Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tìm hiểu chính quyền bù nhìn phong kiến Việt Nam ở Trung kì giai đoạn 1884-1925

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.5 KB, 44 trang )

ĐỀ CƯƠNG BÁO CÁO KHOA HỌC
Đề tài: Tìm hiểu chính quyền bù nhìn phong kiến Việt Nam ở Trung kì giai đoạn
1884-1925
LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi một chế độ lập ra đều có một chính quyền của mình. Chính quyền quân
chủ trong nhận thức nói chung là toàn bộ tổ chức quyền lực chính trị từ trung ương
đến địa phương. Nó thể hiện quyền lực và là công cụ phục vụ cho lợi ích của chế
độ đó.Vì vậy khi nghiên cứu về cơ cấu tổ chức của một chính quyền sẽ thấy rõ
được cái cốt lõi, thực chất của chế độ đó.
Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ở Việt Nam triều đình phong kiến nhà
Nguyễn từng bước đầu hàng nhục nhã trước sự tấn công của thực dân Pháp. Thực
dân Pháp xâm chiếm nước ta tới đâu là thiết lập ngay bộ máy thống trị của chúng
với nhân dân ta tới đó. Chúng chia nước ta thành 3 xứ: Nam Kì thuộc địa, Bắc Kì
bảo hộ, Trung Kì nửa bảo hộ. Bộ máy thống trị này ngày càng được củng cố để dựa
vào đó thực hiện mục đích thực dân của chúng.
Tại Trung Kì, thực dân Pháp tiếp tục duy trì chế độ phong kiến của quan lại
nhà Nguyễn song thực chất đó chỉ là một hình thức chính quyền bù nhìn do Pháp
lập ra để thực hiện mục đích kinh tế, chính trị của mình.
Có thể nói Trung Kì là trung tâm của triều đình Huế. Đây là nơi đại diện cao
nhất cho sự tồn tại của quan lại nhà Nguyễn bấy giờ, đồng thời cũng là nơi Pháp
duy trì chế độ nửa bảo hộ. Vì thế nghiên cứu Trung Kì thì có thể thấy được tính
chất điển hình nhất của chế độ phong kiến bù nhìn Nam triều cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX.
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các vấn đề được
đặt ra trong thời gian đó như “ Lịch sử cận đại Việt Nam”(Trần Văn Giàu), “Lịch
sử cách mạng Việt Nam” (Đào Duy Anh), “Cách mạng cận đại Việt Nam” (Trần
Huy Liệu), “Lịch sử tám mươi năm chống Pháp” (Trần Huy Liệu)…Những công
trình này đã trình bày khá sâu sắc cụ thể bối cảnh xã hội của cuộc kháng chiến
1
chống thực dân Pháp đương thời, những chính sách cai trị của thực dân Pháp với
thuộc địa Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, phong trào đấu tranh của


dân tộc ta chống lại ách đô hộ của thực dân... Đây là những nguồn sử liệu gốc hết
sức quan trọng trong công việc nghiên cứu về sau này. Nó cung cấp cho chúng ta
những phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề và nó còn là những tri thức
quan trọng giúp cho ta nhân thức về những sự kiện lịch sử và quá trình lịch sử của
dân tộc.
Tuy nhiên việc nghiên cứu sâu vào tính chất lệ thuộc của triều Nguyễn một
cách cụ thể thì còn là vấn đề mới mẻ. Hoặc có chăng là những công trình nghiên
cứu mang tính khái quát bao trùm. Tiếp cận vấn đề từ một khía cạnh hẹp hơn tôi
muốn thể hiện một cái nhìn cụ thể sâu sắc hơn về bản chất của chế độ bù nhìn Nam
triều và quyền lực thực chất của quan lại nhà Nguyễn. Đồng thời có cách đánh giá
khách quan hơn về thái độ chính trị của triều đình Phong kiến và một số quan lại
Nam triều
Mục đích của báo cáo:
Từ trước đến nay, trong lịch sử nghiên cứu về triều Nguyễn nói chung và bộ
máy quân chủ của Nam triều nói riêng có thể nói quan điểm có ý nghĩa chi phối là
“Chính quyền quân chủ Việt Nam sau Hiệp ước Patenotre (6/6/1884) là chính
quyền bù nhìn và tay sai cho giặc” và cho đến thời Bảo Đại thì mới kết thúc. Tuy
nhiên ở bài viết nhỏ này với tiêu đề “Tìm hiểu tính chất bù nhìn của Nam triều ở
Trung kì” chúng tôi muốn làm rõ hơn tính chất bù nhìn của chính quyền đó trên
từng khía cạnh, phạm vi. Đồng thời cũng muốn đánh giá lại thái độ chính trị tích
cực của một số vua quan trong lịch sử chống Pháp mà về sau này khi triều đình đã
bị biến thành một thiết chế bù nhìn, chúng ta vẫn còn ghi nhận được những hành vi
yêu nước chống sự chiếm đóng của ngoại bang của các vị vua như Hàm Nghi,
Thành Thái, Duy Tân cùng với quan lại có tinh thần yêu nước như Tôn Thất
Thuyết và phong trào Cần Vương ở khắp mọi nơi. Đó là số ít những người có ý
2
thức đầy đủ thảm cảnh bị cướp giật quyền tự chủ, độc lập của dân tộc và có những
sự nỗ lực để thoát ra khỏi tình trạng bù nhìn lệ thuộc đó.
Về phạm vi nghiên cứu:
Với báo cáo này phạm vi không gian được đề cập đến là nghiên cứu trong

