
cộng ở
Mỹ
và phát hiện rằng quy mô HĐQT ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả doanh
nghiệp.
Eisenberg
& Wells (1998) phát hiện sự tương quan tiêu cực quan trọng giữa
14
quy mô HĐQT và
lợi
nhuận trong mẫu các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Phần Lan và
Thụy Điển.
1.6. Tổng quan các nghiên cứu về minh bạch thông tin tài chính
Đến nay, đã có một số các nghiên cứu về về minh bạch thông tin của doanh
nghiệp

trong và
ngoài nước với những đóng góp về mô hình quan trọng góp phần xem xét
tính minh bạch và các yếu tố ảnh hưởng đến tính minh bạch của doanh nghiệp.
Trong nghiên cứu của Stephen Yan-Leung Cheung (Trường Đại học
HongKong),
J.Thomas Connelly (Khoa thương mại và kế toán – trường đại học Chulalongkorn - Thái
Lan),
Piman Limpaphayom (Trường đại học Chulalongkorn-Thái Lan), Lynda Zhou
(Trường
Đại
học HongKong) đã đưa ra mô hình nghiên cứu tại Thái Lan và HongKong
gồm 9 biến để
đo
lường tính minh bạch thông tin của các doanh nghiệp niêm yết, trong đó
có 5 biến
về
đặc điểm tài chính của một doanh nghiệp và 4 biến về quản trị công ty để kiểm
định nhân
tố
nào ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin của doanh nghiệp tại hai nước
này. Kết quả nghiên cứu cho thấy các đặc điểm tài chính thể hiện qua các biến trong mô
hình chỉ có tác động mức độ công bố thông tin của các doanh nghiệp ở Hồng Kông và các
đặc điểm về quản trị như quy mô công ty và cấu trúc hội đồng quản trị đã thể hiện mức ảnh
hưởng đối với các công ty Thái Lan hơn là các công ty ở Hồng Kông. Bên cạnh đó, nghiên
cứu cũng đã chỉ ra rằng quản trị doanh nghiệp tốt sẽ đem lại tính minh bạch và công bố
thông tin doanh nghiệp tốt hơn trong thị trường kém phát triển.
Một nghiên cứu khác “A multinational test of determinants of corporate disclosure”
(Tạp chí The International Journal of Accounting, 38 (2003) 173 – 194) của Jeffrey J.
Archambault và Marie E. Archambault nghiên cứu mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến tính
minh bạch thông tin của công ty. Bằng nghiên cứu thực nghiệm để kiểm định các giả thiết

nghiên cứu trên với mẫu khảo sát là 1.000 công ty công nghiệp hàng đầu ở 41 quốc gia (trong
quá trình chạy mô hình thì chỉ còn lại 33 quốc gia), Jeffrey J. Archambault và Marie E.
Archambault đã đưa ra được mô hình hồi quy về sự tương quan giữa mức độ công bố thông
tin của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng hệ thống tài chính thông qua các yếu
tố: quyền sở hữu (ownership), tình trạng niêm yết trên thị trường chứng khoán (exchange
listings), chính sách cổ tức (Dividends), công ty kiểm toán (Auditor) và đòn bẩy tài chính/Nợ
(leverage) ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin của doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với quá
trình hoạt động của doanh nghiệp, các công ty có thể ra các quyết định kinh doanh có thể ảnh
hưởng đến nhu cầu thông tin của người sử dụng báo cáo tài chính, trong đó, quá trình hoạt
động của công ty được nghiên cứu này xem xét gồm: quy mô công ty (Firm size), quy mô
ngành nghề kinh doanh (Number of industries) và doanh thu xuất khẩu (Foreign sales).
15
Cũng trong năm 2003, với đề tài nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến tính minh
bạch thông tin doanh nghiệp”,
Bushman, Piotroski, và Smith căn cứ vào kết quả phân tích
nhân tố từ các biến đo lường môi trường thông tin ở phạm vi doanh nghiệp được thu thập từ
các công ty tại một số quốc gia và chúng tôi được hai nhân tố: nhân tố tài chính và nhân tố
quản trị. Họ cũng đã đặt hai chúng tôi yếu tố này trong mối quan hệ với hệ thống luật pháp và
kinh tế chính trị để đưa ra kết luận về sự tác động qua lại của chúng. Kết quả là các yếu tố
quản trị liên quan đến hệ thống luật pháp trong khi các yếu tố tài chính liên quan đến kinh tế
chính trị quốc gia.
Một số nghiên cứu trong nước gần đây cũng chỉ đề cập đến vai trò của thông tin tài
chính, tiêu biểu ở cấp tiến sĩ có nghiên cứu của Nguyễn Phúc Sinh (2009), cấp thạc sĩ có
nghiên cứu của Võ Thị Ánh Hồng (2008), Đoàn Thị Thảo Uyên (2008)…. Ngoài ra, cũng có
một số nghiên cứu ở cấp độ thạc sĩ về thực trạng công bố báo cáo tài chính của các công ty
niêm yết, tiêu biểu có các nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Thị Hồng Oanh (2008), Phạm
Đức Tân (2008), Nguyễn Thị Hồng Thủy (2010)…
Tuy nhiên, luận văn thạc sĩ của Lê Trường Vinh với mục tiêu nghiên cứu là xác định
nhân tố ảnh hưởng đến minh
bạch