giới hạn Trung kì vì thực ra sau Hiệp ước Patenotre thì quyền hạn của chính quyền
quân chủ chỉ còn tồn tại ở Trung Kì. Và như đã nói ở trên thì đây là nơi đại diện
cao nhất cho sự tồn tại của quan lại nhà Nguyễn bấy giờ, đồng thời cũng là nơi
Pháp duy trì chế độ nửa bảo hộ. Vì thế nghiên cứu Trung Kì thì có thể thấy được
tính chất điển hình nhất của chế độ phong kiến bù nhìn Nam triều cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX. Đối với phạm vi không gian thì những mốc 1884 và 1925 đều mang
những ý nghĩa nhất định. Năm 1884 là năm diễn ra việc kí kết hiệp ước đầu hành
nhục nhã của triều đình Huế trước sự tấn công của thực dân Pháp. Có thể nói từ sau
hiệp ước này Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp cho dù tên gọi ở mỗi miền
có khác nhau đi chăng nữa. Năm 1925 là năm quan trọng được đánh giấu bằng bản
Quy ước kí ngày 6/11/1925 giữa chính quyền thực dân và triều đình phong kiến.
Với bản quy ước này chính quyền thực dân đã hoàn toàn nắm quyền lập pháp hành
pháp và tư pháp. Nó đã tự lột bỏ cái nhãn hiêu “bảo hộ” giả nhân giả nghĩa của nó.
Có thể nói đây là đỉnh cao của đường lối trực trị của chính quyền thuộc địa. Bài
viết do giới hạn về mặt thời gian và tài liêu nên chỉ đề cập đến bộ máy cai trị của
thực dân ở cấp độ Trung ương, kì và tỉnh còn cấp độ lãng xã xin được tiếp tục
nghiên cứu.
Bài viết có tham khảo những tài liệu gốc, văn bản gốc, nhiều công trình
nghiên cứu có liên quan của các nhà sử học và những giáo sư đầu ngành. Em xin
chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn trực tiếp đồng thời là sự giúp đỡ chỉ bảo
nhiệt tình của Thầy cô giáo trong khoa cùng bạn bè đã giúp đỡ cho em hoàn thành
báo cáo này. Do còn nhiều hạn chế về nhận thức và trình độ nên bài viết còn nhiều
thiếu sót. Mong nhận được sự đóng góp của thầy cô và bạn bè để bổ xung và sửa
chữa. Em xin chân thành cảm ơn.
3
NỘI DUNG
4
Năm 1858 Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta mở đầu cho thời kì xâm
lược và thống trị của chúng ở Việt Nam. Triều đình Phong kiến đã lần lượt kí các
hành ước ngày 5/6/1862 và ngày 15/2/1874 với thực dân Pháp. Pháp đã từng bước

xác lập chủ quyền của mình trên lãnh thổ Việt Nam. Tiếp sau đó ngày 6/6/1884
triều đình Huế lại tiếp tục kí với Pháp bản Hiệp ước Patenotre xác lập quyền bảo hộ
của thưc dân đối với Việt Nam. Chúng đã thiết lập một hệ thống chính quyền thuộc
địa bên cạnh sử dụng hệ thống chính quyền bản xứ làm công cụ nô dịch với hai giai
đoạn chủ yếu trước và sau khi thiết lập chế độ toàn quyền Đông Dương
(17/10/1887). Vì vậy để nghiên cứu tính chất bù nhìn của chính quyền quân chủ
trong giai đoạn này thì cần phải tìm hiểu cả cơ chế hoạt động của nó và cả bộ máy
cai trị của thực dân áp đặt ở Việt Nam
1. Bộ máy chính quyền quân chủ Nam triều sau Hiệp định Patenotre
(5/6/1884) ở Trung Kì
1.1. Một số điều khoản của Hiệp định liên quan đến quyền lực thực chất
của quan lại nhà Nguyễn
Trong khoản 1 của Hiệp ước ghi rõ: “Nước Việt Nam thừa nhận sự bảo hộ
của nước Pháp, nước Pháp sẽ thay mặt Việt Nam trong mọi việc giao tiếp với ngoại
quốc và bảo hộ người Việt Nam ở ngoài nước”
1
Theo như quy định trên thì Việt Nam đã trở thành xứ bảo hộ của thực dân
Pháp. Bảo hộ là một hình thức thống trị của bọn đế quốc thực dân đối với một nước
bị xâm lược. Chúng duy trì sử dụng chính quyền tay sai và nêu chiêu bài lừa bịp là
nhằm phục vụ lợi ích của nước bị xâm lược. Theo như GS Phan Ngọc Liên định
nghĩa thì “Bảo hộ” là hình thức một nước Đế quốc bắt một nước nhỏ yếu phụ thuộc
vào mình tuy nước này vẫn có chính quyền riêng
2
. Đây là bước chuẩn bị cho mưu đồ
xâm lược làm thuộc địa của chính quyền thực dân.
Đối với các tỉnh ở Trung kì, nếu như trong Hiệp ước Hacmand (25/8/1883)
các quan lại người Việt ở cấp tỉnh vẫn được tiếp tục “cai trị như trước không phải
1
Tập tư liệu lịch sử cận đại Việt Nam . trang 98
2.Từ điển thuật ngữ lich sử phổ thông. GS Phan Ngọc Liên. tr 40,41