thông tin của các doanh nghiệp niêm yết đã cho thấy
yếu tố quy mô, yếu tố lợi nhuận đo lường theo đại
lượng
tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản,
chỉ số nợ trên tổng tài sản, chỉ số tài sản cố định trên
tổng
tài sản không ảnh hưởng đến
mức độ minh bạch thông tin của các doanh nghiệp niêm
yết.
Trong khi đó, yếu tố lợi nhuận
đo lường bằng chỉ số Q lại ảnh hưởng đến minh bạch
thông
tin của các doanh nghiệp niêm
yết. Và tác giả cũng đã đề xuất
và gợi ý chính sách nhằm nâng cao
minh
bạch thông tin
các doanh nghiệp niêm yết: (i) đưa thêm chỉ số Q vào báo cáo tài
chính (quý,
năm) đồng
thời giải thích chỉ số này cho nhà đầu tư biết một cách rõ ràng; (ii) thực
hiện
khiêm
khắc biện pháp chế tài và biện pháp thị trường; (iii) bổ sung bảng báo cáo vốn
cổ
phần
của cổ đông vì nó cung cấp thông tin và nguyên nhân gây ra những biến động của
các
tài
khoản trong vốn cổ

phần.
1.7. Đề xuất mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
1.7.1. Mô hình nghiên cứu
Dựa trên mô hình nghiên cứu của các tác giả tại Thái Lan và HongKong, trong đề tài
nghiên cứu này, chúng tôi ứng
dụng
5 biến về đặc điểm tài chính được thể hiện qua mô hình
sau:
Quy mô doanh
nghiệp
Minh bạch
thông tin
Tình hình tài
chính
Đòn bẩy tài
chính
Hiệu quả sử
dụng tài sản
Tài sản cầm
cố
16
Mô hình 1.1: Mô hình các yếu tố ảnh hưởng tính minh bạch BCTC của công ty niêm yết trên
sàn Hose
1.7.2. Giả thuyết nghiên cứu
• Quy mô doanh nghiệp : Giả thiết cho rằng các doanh nghiệp có quy mô lớn
thì
minh bạch hơn công ty có quy mô nhỏ,có thể giải thích rằng doanh nghiệp có quy mô lớn
thì
có nhà đầu tư lớn hơn doanh nghiệp có quy mô nhỏ và thu hút nhiều sự chú ý hơn
từ

các
nhà phân tích. Doanh nghiệp có quy mô lớn có nhiều nguồn thông tin công bố cho
nhà
đầu
tư tốt hơn so với doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
• Đòn bẩy tài chính: Các công ty mà có đòn bẩy tài chính cao nên có mức độ
minh
bạch cao hơn bởi vì các chủ nợ yêu cầu công ty công bố thông tin nhiều hơn.
• Tình hình tài chính. Có thể tình hình tài chính trong quá khứ ảnh hưởng
đến
mức độ công bố thông tin của doanh nghiệp (Khanna & Srinivasan 2004).Ví dụ, các
doanh
nghiệp có lợi nhuận có thể muốn công bố thông tin của doanh nghiệp cho nhà đầu tư
bên
ngoài hơn là doanh nghiệp có ít lợi nhuân.
- Tài sản cầm cố: Các doanh nghiệp có giá trị tài sản cố định cao, cần phải công
bố
thông tin nhiều hơn để giúp cho người bên ngoài đưa ra được quyết định đầu tư. Điều
này
dẫn đến mối liên hệ thuận chiều giữa giá trị tài sản cầm cố và mức độ công bố thông tin.
- Hiệu quả sử dụng tài sản: Có thể các công ty với mức độ hiệu quả sử dụng tài
sản
cao thì có mức độ công bố thông tin về doanh nghiệp cao hơn so với doanh nghiệp mà

mức độ hiệu quả sử dụng tài sản thấp. Lý do rằng các doanh nghiệp với mức độ hiệu quả
sử
dụng tài sản cao có thể thu hút nhiều nhà đầu tư và nhà phân tích hơn.
Kết luận chương 1
Trong chương 1, chúng tôi đã trình bày các cơ sở lý thuyết làm tiền đề cho bài nghiên
cứu với các khái niệm về thông tin tài chính về minh bạch thông tin tài chính trên cả góc độ

17
nghiên cứu và góc độ thực hành. Chúng tôi cũng đã nêu được tầm quan trọng của minh bạch
thông tin tài chính và lựa chọn phương pháp đo lường phù hợp với 5 chỉ tiêu: sự kịp thời, sự
đầy đủ, sự chính xác, sự thuận tiện và sự nhất quán và trình bày các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng thông tin tài chính. Các nghiên cứu trước đây trên thế giới cho rằng có hai loại yếu
tố lớn của một doanh nghiệp có thể ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin và minh bạch
doanh nghiệp trong một thị trường. Loại thứ nhất bao gồm các yếu tố thuộc về tài chính của
một doanh nghiệp như quy mô doanh nghiệp, đòn bẫy tài chính, tình hình tài chính, hiệu quả
sử dụng tài sản và tài sản cầm cố; còn loại thứ hai bao gồm các yếu tố thuộc về quản trị doanh
nghiệp như mức độ tập trung vốn chủ sở hữu, quy mô Hội Đồng Quản Trị, cơ cấu Hội Đồng
Quản Trị.
Ngoài ra, chúng tôi cũng đã sơ lược được kết quả của các nghiên cứu tính minh bạch
thông tin doanh nghiệp trong và ngoài nước. Dựa trên mô hình nghiên cứu của các tác giả tại
Thái Lan và Hồng Kông, trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi ứng
dụng
5 biến về đặc
điểm tài chính như quy mô doanh nghiệp, đòn bẫy tài chính, tình hình tài chính, hiệu quả sử
dụng tài sản và tài sản cầm cố trong mô hình nghiên cứu đề xuất.
Tiếp theo, chương 2 sẽ trình bày khái quát về tình hình thực trạng công bố thông
tin của các công ty niêm yết trên sàn HOSE. Và dựa trên mẫu 50 công ty lập bảng thống
kê đánh giá tình hình minh bạch thông tin dựa trên các tiêu chí đo lường thông tin.
18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN TÀI CHÍNH, MINH BẠCH
THÔNG TIN TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT
2.1. Tình hình công ty niêm yết đang hoạt động tại sở giao dịch chứng khoán TP
HCM:
2.1.1. Theo thời gian lên sàn
Thị trường chứng khoán TP HCM ngày 28/07/2000, phiên giao dịch đầu tiên với 2 mã
cổ phiếu niêm yết đã chính thức được tổ chức tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
TP.HCM, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử của Thị trường chứng khoán Việt Nam. Sau 7

năm hoạt động, đến thời điểm tháng 08/2007 đã có 111 doanh nghiệp niêm yết và 55 công ty
chứng khoán thành viên, 18 công ty quản lý quỹ, 61 tổ chức lưu ký. Cấu trúc thị trường đã rõ
ràng và chuyên biệt hơn. Qua khảo sát thông kê, nắm bắt được tình hình các công ty niêm yết
trên sở giao dịch chứng khoán TP HCM như sau:
Số năm lên sàn Số lượng công ty
Một năm 14
Hai năm 28
Ba năm 75
Bốn năm 50
Năm năm 30
Sáu năm 34
Bảy năm 51
Tám năm 6
Chín năm 4
Mười năm 0
Mười một năm 7
Mười hai năm 2
Mười ba năm 5
19
Tổng 308
Bảng 2.1:Tổng hợp thời gian niêm yết trên sàn HOSE các công ty niêm yết.
2.1.2. Theo ngành nghề
Thông qua thống kê về các công ty niêm yết và hoạt động trên sàn chứng khoán thành
phố HCM (Hose), ngành nghề hoạt động kinh doanh của các công ty chủ yếu tập trung vào 16
nhóm ngành, được tổng hợp như sau:
STT Ngành nghề kinh doanh
Số lượng
công ty
1 Vận tải kho bãi 24
2 Công nghiệp Chế biến, Chế tạo 77