5
chịu một sự kiểm soát nào của người Pháp” cả ( điều 6). Nhưng sang đến Hiệp ước
6/6/1884 thì cái đoạn “…không phải chịu một sự kiểm soát nào của nước Pháp”
không còn được ghi nữa. Đây là tiền đề có tính chất pháp lí mà bọn thống trị thực
dân đã chuẩn bị để mở rộng quyền lực của bọn công sứ đầu tỉnh Trung kì.
Hiệp định cũng quy định: “Quan khâm sứ thay mặt chính phủ Pháp chủ
trương trong việc ngoại giao của Việt Nam bảo đảm sao cho việc bảo hộ được thi
hành đúng đắn mà không can thiệp đến chính sự của các tỉnh… Người ngoại quốc
muốn đi lại trong xứ Trung kì phải được quan Khâm sứ Huế hoặc quan Thống đốc
Nam kì cấp thông hành rồi duyệt đi”(khoản 5).
Như vậy điều ước Patenotre đã đặt cơ sở lâu dài và chủ yếu cho chính quyền
đô hộ của Pháp ở Việt Nam. Pháp với vai trò bảo hộ nắm mọi quyền cai quản triều
chính, còn quyền hành thực chất của triều Nguyễn trên thực tế bị tước bỏ, nhà
Nguyễn không có tự quyền quyết định công việc của đất nước mà tất cả những mặt
chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao… đều nằm dưới sự kiểm soát của Pháp.
1.2. Bộ máy chính quyền Nam triều
Từ sau khi Pháp thiết lập chế độ “Toàn quyền Đông Dương” bộ máy cai trị
của chính quyền AnNam (Trung kì) dần có sự thay đổi và có khác về hình thức so
với Bắc Kì. Bộ máy cai trị mang tính chất “song hành” hay “lưỡng thể”
2
tức là có
hai hệ thống chính quyền song song tồn tại: Nam triều do nhà vua đứng đầu và
Pháp do viên khâm sứ Pháp đứng đầu.Với sự tồn tại của bộ máy chính quyền lưỡng
thể này thì tính chất độc lập tự chủ của chính quyền quân chủ trước đây không còn.
Toàn bộ chính quyền quân chủ bị thực dân Pháp chi phối và điều khiển. Về sau này
năm 1898 chính tên Khâm sứ Trung kì đã tuyên bố trong tờ thông tư rằng: “Từ nay
trên vương quốc An Nam không còn tồn tại hai chính quyền nữa mà chỉ có một
chính quyền duy nhất thôi”
2.
.

2
chữ dùng của TS Nguyễn Văn Khánh trong “Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa”, tr14
2
chính quyền thuộc địa ở Việt Nam- Dương Kinh Quốc, tr 153
6
Sau khi Pháp đặt Nam kì dưới chế độ thuộc địa và thành lập chức Kinh lược
sứ ở Bắc kì (26/7/1897) thì quyền lực của chính phủ Nam triều cũng chỉ giới hạn
trong phạm vi Trung kì (An Nam). Hệ thống quyền lực này được trải dọc theo 3
cấp: Trung ương- tỉnh – xã.
1.2.1. Cấp Trung ương
Trên cùng có vua. Dưới vua là các tổ chức quan lại phụ tá như: Hội đồng phụ
chính, Tứ trụ triều đình, Viện cơ mật, Viện đô sát, Phủ tôn nhân…
* Tứ trụ triều đình và Hội đồng Phụ chính
Tứ trụ triều đình gồm 4 viên quan cao cấp mang hàm “chánh nhất phẩm”với
tứơc hiệu là “Đại học sĩ” và chức năng là “quân sư”. Nếu vua nhỏ tuổi thì Tứ trụ
triều đình sẽ giữ cương vị “phụ chính đại thần” và trở thành Hội đồng phụ chính
thay vua điều hành mọi công việc trong triều đình.
Ngày 27/9/1897 vua Thành Thái ra đạo dụ “về việc tổ chức chính phủ Nam
triều” trong đó quyết định bãi bỏ Hội đồng phụ chính (khoản 1)
3
chuyển phụ chính
đại thần thành cố vấn đặc biệt của nhà vua. Cố vấn có quyền mật đàm với vua về
mọi vấn đề và sau đó thay mặt vua hội đàm với Khâm sứ. Về mặt chính quyền cố
vấn vẫn được bảo lưu danh vị Phụ chính để trực tiếp giữ chức Thượng thư của các
bộ quan trọng. Tuy nhiên đến ngày 6/11/1925 thì một điều khoản giữa toàn quyền
Đông Dương với triều đình đã được kí kết, trong đó quy định: mọi vấn đề có liên
quan đến ngạch tư pháp, đến công việc cai trị, tổ chức công sở, đến việc tuyển
dụng, thăng giám quan lại các cấp của Nam triều đều nằm trong tay Khâm sứ
Trung kì. Quyền hành của Hội đồng phụ chính chỉ còn là thay mặt vua tế lễ trời đất,
sắc phong cho Thành hoành làng xã, ban tước hiệu cho quan lại…

* Viện cơ mật
Thành viên của Viện cơ mật gồm có 4 Thượng thư nắm giữa các bộ quan
trọng nhất của triều đình, thường gọi là Tứ trụ triều đình. Viện này đặt dưới sự chủ
toạ của vua và có nhiệm vụ giúp vua lãnh đao quôc gia. Tuy nhiên dưới sức ép của
3
chính quyền thuộc địa ở Việt Nam-Dương Kinh Quốc, tr 153
-
2
Đại nam điển lệ toát yếu- Ngô sĩ Giáo, NXB tp HCM
7
thực dân Pháp ngày 27/9/1897 Thành Thái đã ra đạo dụ về việc tổ chức lại Viện cơ
mật và quy định chức năng của Khấm sứ đối với chính phủ Nam triều. Tất cả công
việc của mỗi bộ đều tập trung giải quyết ở Hội đồng cơ mật. Sau khi hội bàn Hội
đồng cơ mật phải làm tờ trình lên vua. Tờ trình đó phải được thông qua Khâm sứ
phê chuẩn và sau đó mới trình lên vua để nhà vua chuẩn y, đóng dấu và ban bố.
Khâm sứ Pháp có quyền chủ toạ Viện cơ mật và là người quyết định mọi công việc
của Viện cơ mật
* Các bộ
Triều đình vẫn thiết lập 6 bộ như trước đây. Mỗi bộ do một Thượng thu đứng
đầu. Bộ chia thành các Ty do Thám tri đứng đầu. Dưới Thám tri có Thị lang giúp
việc, dưới Thi lang có các quan lại như Lang tung, Tá lý, Viên ngoại, chủ sự, tư vụ.
Sáu Thượng thư họp lại thành Hội đồng Thượng thư.
Đạo dụ của Thành Thái ngày 27/9/1897 cũng bãi bỏ chức Hội đồng thượng
thư nhưng đến ngày 6/11/1925 lại được tái thành lập do bản Công ước kí giữa
Pháp và Nam triều. Hội đồng thượng thư đặt dưới sự chủ toạ của Khâm sứ hoặc
của viên chức Pháp đại diện cho Khâm sứ.
* Viện đô sát
Viện này đặt từ năm thứ 3 niên hiệu Gia Long. Viện đô sát có chức năng
nhiệm vụ là kiểm soát mọi hoạt động của các cấp và theo dõi việc thi hành luật
pháp cũng như quy tắc do Triều đình ban hành “ những sự tâu đối điều hay, hay

can gián điều dở đàn hặc (rạch tỏ) các tội lỗi các quan đều giao cho viện này”
2
.
Viện đô sát dần dần cũng bị Khâm sứ Pháp nắm nhất là từ năm 1897, khi mà Khâm
sứ Pháp có quyền chủ toạ cả Viện cơ mật và quyết định mọi công việc của Viện cơ
mật.
* Phủ Tôn nhân
Phủ tôn nhân do hội đồng phụ trách đặt dưới sự điều hành trực tiếp của một
người trong hoàng tộc có chức vụ cao. “ Chức quản lĩnh đại thần phủ này do đặc
chỉ của nhà vua bổ chứ không có ngạch nhất định”. Phủ Tôn nhân có trách nhiệm
8
giải quyết mọi việc có liên quan đến các thân vương công tử, công tôn của nhà vua.
Tổ chức này do nhà vua trực tiếp nắm giữ và sau năm 1897 đặt dưới sự chủ toạ của
Khâm sứ
Trên đây là toàn bộ những cơ quan của Triều đình ở cấp độ Trung ương, ở
cấp tỉnh bộ máy ấy được phân bổ như sau:
1.2.2. Cấp tỉnh
Đứng đầu mỗi tỉnh lớn có Tổng đốc, bố chánh đặc trách về thuế khoá, án sát
đặc trách về tư pháp. Đứng đầu mỗi tỉnh loại vừa có Tuần phủ, bố chánh, 1 án sát.
Đứng đầu mỗi tỉnh loại nhỏ có 1 tuần vũ (tuần phủ) phụ trách chung, 1 án sát, hoặc
1 Bố chánh, 1 án sát. Riêng Thừa Thiên nơi đóng đô của triều đình thì đứng đầu là
1 phủ doãn và 1 phủ thừa.
1.2.3. Cấp phủ, huyện, châu
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu (miền núi) có các Tri phủ, Tri huyên, Tri châu,
thay mặt công sứ và Tổng đốc (tuần phủ) cai quản từng phủ hoặc từng huyện. Có 1
số nha thuộc giúp việc như đề lại, lục sự , thừa phái. Trong “Đại nam sử lệ” có
chép: Lệ năm Thành Thái thứ 5 định rằng phàm khi có khuyết chức Tri phủ, phải
đem những viên đã làm qua chức Tri huyện mà đã được liệt vào danh sách cử tri
kham bổ Tri phủ , danh sách đã có chỉ y cho”
1.2.4. Cấp Tổng