3 Xây dựng 35
4 SX và PP điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và ĐHKK 14
5 Hoạt động kinh doanh bất động sản 36
6 Dịch vụ lưu trú và ăn uống 3
7
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ
khác
38
8 Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản 8
9 Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 15
10 CC nước; HĐ Quản lý và xử lý rác thải, nước thải 2
11 Dịch vụ vui chơi giải trí 2
12 Hoạt động kinh doanh bất động sản 36
13 Khai khoáng 11
14 Thông tin và truyền thông 4
15 Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 2
16 Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 1
Tổng 308
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp phân loại chúng tôi ngành.
2.2. Thực trạng thông tin tài chính, công bố thông tin tài chính và tính minh bạch
thông tin tài chính của các công ty niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán TPHCM
2.2.1. Tình hình lập, trình bày và công bố thông tinh trên BCTC
- Tình hình chung
o Thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 10 năm đi vào hoạt động đã có những bước
phát triển đáng kể. Theo báo cáo của Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UBCKNN), số
lượng các tổ chức trung gian trên TTCK đã tăng từ 7 công ty chứng khoán và 1 công ty
quản lý quỹ lên 105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ; từ 5 công ty năm
2000 đến nay đã có gần 600 công ty và tổ chức niêm yết, giá trị vốn hóa thị trường chiếm
20
42% GDP. Bên cạnh đó, các ngân hàng, công ty tài chính, công ty chứng khoán, công ty

quản lý quỹ, các doanh nghiệp bảo hiểm, quỹ đầu tư tham gia thị trường cũng đã góp
phần hình thành nên một hệ thống nhà đầu tư chuyên nghiệp.
o Hiện nay, việc công bố thông tin của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam được
thực hiện theo Luật Chứng khoán và Thông tư số 09/2010/TT-BTC, ngày 15 tháng 01
năm 2010 của Bộ Tài chính và gần đây nhất là thông tư 52/2012/TT-BTC ngày 5 tháng 4
năm 2012. Xét về quy định lẫn thực tiễn, việc trình bày và công bố thông tin của các công
ty niêm yết hiện nay tồn tại một số bất cập làm ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến tính
minh bạch, công khai và sự phát triển bền vững của TTCK Việt Nam.
o Năm 2011, hàng loạt công ty xin gia hạn thời gian công bố BCTC điển hình là công ty
chứng khoán Mê Kông xin dời đến 29/4 vì nguyên nhân công ty nâng cấp hệ thống, sai
sót số liệu kế toán. Tiếp đến là công ty cổ phần xi măng Hà Tiên 1 (HT1) gia hạn thời
gian công bố BCTC năm 2010 đến 25/4/2011 với lý do tương tự. Thậm chí có công ty
niêm yết xin gia hạn thời gian công bố BCTC đã kiểm toán năm 2010 chậm đến 1 tháng
như Công ty cổ phần Dược phẩm Cửu Long (DCL) gia hạn thời gian công bố BCTC đến
13/5/2011 với lý do “ phần mềm kế toán của công ty đang bị lỗi”…
- Bức xúc của cổ đông vì sự thiếu minh bạch thông tin của doanh nghiệp
• Cùng với sự phát triển của thị trường, ngày càng xuất hiện nhiều dạng vi phạm mới, tinh
vi hơn, phức tạp hơn. Đặc biệt, vấn đề minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán
Việt Nam lâu nay vẫn chưa đạt mức kỳ vọng của nhà đầu tư. Những năm trước đây, khi
thị trường tăng nóng, đạt được lợi nhuận dễ dàng nên hầu hết các nhà đầu tư không quan
tâm lắm đến tính minh bạch trong thông tin. Nhưng giờ đây, khi thị trường có xu hướng
giảm, những tin đồn thiếu cơ sở khiến nhiều nhà đầu tư thua thiệt nặng nề. Minh bạch
kém cũng đồng nghĩa là thông tin chính thống lép vế trước các thông tin hành lang, tin
đồn, tin nội gián. Và hiện vẫn còn nhiều tác động của thông tin không chính thống đến thị
trường. Thông tin gắn liền với lợi ích nên có những nhóm chủ động tạo ra và sử dụng
thông tin có lợi cho mình. Tình trạng “nhập nhoạng”, không minh bạch ở thị trường
chứng khoán Việt Nam đang phát sinh nhiều vấn đề rất phức tạp, nhưng vẫn chưa có cơ
chế giám sát, chế tài hữu hiệu từ phía các cơ quan quản lý thị trường. Vì vậy, mong muốn
của toàn thị trường là Uỷ ban chứng khoán phải nổ lực đầu tư thời gian, công sức cho
việc cải thiện mức độ minh bạch thông tin:

o Quy định về việc công ty đại chúng (CTĐC) phải công bố thông tin được Bộ Tài
chính hướng dẫn thi hành tại Thông tư số 09/2010/TT-BTC và mới đây là Thông tư số
52/2012/TT-BTC thay thế Thông tư 09. Các thông tin phải công bố bao gồm báo cáo tài
chính được kiểm toán có kèm thuyết minh, báo cáo thường niên, báo cáo tình hình quản
21
trị công ty, số liệu sở hữu của cổ đông lớn và của hội đồng quản trị, biên bản và nghị
quyết đại hội đồng cổ đông.
o Không chỉ các CTĐC chưa niêm yết, ngay một số doanh nghiệp đã niêm yết cũng
thường xuyên mắc lỗi chậm công bố thông tin, nhất là thông tin về báo cáo kết quả kinh
doanh, về việc thay đổi các thành viên trong ban lãnh đạo. Các doanh nghiệp niêm yết
cũng thường xuyên chậm công bố những thông tin bất thường phải công bố trong vòng
24 tiếng.
o Về phía các nhà đầu tư, nhiều ý kiến cho rằng, cơ quan quản lý cần sử dụng các biện
pháp mạnh tay hơn thì các CTĐC mới thay đổi được thói quen “giấu” thông tin. Theo tìm
hiểu của , tại một số CTĐC, nhiều cổ đông lớn đang tìm cách gom cổ phiếu để số cổ
đông chỉ đạt thấp hơn con số 100 người, sau đó, doanh nghiệp sẽ xin rút đăng ký CTĐC
để không phải công bố thông tin. Trên sàn niêm yết, một số doanh nghiệp đang tính đến
việc hủy niêm yết cũng chỉ vì ngại công bố thông tin.
o Tình trạng chậm công bố thông tin, thậm chí không công bố thông tin tại một số
CTĐC đã diễn ra trong một thời gian dài. Đến nay, dù nhiều doanh nghiệp đã “đổi mới tư
duy” về việc cần phải minh bạch thông tin, nhưng mức độ công bố thông tin vẫn còn rất
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của cổ đông. Bên cạnh việc chờ đợi những giải pháp
mạnh tay hơn từ phía cơ quan quản lý, nhà đầu tư mong muốn các doanh nghiệp cần có ý
thức hơn cũng như chủ động hơn trong việc đưa thông tin doanh nghiệp ra công chúng.
(Theo tin nhanh chứng khoán)
- Sự minh bạch thông tin tài chính ở mức độ kém
o “Báo cáo tài chính của hầu hết doanh nghiệp không trích lập dự phòng giảm giá hàng
tồn kho” ( Nhận định của lãnh đạo ủy ban chứng khoán nhà nước ).
o Tình trạng kém minh bạch thông tin được nêu ra như sau
 Bà Hà Thị Ngọc Hà, Phó vụ trưởng Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán, Bộ Tài

chính nhận xét: “Chỉ cần nhìn qua là chúng tôi đã nhận thấy sự vô lý trong cách lập BCTC
của DN, thấy BCTC của DN chưa tuân thủ đúng quy định chuẩn mực kế toán”. Bà Hà giải
thích, trong bối cảnh kinh tế khủng hoảng, sức cầu suy giảm, hàng tồn kho trong DN tăng cao
và nợ phải thu khó đòi cũng theo đó tăng vọt, vì vậy, một BCTC trung thực, chính xác phải
phản ánh được những thực tế này. Tuy nhiên, trên BCTC năm 2011 và BCTC bán niên,
BCTC quý của hầu hết các DN công bố thời gian qua đã không thực hiện trích lập dự phòng
giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi.“Việc lập BCTC tại nhiều DN không chỉ là một
kỹ thuật, mà phải nói đã là một nghệ thuật”, bà Hà ví von. Nhiều DN dựa vào chính sách kế
toán như “cái van” để điều chỉnh lợi nhuận, chẳng hạn thay đổi thời gian khấu hao tài sản cố
định từ 15 năm lên 25 năm để giảm con số chi phí khấu hao trong năm, làm tăng lợi nhuận
của DN (Theo kiemtoan.com.vn).
22
 Ông Bùi Hoàng Hải, Phó vụ trưởng Vụ Quản lý phát hành, UBCK nói không
hiếm trường hợp DN niêm yết đã không cung cấp đủ BCTC của các công ty con, công ty liên
kết cho phía công ty kiểm toán. Do vậy, kiểm toán viên thiếu căn cứ để xác định tính chính
xác của số liệu trên BCTC hợp nhất. Kết quả là báo cáo kiểm toán của DN sẽ tồn tại một
khoản ngoại trừ của kiểm toán viên về khoản đầu tư vào công ty liên kết.Việc cung cấp không
đủ BCTC của công ty liên kết có thể giúp DN “làm đẹp” được con số lợi nhuận tức thời.
Nhưng với khoản ngoại trừ trên báo cáo kiểm toán, DN sẽ không đáp ứng điều kiện phát hành
thêm cổ phiếu để huy động vốn theo quy định của Luật Chứng khoán. Và như vậy, DN niêm
yết là đối tượng chịu thiệt đầu tiên (Theo kiemtoan.com.vn).
 Tình trạng chậm CBTT, thậm chí không CBTT tại một số CTĐC đã diễn ra
trong một thời gian dài. Đến nay, dù nhiều doanh nghiệp đã “đổi mới tư duy” về việc cần phải
minh bạch thông tin, nhưng mức độ CBTT vẫn còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
của cổ đông. Bên cạnh việc chờ đợi những giải pháp mạnh tay hơn từ phía cơ quan quản lý,
nhà đầu tư mong muốn các doanh nghiệp cần có ý thức hơn cũng như chủ động hơn trong
việc đưa thông tin doanh nghiệp ra công chúng. (Theo tin nhanh chứng khoán).
Nghiên cứu của Phạm Đức Tân (2008) kết luận, hiện tượng che dấu thông tin, dàn xếp
số liệu, làm đẹp báo cáo tài chính vẫn là hiện tượng phổ biến trong các công ty niêm yết. Bên
cạnh đó hệ thống công nghệ thông tin còn yếu kém, cộng với các yếu tố chưa phát triển đồng