Tổng là đơn vị hành chính trung gian giữa phủ, huyện với các làng xã trực
thuộc. Một phủ hay huyện có nhiều Tổng ( thường dưới 100 tổng) do chánh tổng
cai quản.Trong Đại Nam sử lệ cũng ghi: Lệ định phàm Tổng nào số đinh điền nhiều
và Tổng nào mà đường đi xa đến 2, 3 ngày thì phải đặt 1 cai Tổng và 1 phó Tổng.
Mỗi Tổng quản lí một số làng xã.
1.2.5. Cấp xã
Xã và Làng (thôn) là cấp cơ sở của chính quyền nhà nước. Đứng đầu là Lý
trưởng, phó lý trưởn. Thực dân Pháp duy trì tổ chức làng xã nhằm sử dùng bộ máy
kì hào phong kiến để thu thuế, bắt lính, đi phu, đàn áp nhân dân, cũng như lợi dụng
9
những phong tục tập quán lỗi thời, lạc hậu để dễ bề thống trị. Toàn quyền Đume đã
bộc lộ dã tâm này: “Theo tôi duy trì trọn vẹn thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ
kĩ mà chúng ta đang thấy đó là một điều tốt đẹp. Theo cách tổ chức này thì mỗi
làng xã sẽ là một nước cộng hoà bé nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyền lợi địa
phương. Đó là một tập thể được tổ chức rất chặt chẽ có kỉ luật và rất có trách nhiệm
với chính quyền cấp trên về những cá nhân thành viên của nó, những cá nhân mà
chính quyền cấp trên có thể không cần biêt tới, đó là điều rất thuận lợi cho công
việc của chính quyền”
4
Như vậy bộ máy chính quyền Nam triều ở An Nam sau Hiệp định Paternotre
về cơ bản không khác gì nhiều so với trước.Theo như D.G .E.Hall tác giả của cuốn
sách “ Lịch sử Đông Nam á”đã nhận xét: “đối với xứ bảo hộ thì việc thực thi quyền
lực không được trực tiếp như ở Nam Kì. Việc cai trị thực sự do các viên chức bản
xứ thực hiện dưới sự chỉ đạo của các viên chức Pháp tương ứng, nhưng viên chức
này không bao giờ can thiệp trực tiếp trừ phi đó là điều tối cần thiết. Do đó quan lại
bản xứ không phải là bung xung nhưng sự kiểm soát của Pháp vẫn là tuyệt đối”.
Đội ngũ quan lại ở cấp Trung ương (Triều đình) và các cấp tỉnh, phủ, huyện, đạo,
châu, ở Trung kì trước đấyđều do vua quan bổ dụng, thuyên chuyển, thăng giám.
“Hình thức bên ngoài của chính quỳên bản xứ rất đồ sộ điều đó cũng có ích để làm
cho sự cai trị của nước ngoài bớt khó chiu hơn”

2
. Song dần dần việc đó đã bị giới
cầm quyền thực dân ở Trung kì thâu tóm.
2. Hệ thống chính quyền của TD Pháp ở Trung Kì
Thực dân Pháp xâm chiếm nước ta tới đâu là thiết lập ngay bộ máy thống trị
của chúng đối với nhân dân ta tới đó. Đối với Nam kì không phải đợi đến khi chiếm
được toàn bộ Lục tỉnh thực dân Pháp mới tổ chức bộ máy cai trị của chúng. Mà
ngay từ khi chiếm được ba tỉnh miền Đông là Gia Định, Định Tường, Biên Hoà và
buộc triều đình nhà Nguyễn kí hiệp định đầu tiên 5/6/1862 Thực dân Pháp đã bước
đầu tổ chức bộ máy cai trị của chúng ở những nơi chúng chiếm được
4
Đai cương lịch sử Việt Nam . Tập II
2
Lịch sử Đông Nam á
10
Tại Trung kì trước Hiệp định 1884 Pháp thực hiện kế hoạch “tằm ăn lá” lấn
dần đất, chiếm dần quyền và thiết lập dần hệ thống tổ chức chính quyền của chúng
như sau:
Lúc đầu chúng đặt ra chức “đại biện” hay còn gọi là “ngoại giao đặc phái
viên tại Huế” đặt tại kinh đô Huế để “duy trì mối quan hệ hữu hảo giữa hai nước”
và giám sát việc thi hành hiệp ước15/3/1874 của triều đình Huế. Chế độ “đại biện”
này được bắt đầu từ ngày 28/7/1875 và kéo dài đến ngày 5/4/1883
Ngày 31/5/1883, Chính phủ Pháp cho đặt chức “Tổng uỷ viên”của nước
Cộng hoà pháp tại Bắc kì. Viên quan này là người đại diện cho Chính phủ Pháp cả
ở Bắc kì và Trung kì và là người chủ trì mọi công việc đối ngoại của Nam triều.
Dưới quyền của Tổng uỷ viên là các công sứ người Pháp đứng đầu mỗi tỉnh ở Bắc
kì và 1 viên Trú sứ người Pháp đóng tại kinh đô Huế thay mặt cho chính quyền
“bảo hộ” của Pháp ở Trung kì. Trú sứ không có quyền can thiệp vào nội bộ của
Nam triều song có quyền cá nhân mật đàm với vua bất kì lúc nào nếu thấy cần
thiết. Chế độ Tổng uỷ viên này chấm dứt với sự ra đời của bản Hiệp ước 6/6/1884.

Từ sau khi kí Hiệp ước năm 1884, chính quyền thực dân đã được thành lập ở
3 cấp: Trung ương , cấp kì và cấp tỉnh.
Ở TRUNG ƯƠNG: Đứng đầu cấp này là một viên tổng trú sứ chung cho cả
Bắc kì và Trung kì nên được gọi là Toàn quyền lưỡng kì hay Toàn quyền Trung-
Bắc kì. Tổng trú sứ đóng tại kinh đô Huế, là người thay mặt cho chính phủ Pháp để
duy trì mọi công việc đối ngoại của Nam triều. Chế độ tổng trú sứ tồn tại cho đến
ngày 9/5/1889 thì bị bãi bỏ theo Sác lệnh của Tổng thống Pháp, chế độ Tổng trú sứ
từ 1886 về trước đều do các võ quan nắm và từ 1886-1889 chuyển sang tay các
quan văn.
Ở CẤP KÌ: Ngày 27/1/1886, Pháp thiết lập ở Bắc kì và Trung kì mỗi nơi một
viên chức cao cấp người Pháp. Đứng đầu Bắc kì là viên Thống sứ. Đứng đầu Trung
kì là viên Khâm sứ. Cả hai viên này đều trực thuộc toàn quyền Trung- Bắc kì.
Khâm sứ có nhiệm vụ quản lý và khống chế mọi hoạt động của triều đình Huế.
11
Thống sứ có nhiệm vụ quản lý và khống chế mọi hoạt động của quan lại người Việt
ở Bắc kì.
Ở CẤP TỈNH: đứng đầu cấp tỉnh là viên công sứ người Pháp. ở Trung kì,
chức công sứ đầu tỉnh được thiết lập theo quy ước ngày 30/7/1885. Chức năng của
công sứ đứng đầu trong thời điểm này không được xác định cụ thể như ở Bắckì .
Tuy nhiên qua Hiệp ước 25/8/1883, ta thấy công sứ là người nắm giữ các vấn đề
thuộc về thương chính và công chính trong tỉnh; còn các quan lại người Việt ở cấp
tỉnh vẫn được “tiếp tục cai trị như trước, không phải chịu một sự kiểm soát nào của
nước Pháp” cả (điều 6 Hiệp ước). Nhưng phải sang đến Hiệp ước 1884 thì quyền
ấy không con nữa
Ngày 8/2/1886 Tổng thống Pháp kí sác lệnh cho phép các viên công sứ ở
Bắc kì và Trung kì được thi hành cả chức năng lãnh sự nữa, đồng thời cho phép
viên tổng Trú sứ Trung-Bắc kì tổ chức bộ máy cai trị đầu não của chúng ở cấp kì và
cấp tỉnh. Đó là phủ Thống sứ Bắc kì , Toà Khâm sứ Trung kì và các toà công sứ
các tỉnh.
Tóm lại: Đây là mô hình tổ chức chính quyền thực dân ở Trung kì trước ngày

thành lập “Liên Bang Đông Dương”. Mô hình này gần giống với mô hình Pháp đặt
tại Bắc kì. Tuy nhiên ở Bắc kì vào năm 1886, Pháp có đắt thêm chức Khâm lược sứ
nhằm tách Bắc kì ra khỏi triều đình Huế. Hạn chế quyền can thiệp của triều đình
Huế ở Bắc kì
Sau khi Pháp thiết lập chế độ “Toàn quyền Đông Dương”, bộ máy cai trị của
chúng ở Trung kì cũng có sự thay đổi, dần dần khác hơn so với Bắc kì về mặt hình
thức:
CẤP TRUNG ƯƠNG:
Kể từ sắc lệnh ngày 9/5/1889 bãi bỏ chức Tổng trú sứ Trung kì thì đứng đầu
hệ thống toàn quyền của Pháp ở đây là Khấm sứ Trung kì, chịu sự chỉ đạo trực tiếp
của Toàn quyền. Khâm sứ nắm mọi hoạt động từ cấp tỉnh trở xuỗng thông qua
Công sứ Pháp đầu tỉnh. Nói một cách tổng quát Khâm sứ Trung kì chịu trách nhiệm
12
trước toàn quyền Đông Dương về mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự, dân sự, văn
hoá, giáo dục… trên địa bàn Trung kì. Ngày 18/7/1912 Khâm sứ Trung kì ra nghị
định về việc ban cấp phẩm hàm cho công chức và binh lính người Việt Nam làm tại
các công sứ của Pháp ở Trung kì.Trong đó khẳng định Khâm sứ là người có quyền
ban cấp phẩm hàm. Những phẩm hàm do Khâm sứ ban cấp phải được coi tương
đương như phẩm hàm do nhà vua ban cấp. Ngoài ra khâm sứ có cả quyền duyệt
chiếu các đạo dụ- một hình thức văn bản thể hiện cụ thể của luật pháp dưới thời
Phong kiến- cuả nhà vua, trước khi đạo dụ đó được ban bố công khai.
Giúp việc cho Khâm sứ có một số những tổ chức phụ tá được thiết lập:
- Tòa khâm sứ Trung kì: được thiết lập theo sắc lệnh ngày 3-2-1886 của Tổng
thống Pháp. Đây là cơ quan có tính chất chỉ đạo vừa có tính chất tổng hợp rất cao
về mọi mặt hoạt động của chính quyền thực dân.
- Phòng tư vấn Liên hợp thương mại canh nông Trung kì : được thành lập
theo nghị định ngày 4-5-1897của Toàn quyền , có 1 chủ tịch, 2 phó chủ tịch (đều là
người Pháp) và một số ủy viên người Pháp lẫn người Việt.
- Hội đồng bảo hộ Trung kì: được thành lập theo Nghị định của Toàn quyền
Đông Dương ngay 8-6-1900, có nhiệm vụ thảo luận thông qua các nghị định của