bộ của thị trường dẫn đến hiện tượng quá tải, gây ra sự chậm trễ kéo dài thời gian công bố
thông tin.
Nghiên cứu của Võ Thị Ánh Hồng (2008) kết luận, đa số các nhà đầu tư đều rất quan
tâm đến thông tin kế toán và kỳ vọng vào sự minh bạch, trung thực của số liệu mặc dù hiện họ
còn chưa tin tưởng vào số liệu được công bố.
2.2.2. Khảo sát mức độ minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm yết trên sàn
TPHCM
2.2.2.1. Đối tượng và phạm vi khảo sát
- Đối tượng khảo sát là các công ty niêm yết và hoạt động trên sàn chứng khoán TP
HCM (Hose). Sau khi dựa trên dựa vào những tiêu chí đế ra, cũng như các công ty tài chính,
công ty con, phỏng vấn một số chuyên gia và chọn mẫu ngẫu nhiên, chúng tôi đã chọn được
mẫu 50 công và tiến hành thu thập dữ liệu để đánh giá mức độ minh bạch thông tin qua 5 tiêu
chí gồm sự kịp thời, sự thuận tiện, sự chính xác, sự đầy đủ và nhất quán của các công ty này.
- Phạm vi khảo sát là BCTC hợp nhất và BCTC quý 4 vào năm 2011 của 50 công ty đã
chọn mẫu.
2.2.2.2. Nội dung khảo sát
23
- Dựa trên thông tin được công bố trong các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên, báo
cáo quý 4 năm 2011, chúng tôi đã tiến hành thu thập và xử lý để nêu ra thực trạng của các tiêu
chí đã lựa chọn và mối tương quan giữa các tiêu chí này đến sự minh bạch thông tin tài chính
công bố của các công ty niêm yết tại sàn Hose.
- Từ mẫu các công ty đã chọn trên sàn Hose, chúng tôi tiến hành các bước thu thập dữ
liệu chi tiết như sau:
o Sử dụng phương pháp quan sát trong quá trình phân tích do phương pháp này khách
quan, thuận tiện và tiết kiệm trong việc thu thập dữ liệu về ngày công bố báo cáo tài chính,
hình thức công bố, của báo cáo thường niên, báo cáo quý 4 năm 2011. Quan sát được tiến
hành theo thời gian trong mục Thông tin công bố của các doanh nghiệp niêm yết trên trang
web Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh tại địa chỉ: . Qua quá
trình kiểm duyệt kỹ lưỡng của Sở giao dịch chứng khoán thành phố HCM, các thông tin lưu
trữ trên trang này đã được kiểm chứng và có độ tin cậy cao.

o Sử dụng công cụ tìm kiếm trực tuyến Google để tìm trang web của các công ty đã
chọn, sau đó vào tìm nội dung có liên quan đến công bố báo cáo tài chính trên các trang web
này.
o Các báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính năm, báo cáo tài chính quý 4 năm 2011 của
các công ty niêm yết cũng được tiến hành thu thập và kiểm tra nhằm xác định số ngày hoàn
tất báo cáo tài chính, loại ý kiến kiểm toán viên độc lập về báo cáo tài chính, các biến số khác
đại diện cho từng thành phần của hệ thống kiểm soát và sự minh bạch, đồng thời so sách các
biến dựa vào lợi nhuận sau thuế giữa báo cáo tài chính năm và báo cáo tài chính quý 4. Các
báo cáo này được thu thập trực tiếp từ trang web của Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí
Minh tại địa chỉ và trang web của công ty cổ phần chứng khoán FPT tại địa chỉ
.
2.2.2.3. Phương pháp khảo sát
Chúng tôi chủ yếu dựa trên các công cụ tìm kiếm trực tuyến và trích lục các thông tin,
ấn phẩm công bố của các cơ quan ban hành pháp luật, các cơ quan quản lý thị trường chứng
khoán, các công ty chứng khoán, các hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp để thu thập dữ liệu khảo
sát. Ngoài ra, các dữ liệu thu thập được cũng đã được kiểm chứng về nguồn cung cấp, mức độ
tin cậy, tính cập nhật để lựa chọn các dữ liệu đáng tin cậy phục vụ cho việc thống kê và phân
tích.
2.2.2.4. Kết quả khảo sát
2.2.2.4.1. Các biến đại diện sự minh bạch thông tin tài chính:
Qua quá trình thu thập, chúng tôi đã chọn ra mẫu 50 công ty được niêm yết trên sàn
Hose để thu thập thông tin và đánh giá mức độ minh bạch thông tin của các công ty niêm yết
tại sở giao dịch chứng khoán TP. HCM. Sau khi thu thập dữ liệu, chúng tôi tiến hành đánh giá
cho điểm như sau:
24
- Thu thập dữ liệu, đánh giá về mức độ minh bạch thông tin niêm yết trên sàn chứng
khoán TP.HCM tương đương 5 điểm, mỗi phần nhỏ sẽ được đánh giá là 1.25 điểm.
Theo kết quả phân tích trong Chương 1, thông tin tài chính được xem là minh bạch nếu
thông tin đó đáp ứng được các đặc tính chất lượng sau: sự kịp thời, sự thuận tiện, sự chính
xác, sự đầy đủ và nhất quán. Các đặc tính chất lượng này được xem là các biến đại diện cho

sự minh bạch thông tin tài chính nên trong nghiên cứu này các biến đại diện sẽ được đo lường
như sau:
• Sự kịp thời
Đo bằng khoảng thời gian từ thời điểm kết thúc niên độ đến thời điểm hoàn tất báo cáo
và khoảng thời gian từ thời điểm kết thúc niên độ đến thời điểm các báo cáo tài chính được
công bố trên Báo cáo thường niên. Thời điểm hoàn tất báo cáo được xác định là thời điểm
phát hành chính thức báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính, thời điểm công bố trên Báo cáo
thường niên được xác định là thời điểm công bố Báo cáo thường niên.
Việc đánh giá và cho điểm các công ty về sự kịp thời được trình bày như sau:
+ Báo cáo tài chính nộp sớm hơn 30/3/2012 được đánh giá 1.25 điểm.
+ Báo cáo tài chính nộp đúng 30/3/2012 được đánh giá 1 điểm.
+ Báo cáo tài chính nộp trễ: 15 ngày > nộp trễ, được đánh giá 0.75 điểm
+ Báo cáo tài chính nộp trễ: 15 ngày < nộp trễ ≤ 30 ngày được đánh giá 0.5 điểm.
+ Báo cáo tài chính nộp trễ: 30 ngày được đánh giá 0.25 điểm
+ Báo cáo tài chính nộp trễ: 30 ngày < nộp trễ, được đánh giá 0 điểm
• Sự thuận tiện
Đo bằng sự sẵn có của các báo cáo tài chính trên (Website) của công ty và trên Website
của Sở giao dịch chứng khoán. Để xác định mức độ sẵn có này, chúng tôi tiến hành truy cập
vào trang Web của từng công ty và tìm các tin tức hoặc các mục có đăng tải báo cáo tài chính.
Sự thuận tiện cũng đo bằng định dạng dữ liệu của báo cáo tài chính được công bố. Để
xác định loại định dạng dữ liệu công bố chúng tôi tiến hành tải xuống các file dữ liệu và sau
đó xác định loại file dữ liệu tương ứng với từng loại báo cáo. Chúng tôi cũng xem xét những
loại ngôn ngữ sử dụng của các báo cáo tài chính công bố ngoài tiếng Việt để đo lường mức độ
thuận tiện cho các nhà đầu tư quốc tế trong việc sử dụng báo cáo tài chính.
Việc đánh giá và cho điểm các công ty về sự thuận tiện được trình bày như sau:
+ Báo cáo tài chính được công bố bằng cả file PDF và file Word với ngôn ngữ trình bày
là tiếng Việt và tiếng Anh được đánh giá 1.25 điểm.
+ Báo cáo tài chính được công bố bằng file PDF được đánh giá 0.5 điểm.
• Sự chính xác
Đo lường bằng chênh lệch kết quả kinh doanh trước và sau khi kiểm toán, chênh lệch