khâm sứ Trung kì. Chủ tịch hội đồng là khâm sứ.
- Hội đồng học chính Trung kì: được thành lập theo nghị định của Toàn
quyền ngày 18/9/1923 của Toàn quyền có nhiệm vụ nghiên cứu đề xuất mọi vấn đề
liên quan đến học hành, thi cử Trung Kì.
- Viện dân biểu Trung Kì: Tiền thân của nó là phòng tư vấn Trung Kì, thành
lập theo đạo dụ ngày 19/4/1920 của Khải Định và được đổi thành viện dân biểu
theo Nghị định ngày 21/2/1926 của Toàn quyền. Ngày 3/7/1933 thực dân Pháp cho
phép ra đạo dụ tổ chức tại viện dân biểu. Viện có nhiệm vụ góp ý kiến cho chính
phủ Nam triều về các vấn đề kinh tế, tài chính, xã hội. Các uỷ viên ( nghị viên) đại
diên cho ba khối người: Toàn bộ dân đinh người Kinh ( theo tỷ lệ, 1/3 vạn ), các
13
thương gia có đóng thuế môn bài, dân đinh các dân tộc. Mỗi năm viện họp một
khoá tại Huế.
Có thể nói Pháp đã lập ra rất nhiều những tổ chức cơ quan hỗ trợ tư vấn ở
cấp độ Trung ương. Đây là hệ thống ngụy trang mà Pháp sử dụng. Hội đồng tư vấn
bản xứ Trung Kì là một ví dụ tuyệt vời về hệ thống nguỵ trang này. Người Pháp lập
râ song không trao cho các Hội đồng này chút quyền lực chính trị nào. Dự toán
ngân sách của xứ bảo hộ được trình bày trước Hội đồng này nhưng đó cũng chỉ là
hình thức thôi .
Ở CẤP TỈNH:
Cấp tỉnh ở Trung kì: Tại mỗi tỉnh Trung kì, theo quy ước ngày 30/7/1885,
chính quyền thực dân đã đặt chức công sứ người Pháp để nắm giữ các vấn đề về
công chính và thương mại. Thể theo Hiệp ước 25/8/1883 “các quan công sứ có
quyền phân xử những việc kiện cáo dân sự tài sản và buôn bán giữa những người
Âu châu và người bản xứ, giữa những người này với những người muốn được sự
bảo hộ của Pháp”. Điều 17: “ các viên công sứ kiểm soát việc tuần phòng các thị
trấn mở mang đến đâu thì quyền kiểm soát quan lại bản xứ của các viên công sứ
cũng mở rộng đến đó”
5
Năm 1886 thể theo Hiệp ước ngày 25/8/1883, chính quyền thực dân ở chính

quốc cho phép công sứ được thi hành cả chức năng lãnh sự. Ở các tỉnh lớn hoặc
quan trọng có đặt thêm phó sứ.
Như vậy với những điều khoản trên, quyền lực của công sứ được dần dần
củng cố và mở rộng. Công sứ đã trở thành người thay mặt cho Khâm sứ để nắm và
chỉ đạo mọi hoạt động từ cấp tỉnh trở xuống.
Các tổ chức phụ tá của công sứ gồm có:
- Toà công sứ: được thiết lập ngày 3/2/1886 theo sác lệnh của Tổng thống
Pháp. Cũng giống như toà khâm sứ các tỉnh ở Bắc kì, nó cũng có các phòng ban
tương tự
5
Tập tư liệu lịch sử cận đại.Tr 15
14
- Hội đồng hàng tỉnh: được thành lập theo đạo dụ ngày 29/1/1923 của Duy
Tân. Đạo dụ này quy định rõ tên gọi: Hội đồng kì mục bản xứ hàng tỉnh gọi tắt là
Hội đồng hàng tỉnh. Hội đồng có nhiệm vụ góp ý kiến với chính quyền các vấn đề
có tính chất kinh tế xã hội, phân chia địa vực hành chính, bảo quản xây dựng đường
xá, đê điều.
+ Về số lượng và thành phần của uỷ viên hội đồng: sẽ do khâm sứ ấn định
cho từng tỉnh. Uỷ viên của Hội đồng hàng tỉnh Trung kì được tuyển lựa từ ba
nguồn. Một là hành ngũ chánh tổng của các phủ, huyện người Kinh. Hai là hành
ngũ chánh tổng của các tổng người dân tộc. Đại biểu này do công sứ hội đồng cùng
quan tỉnh trực tiếp lựa chọn. Ba là hàng ngũ các thân hào, nhân sĩ người Kinh có
tiếng tăm. Số đại biểu này do công sứ hiệp đồng cùng giới cầm quyền hàng tỉnh lựa
chọn. Danh sách hội đồng uỷ viên hội đồng hàng tỉnh dù thông qua bầu cử hay
thông qua lựa chọn của công sứ cuối cùng đều phải được khâm sứ Pháp duyệt y.
+ Về hoạt động: hàng năm vào đầu tháng 5 Hội đồng hàng tỉnh Trung Kì
phải họp khoá thường kì tại toà công sứ. Mỗi cuộc họp của Hội đồng đều do công
sứ Pháp chủ toạ với tư cách là chủ tịch hội đồng hàng tỉnh. Các cuộc họp này phải
có biên bản ghi bằng chữ Pháp và chữ Nho.
Như vậy với cấp tỉnh ở Trung kì thực dân Pháp đã thành lập ách thống trị của