càng lớn thì sự chính xác càng giảm và sự minh bạch cũng giảm tương ứng và ngược lại.
25
Chúng tôi tiến hành lấy báo cáo tài chính quý 4 và báo cáo tài chính năm tương ứng của từng
công ty, sau đó lấy kết quả kinh doanh sau thuế trên Báo cáo kết quả kinh doanh đã kiểm toán
so sánh với kết quả kinh doanh sau thuế lũy kế trên Báo cáo kết quả kinh doanh Quý 4.
Dựa vào doanh thu mẫu 50 công ty tính ngưỡng sai sót không đáng kể và so sánh với
chênh lệch giữa lợi nhuận sau thuế trước kiểm toán và lợi nhuận sau thuế sau kiểm toán của
50 mẫu công ty được chọn. Tính mức chênh lệch ngưỡng sai sót không đáng kể dựa theo việc
tính toán trong việc kiểm toán báo cáo tài chính như sau:
• Mức trọng yếu tổng thể = Doanh thu × Tỷ lệ mức trọng yếu tổng thể (4%).
• Mức trọng yếu thực hiện = Mức sai sót tổng thể × Tỷ lệ mức trọng yếu thực hiện.
• NSSKĐK= Mức trọng yếu thực hiện × Tỷ lệ NSSKĐK
Nêu có chênh lệch nhỏ hơn ngưỡng sai sót không đáng kể sẽ đánh giá là 0.625 điểm,
chênh lệch lớn hơn ngưỡng sai sót không đáng kể được đánh giá là 0 điểm và không có chênh
lệch sẽ được đánh là 1.25 điểm.
• Sự đầy đủ và sự nhất quán
Được đo lường qua biến trung gian đó là ý kiến của kiểm toán độc lập về báo cáo tài
chính và chất lượng của công ty kiểm toán. Vì trong quá trình kiểm toán các mục tiêu: đầy đủ
và nhất quán đã được kiểm toán viên tiến hành kiểm tra và các mức độ của các đặc tính chất
lượng đã nêu sẽ tương ứng với các loại ý kiến của kiểm toán viên đưa ra. Chúng tôi tiến hành
thu thập các ý kiến của kiểm toán độc lập trên các báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính tương
ứng của từng công ty. Dựa trên sự thu thập thông tin của các công ty kiểm toán được phép
kiểm toán các công ty niêm yết trên sàn về: doanh thu, số lượng kiểm toán viên, số lượng
nhân viên chuyên nghiệp, số lượng khách hàng. Sau đó tiến hành phân loại và cho điểm đánh
giá chất lượng và uy tính của các công ty kiểm toán như sau:
• Ý kiến của kiểm toán viên: Thông qua xem xét báo cáo kiểm toán năm 2011 của
mẫu 50 công ty niêm yết trên sàn chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh( HOSE). Thống kế
từng ý kiến của kiểm toán viên của công ty kiểm toán trong mỗi báo cáo tài chính, sau đó sẽ
phân loại từng loại ý kiến và đánh giá cho điểm. Ý kiến kiểm toán viên của 50 mẫu công ty
được niêm yết trên sàn chứng khoán gồm có 2 ý kiến là : chấp nhận toàn phần và chấp nhận

toàn phần có lưu ý.
o Chấp nhận toàn phần sẽ được 0.625 điểm.
o Chấp nhận toàn phần có lưu ý là 0 điểm.
• Chất lượng của công ty kiểm toán: Thống kê các công ty kiểm toán được cấp phép
kiểm toán cho các công ty niểm yết trên sàn HOSE sau đó phân chúng tôi các công ty kiểm
toán và đánh giá cho điểm từng công ty kiểm toán, từ số điểm đánh giá trên sẽ đánh giá điểm
cho 50 mẫu công ty được niêm yết trên sàn.
o Nhóm 1: Công ty kiểm toán Big 4: được đánh giá mỗi phần là 0.15625 điểm.

×