mình bằng cách đặt chức công sứ do người Pháp nắm giữ. Đồng thời các viên công
sứ này lại có các tổ chức phụ tá giúp sức sẽ thống nhất trong tay mọi việc thuế vụ,
giám sát từ việc thu nạp đến việc sử dụng.
CẤP THÀNH PHỐ Ở TRUNG KÌ:
Thành phố đầu tiên được thành lập ở Trung Kì là Đà Nẵng theo Nghị định
ngày 24/5/1889 của Toàn quyền sau khi Đồng Khánh ra dụ ngày 1/10/1888 nhượng
cho Pháp quỳên sở hữu hoàn toàn khu vực ấy. Đà Nẵng là thành phố cấp II do một
đốc lý người Pháp đứng đầu có phụ ta giúp việc.
Ngoài ra chính quyền thực dân còn cho chuyển một số thị xã quan trọng lên
thành phố cấp III do công sứ kiêm đốc lí như: Vinh, Thanh Hoá
15
CẤP XÃ Ở TRUNG KÌ:
Đối với cấp xã ở Trung Kì tuy thực dân Pháp không trực tiếp can thiệp xong
chúng đã thông qua chính quyền Nam triều để với tay tới cấp xã. Trong phạm vi
báo cáo này do hạn chế về tư liệu tôi xin phép không trình bày sâu về chính quyền
thực dân Pháp tổ chức ở cấp xã ở Trung Kì
Như vậy Pháp với sức manh quân sự và tiềm lực kinh tế của mình đã dần dần
cho chân vào triều đình nước ta. Sau khi thành lập Liên Bang Đông Dương Pháp đã
tiến hành củng cố,cải cách, hoàn thiện bộ máy thống trị của mình. Đứng đầu chính
quyền cai trị ở Trung Kì là 1 viên khâm sứ Pháp tập trung trong tay quyền lập
pháp, tư pháp, hành pháp. Tiếp đến mỗi tỉnh ở Trung Kì do một viên công sứ đảm
nhận cùng với những tổ chức cơ quan phụ giúp thực hiện tốt những chức năng
nhiệm vụ của công sứ. Hệ thống chính quyền mà Pháp xây dựng ở Trung Kì đã làm
cho chính quyền thống trị ở Trung Kì dần dần có sự thay đổi có những nét khác
biệt so với Bắc kì và Nam Kì. ở Trung Kì có hai hệ thống chính quyền song song
tồn tại: Nam triều do nhà Nguyễn đứng đầu và Pháp do viên khâm sứ Pháp đứng
đầu. Đây là chế độ cai trị mang tính “ song hành”, “ lưỡng thể”
6
. Tức là có sự tồn
tại đồng thời của hai hệ thống chính quyền của Pháp và của Nam triều.Tuy nhiên

theo phân tích trên thực tế toàn bộ chính quyền triều Nguyễn đã bị thực dân Pháp
chi phối và điều khiển. Ngày 24/8/1898 khâm sứ Trung kì đã tuyên bố trong tờ
thông tư rằng: “ từ nay trên vương quốc An Nam không còn tồn tại hai chính quyền
nữa , mà chỉ còn một chình quyền duy nhất thôi” tức là chính quyền của thực dân
Pháp.
Điều này có nghĩa là, trong quá trình thực dân Pháp củng cố bộ máy thống trị
của chúng cũng tức là quá trình mà quyền thế của triều đình Huế và của quan lại
người Việt ngày một bị lấn dần và rút hẹp lại.Quyền nội chính dần dần bị mất, mọi
quyền trị dân thu thuế đều thuộc về thực dân Pháp, đến nỗi về sau ngay cả kinh phí
triều đình cũng do Pháp quyết định, quyền ngoại giao cũng bị lấn dần và bị Pháp
6
Đọc cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa - Nguyễn Văn Khánh Sdd Tr14
2
Lich sử Đông Nam á, 1084 tr
16
đoạt hẳn lấy. Cả hệ thống triều đình quan lại Phong kiến trở thành bù nhìn tay sai
của Pháp.
3. Bộ máy chính quyền Nam triều mang tính chất bù nhìn lệ thuộc
Từ xưa đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định tính chất bù
nhìn của chính quyền Nam triều nhưng việc tìm hiểu chỉ dừng lại ở mức độ tổng
quát mà chưa đi sâu vào chỉ ra từng đặc điểm khía cạnh cụ thể của vấn đề. Khi nói
đến tính chất bù nhìn của chính quyền quân chủ ở An Nam trước tiên cần phải giải
đáp các câu hỏi thế nào là một chính quyền bù nhìn ? chính quyền ấy có những đặc
điểm gì? sau đó mới có thể khẳng định hay phủ nhận những luận đề trên. Đây cũng
là phương pháp lịch sử được tôi sử dụng trong bài viết này.
Trong cuốn “từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông” ( GS Phan Ngọc Liên chủ
biên) đã đưa ra định nghĩa về “ bù nhìn” như sau: “ bù nhìn là người giữ một chức
vụ (hay chính phủ do người khác hoặc nước khác ) đặt ra ( hay dựng lên) và điều
khiển, bản thân không có thực quyền.” Còn trong cuốn “từ điển tiếng Việt” của
Viện ngôn ngữ học thì có định nghĩa như sau: “ bù nhìn là kẻ có chức mà không có

quyền hành, chỉ làm theo mệnh lệnh của người khác. Hai khái niệm này đều mang
đến cho ta cách hiểu thế nào thì được gọi là “bù nhìn”. Từ đó có thể rút ra được
khái niệm, đặc điểm của một chính quyền bù nhìn.
Đó là chính quyền trên thực tế bị tước hết quyền uy chính trị độc lập. Vì thế
chính quyền ấy phải làm theo chỉ đạo của một quyền lực khác. Toàn bộ những
hoạch định hay chính sách đều dưới sự chỉ đạo của thế lực đó.
Chính quyền đó không tự mình được đưa ra những quyết định mà nó muốn
kể cả những quyết định mà vốn thuộc quyền uy của nó.
Một chính quyền gọi là bù nhìn khi nó phải hành động không nhất thiết chỉ
là lợi ích của nó va nó được một quyền lực khác trả công, ban thưởng, trừng phạt
nếu không thực hiện.
17

×